Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Pháp luật về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THÚY HUỆ

PH¸P LUËT VÒ XãA Bá C¸C H×NH THøC
LAO §éNG TRÎ EM TéI TÖ NHÊT ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THÚY HUỆ

PH¸P LUËT VÒ XãA Bá C¸C H×NH THøC
LAO §éNG TRÎ EM TéI TÖ NHÊT ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY SƠN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
các công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tát cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

ĐỖ THÚY HUỆ


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ XÓA BỎ CÁC HÌNH
THỨC LAO ĐỘNG TRẺ EM TỒI TỆ NHẤT............................................ 7
1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................ 7
1.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất .............................................................................................................. 18
1.3. Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về xóa bỏ các hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất ..................................................................................... 21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 54

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÓA BỎ CÁC
HÌNH THỨC LAO ĐỘNG TRẺ EM TỒI TỆ NHẤT Ở VIỆT NAM ............55
2.1.Thực trạng lao động trẻ em và các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất tại
Việt Nam ......................................................................................................... 55
2.2. Các đặc điểm ảnh hƣởng tới việc thực hiện pháp luật về xóa bỏ các hình
thức lao động trẻ em tồi tệ nhất....................................................................... 58
2.3. Một số kết quả trong xây dựng và thực hiện pháp luật xóa bỏ các hình
thức lao động trẻ em tồi tệ nhất....................................................................... 65
2.4. Một số hạn chế trong xây dựng và thực hiện pháp luật về xóa bỏ các hình
thức lao động trẻ em tồi tệ nhất ở Việt Nam ................................................... 81


2.5. Nguyên nhân hạn chế và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật về xóa bỏ
các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất ở Việt Nam .................................... 86
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 91
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ XÓA BỎ CÁC HÌNH THỨC LAO ĐỘNG TRẺ EM TỒI TỆ
NHẤT Ở VIỆT NAM .................................................................................... 92
3.1. Dự báo xu hƣớng các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất tại Việt Nam .... 92
3.2. Phƣơng hƣớng cơ bản hoàn thiện pháp luật về xóa bỏ các các hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất ở Việt Nam ........................................................... 94
3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về xóa bỏ các hình
thức lao động trẻ em tồi tệ nhất ở Việt Nam ................................................... 98
3.4. Một số giải pháp hỗ trợ khác.................................................................. 106
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.............................................................................. 115
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................. 116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 118


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ Luật Hình Sự

BLLĐ

Bộ luật Lao động

Bộ LĐTB&XH

Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội

Chƣơng trình 130 Chƣơng trình hành động phòng chống tội
phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004
đến 2010
Công ƣớc 138

Công ƣớc về tuổi lao động tối thiểu, 1973

Công ƣớc 182

Công ƣớc nghiêm cấm và hành động khẩn cấp
xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ
nhất,1999

CRC

Công ƣớc của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em

ICCPR


Công ƣớc Quốc tế về các quyền Dân sự và
Chính trị, 1966

ICESPR

Công ƣớc quốc tế các quyền Kinh tế, xã hội
và văn hóa, 1966

ILO

Tổ chức lao động quốc tế

IPEC

Chƣơng trình quốc tế xóa bỏ lao động trẻ em

Khuyến nghị 190

Khuyến nghị về việc Cấm và những hành
động tức thời để loại bỏ những hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất, 1999

LĐTE

Lao động trẻ em

LHQ

Liên Hợp Quốc


UDHR

Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế năm 1948

UNICEF

Quỹ nhi đồng Liên Hợp quốc


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Bảng 2.1. Quy mô và cơ cấu lao động trẻ em

Trang
55

Bảng 2.2. LĐTE đang làm việc trong các nghề có nguy cơ thuộc
danh mục cấm sử dụng lao động vị thành niên và điều
kiện lao động có hại, theo nhóm tuổi và giới tính

57


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Năm 2002, tổ chức lao động quốc tế ILO và Liên hiệp quốc đã chọn
ngày 12/06 hàng năm là ngày thế giới phòng chống lao động trẻ em nhằm
nâng cao nhận thức và hành động để ngăn chặn lao động trẻ em trên phạm vi
toàn cầu. Hiện trên thế giới có 168 triệu lao động trẻ em, trong đó 115 triệu
lao động trẻ em đang phải làm việc trong các điều kiện độc hại, nguy hiểm.
Với những ảnh hƣởng tiêu cực tới quyền và sự phát triển của trẻ cũng nhƣ sự
ổn định của xã hội, các tổ chức quốc tế cũng nhƣ các quốc gia đang nỗ lực để
giảm thiểu tiến tới xóa bỏ lao động trẻ em, đặc biệt là những hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất. Lộ trình xóa bỏ hoàn toàn lao động trẻ em tồi tệ nhất
vào năm 2016 đƣợc ILO đƣa ra nhƣ một “ƣu tiên cấp bách”, tuy nhiên đến
thời điểm này có thể thấy các nƣớc thành viên đã không đạt đƣợc mục tiêu đề
ra. Chính vì vậy, xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất không
chỉ là mối quan tâm của các quốc gia mà còn là mục tiêu chung của cả cộng
đồng quốc tế.
Việt Nam có gần 1,75 triệu lao động trẻ em, đáng chú ý trong đó có 1,3
triệu trẻ em có nguy cơ phải làm việc trong các ngành nghề bị cấm sử dụng
lao động chƣa thành niên hoặc ngành nghề nguy hiểm, nặng nhọc, độc hại.
Việc trẻ em làm việc để kiếm sống đặc biệt là một số trẻ em phải làm việc
trong các môi trƣờng, các ngành nghề nặng nhọc, độc hại gây ảnh hƣởng
không tốt tới sự phát triển cả về thể chất lẫn tâm sinh lý của trẻ. Trẻ em trong
nhóm này phải tham gia hoạt động kinh tế để phụ giúp gia đình hoặc tự kiếm
sống nên thƣờng không đƣợc đi học,không có hoặc ít nhận đƣợc sự chăm sóc
từ gia đình. Hậu quả là trẻ thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần, bị suy dinh
dƣỡng thấp còi và có nguy cơ gặp rủi ro trong cuộc sống cao hơn. Trƣớc thực
1


trạng nêu trên, lao động trẻ em đã trở thành vấn đề đƣợc cả xã hội quan tâm
và Chính phủ Việt Nam cũng đã có những giải pháp, các quy định pháp luật
để can thiệp nhằm giảm thiểu, xóa bỏ và hỗ trợ đối với nhóm trẻ em này.

Là một trong những nƣớc đầu tiên tại Châu Á phê chuẩn Công ƣớc
quốc tế về quyền trẻ em, Việt Nam cũng đã phê chuẩn các công ƣớc của ILO
gồm Công ƣớc số 138 về tuổi lao động tối thiểu và Công ƣớc số 182 về xóa
bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Cùng với việc tham gia các công
ƣớc quốc tế, Việt Nam đã ban hành những quy định về pháp luật trong nƣớc
đồng thời phê duyệt và thực hiện các Chƣơng trình hành động nhằm mục tiêu
phòng ngừa, tiến tới xóa bỏ lao động trẻ em nói chung và các hình thức lao
động tồi tệ nhất nói riêng. Tuy nhiên, dù đã có những quy định của pháp luật
nhƣng tình trạng lao động trẻ em vẫn tiếp diễn, đặc biệt vẫn có một lƣợng
không nhỏ trẻ em phải làm việc trong các hình thức lao động tồi tệ nhất. Thực
trạng trên xuất phát từ nhiều các nguyên nhân về mặt xã hội nhƣ: do sự đói
nghèo, thất học và đặc biệt là hạn chế trong nhận thức của ngƣời dân khi cho
rằng lao động trẻ em là điều đƣợc thừa nhận, sự thiếu hiểu biết về các quy định
của pháp luật liên quan đến lao động trẻ em. Bên cạnh các nguyên nhân về xã
hội, còn có các nguyên nhân từ việc các quy định của pháp luật trong lĩnh vực
này vẫn còn chƣa hoàn thiện hoặc chƣa đƣợc thực hiện đầy đủ. Hệ thống pháp
luật có ít các quy định pháp lý trực tiếp về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ
em tồi tệ nhất, chế tài áp dụng cho các vi phạm này vẫn chƣa nghiêm khắc.
Đồng thời công tác giám sát và phát hiện vi phạm về sử dụng lao động trẻ em
tồi tệ nhất chƣa đƣợc sát sao, chặt chẽ; việc xử lý vi phạm, áp dụng pháp luật
trong lĩnh vực này còn bị buông lỏng và nhiều hạn chế. Các chƣơng trình hỗ trợ
và hoạt động tuyên truyền giáo dục vẫn chƣa đạt hiệu quả cao. Rất nhiều các
nguyên nhân đã khiến việc thực hiện mục tiêu xóa bỏ lao động trẻ em tồi tệ
nhất trong năm 2016 vẫn chƣa đạt đƣợc.
2


Xuất phát từ thực trạng trên, học viên quyết định lựa chọn đề tài:
“Pháp luật về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất ở Việt Nam”
để làm đề tài luận văn, mong có thể đóng góp vào việc làm rõ các quy định của

pháp luật Việt Nam về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất và đƣa
ra một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp lý liên quan đến vấn đề này cũng
nhƣ đề xuất một số các biện pháp để thực thi hiệu quả trong thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Lao động trẻ em là vấn đề nhận đƣợc sự quan tâm của xã hội, có nhiều
bài viết, tham luận và luận văn ở nhiều cấp độ khác nhau đƣợc thực hiện
nghiên cứu về vấn đề này. Ở cấp độ luận văn thạc sĩ đã có các công trình
nghiên cứu nhƣ:
Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về
ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em”, Nguyễn Thị Vân Anh, năm 2014
nghiên cứu về pháp luật quốc tế và làm rõ lý luận, thực tiễn pháp luật về ngăn
ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em ở Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ Luật học “Các công ước quốc tế về Lao động trẻ em
và các vấn đề đặt ra với Việt Nam”, Nguyễn Hoàng Phƣơng, năm 2009
nghiên cứu về các vấn đề lý luận, thực tiễn trong bảo vệ trẻ em nói chung và
chính sách đối với lao động trẻ em nói riêng.
Ngoài ra còn có một số sách chuyên khảo, bài viết và tham luận về vấn
đề lao động trẻ em: sách “Vấn đề lao động trẻ em” của tác giả Vũ Ngọc Bình,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2000; Bài viết “Giúp trẻ thoát khỏi các
hình thức lao động tồi tệ nhất: cần sự chung tay của toàn xã hội” tác giá Anh
Nguyễn, Báo giáo dục và thời đại số 22 ngày 30/5/2010; Phòng chống lạm
dụng lao động trẻ em góp phần thúc đẩy việc thực hiện quyền trẻ em ở Việt
Nam tác giả Phan Thị Lan Phƣơng, tạp chí khoa học ĐHQGHN: Luật học, tập
30, số 4 (2014) 58-64..
3


Tuy đã có những công trình nghiên cứu trƣớc đó nhƣng các công trình
này đều chỉ nghiên cứu thực trạng và pháp luật về xóa bỏ lao động trẻ em nói
chung mà chƣa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về xóa bỏ các hình

thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Đồng thời các nghiên cứu nói trên đƣợc thực
hiện từ một vài năm trƣớc đây với các tình hình thực trạng và số liệu chƣa đƣợc
cập nhật. Do đó có thể nói đề tài nghiên cứu Pháp luật về xóa bỏ các hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất ở Việt Nam là công trình đầu tiên nghiên cứu
chuyên sâu và cập nhật mới nhất các báo cáo, số liệu, quy định pháp luật quốc
tế cũng nhƣ tại Việt Nam về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này để chỉ ra một số vấn đề về lý luận và
thực tiễn về xóa bỏ lao động trẻ em tồi tệ nhất tại Việt Nam, xác định nguyên
nhân và các quyền liên quan của trẻ em bị xâm phạm. Phân tích các quy định
của pháp luật Việt Nam, tính tƣơng thích với pháp luật quốc tế và hiệu quả thực
thi pháp luật. Đƣa ra các ý kiến hoàn thiện hơn khuôn khổ các quy định pháp
luật hoặc các giải pháp thực tế để xóa bỏ lao động trẻ em tồi tệ nhất. Để thực
hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ giải quyết các nhiệm vụ sau:
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát về lao động trẻ em, các quy định của pháp luật quốc tế về
lao động trẻ em và các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Nêu tình hình
thực trạng và phân tích các nguyên nhân và các giải pháp Việt Nam đã thực
hiện để phòng ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em tồi tệ nhất.
- Nêu các quy định của pháp luật Việt Nam và so sánh tính tƣơng thích
với các quy định của pháp luật quốc tế. Hiệu quả của quá trình thực thi pháp
luật và các chƣơng trình hành động khác bên cạnh các quy định của pháp luật.
- Đề xuất các nội dung để hoàn thiện quy định của pháp luật và đƣa
4


ra kiến nghị để ngăn chặn hoặc giảm thiểu lao động trẻ em tồi tệ nhất
trong thực tiễn.
4. Phạm vi nghiên cứu

Lao động trẻ em là vấn đề liên quan đến nhiều khía cạnh trong xã hội
nhƣ về kinh tế, văn hóa, tâm lý xã hội. Tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn
này học viên sẽ chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc vế
và Việt Nam xóa bỏ lao động trẻ em tồi tệ nhất, đánh giá tính tƣơng thích của
pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế, xem xét thực tiễn thực thi các quy
định của pháp luật từ đó đƣa ra một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về
vấn đề này tại Việt Nam.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên sự tham khảo những quan điểm của các
nghiên cứu trƣớc đó cũng nhƣ tiếp cận một cách hệ thống các vấn đề lý luận
và thực tiễn về lao động trẻ em và xóa bỏ lao động trẻ em tồi tệ nhất.
Luận văn áp dụng phƣơng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đƣờng lối,
chủ trƣơng của Đảng cộng sản Việt Nam và chính sách của nhà nƣớc liên
quan đến hoàn thiện pháp luật về lao động trẻ em và xóa bỏ lao động trẻ em
tồi tệ nhất.
Học viên sử dụng nhiều phƣơng pháp trong nghiên cứu để thực hiện đề
tài nhƣ: phƣơng pháp thu thập số liệu, tổng hợp, phân tích tài liệu, so sánh;
Phƣơng pháp trao đổi với trẻ em và ngƣời dân; Phƣơng pháp nhận định, đánh
giá kết hợp với các vấn đề liên quan đến lao động trẻ em... để tổng hợp các
kiến thức và luận chứng các vấn đề nghiên cứu trong luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm một số các vấn đề liên quan đến lý
luận về lao động trẻ em và xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
5


Phân tích, đánh giá tính tƣơng thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật thế
giới, đánh giá đúng thực trạng lao động trẻ em tại Việt Nam hiện nay và vấn
đề thực thi pháp luật để xóa bỏ lao động trẻ em tồi tệ nhất. Đề xuất những

quan điểm và giải pháp để phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em cũng
nhƣ bảo vệ quyền của lao động là trẻ em.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chƣơng, 9 tiết.

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ XÓA BỎ CÁC HÌNH THỨC
LAO ĐỘNG TRẺ EM TỒI TỆ NHẤT
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm trẻ em và quyền trẻ em
Khái niệm trẻ em
Trẻ em là khái niệm tồn tại trong nhiều ngành khoa học và mỗi ngành
đƣa ra định nghĩa khác nhau dựa trên các tiêu chí và góc độ tiếp cận đặc thù
chuyên ngành. Về mặt sinh học trẻ em là con ngƣời ở giai đoạn từ khi sinh ra
cho đến khi cơ thể dậy thì, việc xác định trẻ em dựa trên sự phát triển hoàn
thiện về mặt thể chất sinh lý của con ngƣời. Từ góc độ xã hội học thì trẻ em
không phải là ngƣời lớn thu nhỏ nhƣng là một ngƣời ở cấp dƣới của sự trƣởng
thành cần đƣợc ngƣời lớn chăm sóc và nuôi dƣỡng. Trong ngành tâm lý học,
trẻ em là giai đoạn đầu của thời kỳ trƣởng thành về tâm lý và nhân cách. Trẻ
vận động và phát triển theo quy luật riêng, sự phát triển tâm lý đó là một quá
trình trong đó có khủng hoảng và đột biến. Sự hoạt động của trẻ qua các giai
đoạn phát triển thể chất dƣới dự hƣớng dẫn của ngƣời lớn, sự tác động từ môi
trƣờng hay giáo dục làm cho tâm lý của trẻ đƣợc hình thành và phát triển.
Trong lĩnh vực pháp lý, khái niệm trẻ em thƣờng đƣợc tiếp cận theo độ tuổi,
nghĩa là một ngƣời sẽ đƣợc coi là trẻ em khi ở dƣới một độ tuổi theo quy
định. Trẻ em là những ngƣời ở dƣới độ tuổi trƣởng thành, là đối tƣợng cần

đƣợc chăm sóc và bảo vệ. Một ngƣời sẽ đạt đƣợc sự trƣởng thành về thể chất
và tâm lý ở độ tuổi nhất định. Việc ngành khoa học pháp lý tiếp cận khái niệm
trẻ em theo độ tuổi là phù hợp với sự phát triển của con ngƣời cả về mặt sinh
học và xã hội.
Theo Công ƣớc của LHQ về Quyền trẻ em (CRC): “Trẻ em có nghĩa là
mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy
7


định tuổi thành niên sớm hơn” [22, Điều 1]. Có thể thấy, CRC đã xác định trẻ
em là ngƣời dƣới 18 tuổi song đồng thời công ƣớc cũng có quy định mở về độ
tuổi của trẻ em. Quy định 18 tuổi là mức tuổi trần nhƣng công ƣớc không bắt
buộc mà cho phép các quốc gia lấy tuổi thành niên có thể thấp hơn 18. CRC
không quy định rõ khi nào một ngƣời đƣợc coi là trẻ em nhƣng có quy định
“trẻ em cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp
về mặt pháp lý từ trước cũng như sau khi ra đời” [22, tr. 2]. Theo công ƣớc
thì việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em cần đƣợc thực hiện ngay từ giai đoạn bào
thai chứ không đợi đến lúc trẻ chào đời. Do đó, Trẻ em theo công ƣớc CRC
có thể hiểu là ngƣời đƣợc tính từ lúc là thai nhi cho tới dƣới 18 tuổi. Tuy
nhiên, với quy định mở của công ƣớc các quốc gia thành viên có thể quy định
các quyền trẻ em đƣợc bắt đầu ngay khi mang thai hay sau khi ra đời; và về
độ tuổi đƣợc coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi so với công ƣớc.
Công ƣớc số 182 của ILO xác định: thuật ngữ trẻ em sẽ áp dụng cho
những người dưới 18 tuổi [32, Điều 1]. Khác với Công ƣớc về Quyền trẻ em,
Công ƣớc 182 không để mở khả năng cho phép quốc gia thành viên quy định
độ tuổi trẻ em thấp hơn 18. Xuất phát từ mục đích của công ƣớc là xóa bỏ các
hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất do đó việc xác định tuổi của trẻ em dƣới
18 tuổi đảm bảo cho những cá thể dƣới 18 tuổi đƣợc bảo vệ khỏi các hình
thức lao động tồi tệ khi chƣa đủ trƣởng thành về thể chất và tinh thần.
Là thành viên của cả hai công ƣớc CRC và Công ƣớc 182, Việt Nam

cũng có những quy định về trẻ em phù hợp với pháp luật quốc tế. Luật Trẻ em
năm 2016 quy định: Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi [30, Điều 1].
Việc quy định trẻ em là công dân đồng nghĩa với việc xác định tuổi của trẻ
em là từ khi sinh ra cho tới dƣới 16 tuổi. Dù Việt Nam quy định độ tuổi trẻ
em là dƣới 16 tuổi, thấp hơn so với độ tuổi trẻ em của CRC, nhƣng không bị
coi là trái Công ƣớc CRC do phù hợp với quy định mở của Công ƣớc này.
8


Nhƣ vậy, trong lĩnh vực pháp lý trẻ em đƣợc xác định là một ngƣời ở
độ tuổi nhất định, độ tuổi này tùy thuộc vào pháp luật của từng quốc gia
nhƣng không trái với quy định của luật quốc tế. Trẻ em phát triển và trƣởng
thành dần theo thời gian từng độ tuổi, pháp luật các quốc gia có thể căn cứ
vào từng độ tuổi khác nhau mà quy định cho trẻ em tham gia vào các quan hệ
pháp luật tùy theo khả năng nhận thức và chịu trách nhiệm về hành vi của trẻ.
Khái niệm quyền trẻ em
Quyền trẻ em là thuật ngữ đƣợc nhắc đến kể từ sau Tuyên ngôn về
quyền trẻ em năm 1924. Trong lịch sử, trẻ em đƣợc coi là “tài sản” của cha
mẹ, không có quyền quyết định hay tham gia vào các vấn đề của chính bản
thân mình. Việc bảo vệ trẻ xuất phát từ tình thƣơng, sự che chở chứ không
phải từ nghĩa vụ bảo vệ quyền [14, tr. 261]. Trong một thời gian dài quá trình
công nghiệp hóa ở châu Âu kéo theo tình trạng bóc lột sức lao động trẻ em
một cách phổ biến. Đỉnh điểm là cuộc Chiến tranh Thế Giới lần thứ nhất với
những hậu quả nặng nề đã đẩy rất nhiều trẻ em vào hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn: không đƣợc chăm sóc hay nuôi dƣỡng đầy đủ, đói nghèo và bệnh tật, bị
phân biệt đối xử - đặc biệt là các trẻ em gái. Năm 1919, một số tổ chức cứu
trợ trẻ em đã đƣợc thành lập ở Anh và Thụy Điển. Năm 1924, khi Tuyên bố
Geneva về quyền trẻ em đƣợc Hội Quốc liên thông qua thì vấn đề bảo vệ
“quyền trẻ em” mới chính thức đƣợc đề cập. Tuyên bố đánh dấu sự ra đời của
khái niệm “quyền trẻ em” và là bƣớc ngoặt quan trọng trong nhận thức và

hành động về bảo vệ trẻ em từ góc độ quyền. Tuyên bố thể hiện quan tâm đặc
biệt đến sự phát triển của trẻ em cũng nhƣ bảo vệ trẻ em trƣớc những bạo lực
và sự xâm hại, trẻ em cần có các quyền để sống và phát triển lành mạnh và an
toàn. Quyền trẻ em đảm bảo cho trẻ không còn chỉ là ngƣời tiếp thu thụ động
lòng nhân từ của ngƣời lớn mà là chủ thể tham gia của quá trình phát triển. Cha
mẹ, các chủ thể khác trong xã hội có nghĩa vụ pháp lý trong bảo vệ trẻ em.
9


Cùng với sự phát triển của luật nhân quyền quốc tế, quyền của trẻ em
đƣợc xem là quyền con ngƣời và trẻ em trở thành chủ thể đƣợc hƣởng đầy đủ
các quyền con ngƣời bình đẳng nhƣ những ngƣời trƣởng thành. Tuy nhiên, trẻ
em là đối tƣợng có sự phát triển về thể chất và tinh thần chƣa hoàn thiện, còn
non nớt và cần đƣợc ngƣời lớn chăm sóc, nuôi dƣỡng. Do đó trẻ em cần đƣợc
quy định riêng với các quyền đặc thù để đảm bảo sự chăm sóc, giáo dƣỡng và
bảo vệ đặc biệt. Dựa trên cách tiếp cận đó, năm 1959 LHQ đã thông qua
Tuyên bố LHQ về Quyền trẻ em và là tiền đề để xây dựng Công ƣớc về quyền
trẻ em năm 1989. Cho đến nay CRC vẫn là công ƣớc cơ bản và toàn diện nhất
về quyền trẻ em. Là công ƣớc có nhiều thành viên nhất của hệ thống luật nhân
quyền quốc tế, CRC đã cho thấy quyền trẻ em đã trở thành khái niệm đƣợc
thừa nhận rộng rãi trên toàn thế giới.
CRC đã đƣa ra bốn nhóm quyền cơ bản mà trẻ em trên toàn thế giới
đƣợc hƣởng, bao gồm:
- Nhóm quyền đƣợc sống còn (các Điều 5, 6, 24, 26, 27): đảm bảo trẻ
đƣợc sống và đáp ứng các nhu cầu tồn tại tối thiểu.
- Nhóm quyền đƣợc bảo vệ (các Điều 2, 7, 8, 9, 10, 11, 16, 19, 20, 21,
22, 23, 25, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40): bảo vệ trẻ em khỏi bị phân biệt
đối xử, thoát khỏi sự bóc lột về kinh tế, sự lạm dụng, xâm hại về thể xác và
tinh thần, bị lơ là và bỏ rơi, bị đối xử tàn tệ
- Nhóm quyền đƣợc phát triển (các Điều 17, 18, 28, 29, 31, 32): Bao

gồm mọi hình thức giáo dục (chính quy và không chính quy) và quyền đƣợc
có mức sống đầy đủ cho sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và
xã hội của trẻ. Quyền đƣợc chăm sóc sức khoẻ, đƣợc học tập và phát triển
- Nhóm quyền đƣợc tham gia (các Điều 12, 13, 14, 15, 17, 30): Bao
gồm quyền đƣợc bày tỏ ý kiến trong mọi vấn đề có liên quan tới bản thân,
quyền đƣợc lắng nghe và đƣợc kết giao hội họp. Quyền đƣợc tiếp cận thông
tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.
10


Trên thực tế không có văn kiện pháp lý nào đƣa ra định nghĩa quyền trẻ
em là gì. Tuy nhiên, tiếp cận từ góc độ là một quyền con ngƣời thì quyền trẻ
em sẽ mang đầy đủ các đặc trƣng của quyền con ngƣời nói chung. Đồng thời
do trẻ em là đối tƣợng thuộc nhóm dễ bị tổn thƣơng cần có những quy định
đảm bảo cho trẻ nhận đƣợc sự chăm sóc, bảo vệ có hiệu quả và phát triển toàn
diện cả về thể chất, trí tuệ, đạo đức và xã hội.
Nhƣ vậy có thể khái quát: Quyền trẻ em là những quyền tự nhiên, vốn
có mà trẻ em được hưởng, được tôn trọng, bảo vệ và thực thi nhằm đảm bảo
sự sống còn, tham gia và phát triển toàn diện của trẻ [1, tr. 11].
1.1.2. Khái niệm lao động trẻ em
Hiện nay trong hệ thống pháp luật quốc tế chƣa có một quy định chung
thống nhất về khái niệm lao động trẻ em. Khác với khái niệm trẻ em, lao động
trẻ em đòi hỏi ngoài việc tiếp cận ở góc độ độ tuổi còn phải tiếp cận từ góc độ
tính chất công việc mà chủ thể phải làm. Không phải tất cả trẻ em tham gia
hoạt động kinh tế đều là lao động trẻ em, chỉ những công việc mà điều kiện
làm việc ảnh hƣởng đến sự phát triển thể chất, tinh thần, đạo đức của trẻ mới
bị xem là lao động trẻ em.
- Về góc độ độ tuổi lao động trẻ em: cả công ƣớc CRC và Công ƣớc
182 đều quy định trẻ em là ngƣời dƣới 18 tuổi, nhƣ vậy thì độ tuổi này đƣợc
cộng đồng quốc tế coi là mốc chuẩn để xác định khái niệm lao động trẻ em.

- Về góc độ tính chất công việc: lao động trẻ em gồm những công việc
có ảnh hƣởng tiêu cực tới sự phát triển toàn diện của trẻ. Là những công việc
không thể chấp nhận đƣợc với trẻ em. Cộng đồng quốc tế đã nhất trí: “lao
động trẻ em” là một thực trạng hay vấn đề xã hội có tính tiêu cực, cần đƣợc
ngăn ngừa và xóa bỏ. Lao động trẻ em bị cấm trong cả pháp luật quốc tế và
pháp luật các quốc gia.
Theo ILO, thuật ngữ lao động trẻ em thƣờng đƣợc định nghĩa là công việc
11


mà tƣớc đoạt tuổi thơ, tiềm năng, phẩm giá và là công việc có hại cho sự phát
triển về thể chất và tinh thần của trẻ [46, tr. 16]. Cụ thể là những công việc:
- Gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh
thần, đạo đức và xã hội của trẻ.
- Gây cản trở tới việc học hành của trẻ bằng cách: khiến trẻ
không đƣợc đến trƣờng, buộc trẻ phải nghỉ học sớm, buộc trẻ phải
cố gắng để vừa học vừa làm các công việc nặng nhọc mà mất nhiều
thời gian [46, tr. 16].
Theo Unicef, việc bị coi là lao động trẻ em nếu nhƣ:
- Làm việc ở độ tuổi quá sớm
- Phải làm việc quá nhiều giờ, ảnh hƣởng đến việc học tập của trẻ
- Lao động trong điều kiện xấu
- Công việc hạ thấp danh dự nhân phẩm, lòng tự trọng của
trẻ, có hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ
- Gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại cho trẻ em trên
các phƣơng diện thể chất, tinh thần, tâm lý và xã hội [42, tr. 7].
Thực tế là nhận thức về những công việc và điều kiện làm việc có thể
và không thể chấp nhận đƣợc đối với trẻ em đôi khi phụ thuộc rất lớn vào
phong tục tập quán, tâm lý xã hội, dân tộc, hoàn cảnh kinh tế và trình độ phát
triển của mỗi quốc gia khác nhau. Do đó khó có thể đƣa ra một định nghĩa

bao quát tất cả các tính chất của lao động trẻ em. Tuy nhiên, từ phân tích trên,
có thể khái quát: Lao động trẻ em là tình trạng trẻ em dưới 18 tuổi phải tham
gia vào các công việc gây cản trở việc học hành của trẻ và ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần, danh dự nhân phẩm và
đạo đức của trẻ.
Pháp luật Việt Nam chƣa có định nghĩa về lao động trẻ em mà chỉ đƣa
ra định nghĩa về lao động chƣa thành niên. BLLĐ (2012) quy định lao động
12


chƣa thành niên là người dưới 18 tuổi và phải từ đủ 15 tuổi [28, Điều 161].
Ngoài ra đƣợc sử dụng ngƣời từ đủ 13 đến dƣới 15 tuổi để làm các công việc
nhẹ và cấm sử dụng lao động dƣới 13 tuổi trừ một số công việc theo quy định
của pháp luật. Điều 165 quy định các công việc và nơi làm việc bị cấm sử
dụng lao động là ngƣời chƣa thành niên. Nhƣ vậy, một lao động chƣa thành
niên chỉ bị coi là lao động trẻ em (bị cấm) khi làm công việc dƣới độ tuổi lao
động tối thiểu (13) hay trong làm việc các điều kiện nguy hiểm, độc hại theo
quy định của pháp luật.
Có thể thấy định nghĩa về lao động chƣa thành niên trong quy định của
pháp luật Việt Nam chƣa đồng nhất với cách hiểu lao động trẻ em trong pháp
luật quốc tế. Theo đó lao động chƣa thành niên trong pháp luật Việt Nam chỉ
bị coi là bất hợp pháp khi làm việc dƣới tuổi quy định hoặc làm việc trong các
ngành nghề, điều kiện bị cấm. Trong khi đó theo nhận thức của cộng đồng
quốc tế lao động trẻ em luôn bị coi là bất hợp pháp khi trẻ làm việc dƣới độ
tuổi luật cho phép, lao động nhiều giờ, cản trở học hành của trẻ, công việc hạ
thấp nhân phẩm hoặc gây nguy hại cho sự phát triển toàn diện của trẻ em về
tâm lý, thể chất hay đạo đức xã hội [42, tr. 7-8]. Tuy vậy ILO cũng lƣu ý,
không phải tất cả công việc trẻ làm đều bị coi là lao động trẻ em cần phải xóa
bỏ. Trẻ em hoặc thanh thiếu niên tham gia các công việc không ảnh hƣởng tới
sức khỏe và sự phát triển của trẻ, không gây cản trở cho việc học hành thì

đƣợc coi là việc tích cực. Các hoạt động đó gồm những việc nhƣ giúp đỡ cha
mẹ việc nhà, hỗ trợ gia đình kinh doanh hoặc kiếm tiền ngoài giờ học. Những
hoạt động này giúp trẻ có kỹ năng và kinh nghiệm, giúp ích cho trẻ trong quá
trình trƣởng thành [46, tr. 16].
Ngoài ra, cần phân biệt một vài thuật ngữ có liên quan và thƣờng gây
nhầm lẫn với khái niệm “lao động trẻ em” nhƣ trẻ em làm việc (child work)
và trẻ em tham gia hoạt động kinh tế (economically active children)
13


- Trẻ em làm việc: theo định nghĩa của Unicef thì trẻ em hoặc thanh
thiếu niên tham gia vào công việc - các hoạt động kinh tế mà không ảnh hƣởng
xấu đến sức khỏe, sự phát triển hoặc không cản trở việc học hành của trẻ thì là
các hoạt động tích cực [60]. Thuật ngữ này đề cập đến việc trẻ em tham gia
nhiều công việc khác nhau, thông thƣờng là nhẹ nhàng và có thể chấp nhận
đƣợc. Tuy nhiên nếu trẻ làm việc khi quá nhỏ hoặc làm thời gian dài gây ảnh
hƣởng tới học tập, giải trí của trẻ thì sẽ bị coi là lao động trẻ em [42, tr. 8].
Khái niệm này hẹp hơn khái niệm lao động trẻ em do chỉ đề cập đến các công
việc không sinh lời.
- Trẻ em tham gia hoạt động kinh tế: Là khái niệm chỉ công việc sinh lời
do trẻ em thực hiện bất kể công việc đó có hay không trả lƣơng, thƣờng xuyên
hay không, thời gian ngắn hay dài. Để đƣợc xem là có tham gia vào hoạt động
kinh tế, trẻ em phải làm công việc sinh lời ít nhất trong một giờ vào ngày bất
kỳ trong tuần. Khái niệm trẻ em tham gia hoạt động kinh tế có phạm vi hẹp
hơn khái niệm lao động trẻ em do chỉ đề cập đến các công việc sinh lời.
1.1.3. Các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất
Trong khi lao động trẻ em có nhiều hình thức khác nhau thì những hình
thức lao động trẻ em tồi tệ nhất quy định trong Công ƣớc 182 đƣợc xem là các
hình thức lao động trẻ em cần đƣợc ƣu tiên loại bỏ ngay lập tức. Công ƣớc
Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi

tệ nhất (Công ƣớc số 182 của ILO, 1999) đã cho thấy có một số hình thức lao
động trẻ em mâu thuẫn với quyền con ngƣời cơ bản và cần phải đƣợc xóa bỏ
ngay lập tức. Các quốc gia thành viên phê chuẩn công ƣớc đồng nghĩa rằng,
họ cam kết để có biện pháp ngay lập tức và hiệu quả để nhằm nghiêm cấm và
xóa bỏ tất cả các hình thức lao động tồi tệ nhất cho tất cả trẻ em ở độ tuổi
dƣới 18 tuổi. Theo Điều 3 của Công ƣớc này “các hình thức lao động trẻ em
tồi tệ nhất” bao gồm:
14


a) Mọi hình thức nô lệ hay tƣơng tự nô lệ nhƣ buôn bán và vận
chuyển trẻ em, gán nợ và lao động nô lệ và lao động cƣỡng bức trong
đó có tuyển mộ cƣỡng bức trẻ em tham gia vào các xung đột vũ trang;
b) Sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em vào hoạt động mại dâm,
sản xuất các sản phẩm phim ảnh khiêu dâm hoặc biểu diễn khiêu dâm.
c) Sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em vào các hoạt động bất
hợp pháp, đặc biệt vào mục đích sản xuất và vận chuyển chất ma
tuý nhƣ đƣợc nêu tại các hiệp định quốc tế;
d) Những công việc mà tính chất hoặc các điều kiện của nó
có thể xâm hại đến sức khoẻ, an toàn và đạo đức của trẻ.
Điều 3 Công ƣớc 182 đã liệt kê cụ thể các hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất cần đƣợc ƣu tiến xóa bỏ không chậm trễ. Các hình thức lao động này
có ba nhóm đƣợc nêu trong Công ƣớc và một nhóm sẽ do các quốc gia thành
viên quy định sau khi tham chiếu ý kiến của các tổ chức liên quan và các tiêu
chuẩn theo Khuyến nghị 190 của ILO về việc cấm và loại bỏ những hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất.
Nhóm thứ nhất trong các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất đề cấp
đến các hình thức nô lệ hay tƣơng tự nô lệ đối với trẻ em, bao gồm:
- Buôn bán trẻ em là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa
chấp và / hoặc nhận của một đứa trẻ với mục đích khai thác. Trong lao động

trẻ em thì buôn bán trẻ em nhằm mục đích buộc trẻ em làm việc hoặc bóc lột.
Trẻ em bị buôn bán bởi nhiều lý do khác nhau trong đó bao gồm cả bị lao
động cƣỡng bức, mại dâm, tuyển mộ lính và trẻ ăn xin.
- Gán nợ là việc sử dụng trẻ em để trao đổi trả cho các khoản nợ và trẻ
phải lao động để xóa các khoản nợ đó. Một gia đình có thể giao con của mình
cho một ai đó để trả khoản nợ của họ và đứa trẻ sẽ phải làm việc trong nhiều
năm đến khi các khoản nợ đƣợc xóa.
15


- Lao động nô lệ là khi một ngƣời phải sống và làm việc phụ thuộc vào
một ngƣời khác, thƣờng có rất ít hoặc không đƣợc trả lƣơng.
- Lao động trẻ em cưỡng bức là hình thức buộc trẻ em phải lao động
trái với ý kiến của trẻ. Trẻ bị sử dụng trong xung đột vũ trang bị buộc phải
chiến đấu hoặc làm việc phục vụ cuộc chiến. Trẻ thƣờng bị buộc phải giết
ngƣời hoặc gây thƣơng tích cho ngƣời khác.
Nhóm thứ hai trong các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất quy định
về khai thác tình dục trẻ em. Cả trẻ em gái hoặc trẻ em trai đều có thể bị sử
dụng phục vụ ngƣời lớn trong hoạt động mại dâm, sản xuất hình ảnh khiêu
dâm hoặc biểu diễn khiêu dâm. Trẻ có thể bị mua bán cho mục đích hôn nhân,
mại dâm hoặc làm nô lệ tình dục. Rất nhiều trƣờng hợp trẻ bị bắt cóc, buôn
bán qua biên giới và bị bán làm gái mại dâm ở nƣớc ngoài. Đây là hình thức
lao động trẻ em để lại hậu quả rất nghiêm trọng cả về thể chất và tinh thần.
Trẻ có nguy cơ cao bị lạm dụng thể chất, suy dinh dƣỡng và lây nhiễm các
bệnh qua đƣờng tình dục. Đồng thời trẻ sẽ bị tổn thƣơng nặng nề về mặt tinh
thần và rất khó khăn để giúp trẻ thoát khỏi các tổn thƣơng này.
Nhóm thứ ba trong các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất đề cập tới
sử dụng trẻ em tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp. Thuật ngữ bất hợp
pháp có thể hiểu là các hành vi không đúng pháp luật hoặc tội ác. Sử dụng trẻ
em trong sản xuất và buôn bán ma túy đƣợc cho là đƣa trẻ em vào hoạt động

bất hợp pháp. Trẻ em có thể bị buộc phải làm hoặc trẻ tin rằng việc tham gia
sản xuất, vận chuyển ma túy sẽ mang lại tiền bạc cho trẻ. Những trẻ em bị sử
dụng vào sản xuất, vận chuyển ma túy có nguy cơ cao bị nghiện ma túy ở độ
tuổi rất trẻ. Bên cạnh đó, trẻ em cũng bị sử dụng vào các hoạt động bất hợp
pháp khác nhƣ: ăn cắp, cƣớp, tiêu thụ hàng hóa trộm cắp… Trẻ bị đe dọa và
sử dụng bạo lực để buộc tham gia vào các hoạt động tội phạm hay do từ áp
lục phải kiếm tiền để tồn tại hoặc trợ giúp gia đình. Trẻ em đƣờng phố, trẻ
16


lang thang hoặc đang sống đói nghèo bị sử dụng trong các tổ chức ăn xin. Trẻ
đôi khi bị cố tình làm biến dạng cơ thể, bị gây thƣơng tích để xin đƣợc nhiều
tiền hơn, chúng sẽ bị đánh đập, hành hạ nếu không xin đƣợc tiền. Trẻ em
tham gia các hoạt động bất hợp pháp thƣờng xuyên tiếp xúc với bạo lực và sẽ
gây ảnh hƣởng nghiêm trọng tới sự phát triển tinh thần và thể chất của trẻ. Trẻ
không đƣợc phát triển tốt, có khả năng sẽ bị trầm cảm, nghiện rƣợu, nghiện
ma túy và dễ trở thành tội phạm vị thành niên.
Nhóm thứ tư trong các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất đề cập tới
các công việc xâm hại tới sức khỏe, an toàn và đạo đức của trẻ. Công ƣớc
182 quy định các công việc này do các quốc gia thành viên xác định sau khi
tham khảo ý kiến các tổ chức của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động
và có tham khảo các tiêu chuẩn quốc tế tại đoạn 3 và 4 Khuyến nghị số 190
của ILO năm 1999.
Nhìn chung nhóm thứ tƣ là các công việc nguy hiểm gây tổn hại về sức
khỏe hoặc tinh thần, đạo đức của trẻ. Các công việc này do quốc gia thành
viên công ƣớc quy định dựa trên các tiêu chuẩn lao động do ILO đƣa ra. Trẻ
làm việc trong các môi trƣờng nguy hiểm chẳng hạn nhƣ hầm mỏ, nơi mà trẻ
có nguy cơ bị chết, bị thƣơng do sập hầm, nổ hoặc đá rơi. Trong công nghiệp
trẻ có phải tiếp xúc với hóa chất và các chất nguy hiểm gây bỏng hoặc chấn
thƣơng nghiêm trọng hoặc mắc các bệnh về hô hấp. Trong nông nghiệp cũng

có các nguy cơ từ các thiết bị nông nghiệp hoặc hóa chất thuốc trừ sâu ảnh
hƣởng tới trẻ em. Nhiều các loại công việc có hại cho thể chất của trẻ đặc biệt
là các công việc trẻ phải thực hiện trong thời gian dài, mang vác quá nặng…
gây tổn thƣơng và biến dạng cột sống của trẻ. Lao động trẻ em khi tham gia
công việc nguy hiểm mà không có đồ bảo hộ hoặc dùng đồ bảo hộ của ngƣời
lớn không đạt hiệu quả cao, trẻ lao động ở các điều kiện kém vệ sinh, không
đủ ánh sáng, thông gió kém.
17


Liên quan đến các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất quy định tại
Điều 3 Công ƣớc 182 chia các hình thức lao động trẻ em này thành 2 dạng là
các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất vô điều kiện và các hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất có điều kiện.
- Các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất vô điều kiện là các hình
thức đƣợc quy định tại mục (a) (b) (c) Điều 3 Công ƣớc 182, hay còn gọi là
các hình thức tồi tệ nhất “theo định nghĩa”. Các hình thức này thƣờng là bất
hợp pháp và cũng không thể chấp nhận đƣợc ngay cả với ngƣời lớn. Đây là
các hình thức mà tình trạng tồi tệ nhất sẽ không thay đổi bất kể các điều kiện
làm việc có thể đƣợc cải thiện. Các hình thức lao động này đƣợc Công ƣớc
182 xác định và cấm tuyệt đối cho tất cả các trẻ em dƣới 18 tuổi do đó gọi là
các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất “theo định nghĩa” hay vô điều kiện.
- Các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất có điều kiện là những hình
thức đƣợc nêu trong mục (d) Điều 3 Công ƣớc 182, các điều kiện cần đƣợc xác
định trong pháp luật ở cấp quốc gia. Các hình thức lao động tồi tệ ở mục (d) có
thể đƣợc thay đổi bằng cách cải thiện điều kiện làm việc. Khi các điều kiện làm
việc đƣợc cải thiện thì không còn thuộc phạm trù các hình thức tồi tệ nhất theo
quy định của Công ƣớc 182 nữa. Do đó các hình thức thuộc mục (d) đƣợc cho
là các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất có điều kiện [46, tr. 46-48].
1.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của xóa bỏ các hình thức lao động trẻ

em tồi tệ nhất
- Lao động trẻ em là hiện tƣợng xã hội bắt nguồn từ rất nhiều các
nguyên nhân khác nhau, các nguyên nhân đó có thể là nguyên nhân khách
quan nhƣ: đói nghèo, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế - chính trị, các biến
động xã hội, thiên tai, chính sách pháp luật... hay các nguyên nhân chủ quan
nhƣ: nhận thức, trình độ học vấn của cha mẹ, khó khăn trong các gia đình…
Trong đó, cộng đồng quốc tế nhất trí rằng đói nghèo là nguyên nhân chính của
18


×