Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài khi việt nam gia nhập TPP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ THU HƢƠNG

QUYỀN TỰ DO KINH DOANH TRONG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI BẰNG
TRỌNG TÀI KHI VIỆT NAM GIA NHẬP TPP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ THU HƢƠNG

QUYỀN TỰ DO KINH DOANH TRONG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI BẰNG
TRỌNG TÀI KHI VIỆT NAM GIA NHẬP TPP

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Trọng Điệp



Hà Nội – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Thu Hƣơng


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU. ............................................................................................................................ 4
CHƢƠNG 1....................................................................................................................... 10
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI ....... 10
1.1. Khái quát về quyền tự do kinh doanh ..................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm ....................................................................................................... 10

1.1.2.

Nội dung của quyền tự do kinh doanh ........................................................... 12

1.2. Khái quát về quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thƣơng mại
bằng trọng tài…..……………………………………………………………………….18
1.3. Tác động của Hiệp định TPP đến quyền tự do kinh doanh trong giải quyết
tranh chấp thƣơng mại thông qua thủ tục Trọng tài.................................................... 21
1.3.1. Tác động của thủ tục tố tụng trọng tài .............................................................. 22
1.3.2. Tác động của thủ tục lựa chọn trọng tài viên ................................................... 24
CHƢƠNG 2....................................................................................................................... 26
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI
KHI VIỆT NAM GIA NHẬP TPP ................................................................................. 26
2.1. Thỏa thuận trọng tài của các bên trong quan hệ tranh chấp nếu thỏa thuận đó
không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội ........................................................... 26
2.2. Về quyền lựa chọn trọng tài viên, thành lập Hội đồng trọng tài, ngôn ngữ
trọng tài ............................................................................................................................. 30
2.2.1. Về quyền lựa chọn trọng tài viên....................................................................... 31
2.2.2. Về quyền thành lập Hội đồng trọng tài ............................................................. 33
2.2.3. Về quyền lựa chọn ngôn ngữ trọng tài .............................................................. 36
2.3. Về quyền lựa chọn thời gian và địa điểm trọng tài ................................................ 36
2.4. Về quyền của các bên trong giai đoạn chuẩn bị giải quyết vụ việc ...................... 38
2.5. Về quyền của các bên trong phiên họp giải quyết tranh chấp .............................. 39
2.5.1. Về quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp ......................................... 39
2.2.2. Về quyền lựa chọn thủ tục giải quyết tranh chấp .............................................. 41
1


2.5.3. Về quyền yêu cầu triệu tập người làm chứng và ủy quyền, hoãn phiên họp

trong giải quyết tranh chấp thương mại ..................................................................... 43
2.6. Về quyền hòa giải trong quá trình tố tụng trọng tài .............................................. 44
2.7. Về quyền yêu cầu đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc hoặc hủy phán quyết
trọng tài ............................................................................................................................. 46
2.8. Về quyền trong việc thi hành quyết định trọng tài ................................................ 48
2.9. Về quyền thỏa thuận trọng tài đƣợc ký giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ
và ngƣời tiêu dùng ............................................................................................................ 50
CHƢƠNG 3....................................................................................................................... 53
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI ................................................ 53
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền tự do kinh doanh trong
giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài ......................................................... 53
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi các quy định của pháp luật về quyền tự do kinh doanh trong giải quyết
tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài ........................................................................... 63
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền tự do kinh doanh trong giải
quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài .............................................................. 63
3.2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Trọng tài ..................................................... 69
3.2.3. Nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về quyền tự do kinh doanh trong
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ....................................................... 72
KẾT LUẬN. ...................................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ....................................................................... 78

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TPP


: Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương

WTO

: Tổ chức Thương mại thế giới

UNCITRAL

:

Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế

BLDS

:

Bộ Luật Dân sự

3


MỞ ĐẦU
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế do Đảng Cộng sản Việt Nam đề

xướng từ Đại hội VI (12/1986) đã đem lại những thành quả to lớn về kinh tế và
xã hội. Nền kinh tế nước ta sau hơn hai mươi năm đổi mới đã có những chuyển

biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Đặc biệt, kể
từ khi trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào
ngày 07/11/2006 và gần đây nhất ngày 04/02/2016, Việt Nam chính thức ký gia
nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đánh dấu quá trình hội
nhập mạnh mẽ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, mặc
dù Hiệp định này hiện tại vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện các thủ tục pháp lý
khi Hoa Kỳ đã chính thức tuyên bố rút khỏi thành viên của TPP. Trong trường
hợp TPP chính thức có hiệu lực thì bên cạnh những khó khăn và thách thức, Việt
Nam sẽ là một trong những quốc gia được hưởng nhiều lợi ích. Một trong những
lợi ích mà Việt Nam sẽ được TPP mang lại là quyền tự do kinh doanh của các
chủ thể cũng ngày càng được mở rộng đặc biệt nội dung đó được thể hiện thông
qua các quy định của pháp luật về quyền tự do kinh doanh trong giải quyết các
tranh chấp thương mại bằng thủ tục tố tụng trọng tài.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc xảy ra các tranh chấp thương
mại là điều không thể tránh khỏi. Hiện có rất nhiều phương pháp giải quyết tranh
chấp nhưng phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đang là phương
thức được xem trọng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, làm thế nào để sáng tỏ
quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và
tận dụng hiệu quả quy định của pháp luật về quyền tự do kinh doanh trong giải
quyết tranh chấp thương mại thông qua trọng tài tại Việt Nam đang là vấn đề đặt
ra. Thực tiễn quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại
4


thông qua thủ tục tố tụng trọng tài đang có những rào cản, hạn chế một phần
hoặc toàn phần về quyền tự do kinh doanh của các chủ thể trong khi lựa chọn
hình thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án này. Có thể kể đến đó là các điều
kiện, thủ tục trọng tài khi giải quyết tranh chấp thương mại. Nói như vậy, không
có nghĩa là chúng ta đang phủ nhận vai trò của trọng tài khi giải quyết tranh chấp
thương mại nhưng không phải mọi quy định mang tính thủ tục hay điều kiện đều

hoàn toàn phù hợp trong việc thực hiện quyền tự do kinh doanh của các bên
trong nền kinh tế khi Việt Nam là một trong số các nước đang trong xu thế toàn
cầu hóa.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trong tài đã phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới. Ở Việt Nam, do đặc thù của nền kinh tế, chính trị, xã hội nên
hình thức này phát triển muộn hơn. Trước sự phát triển mạnh mẽ của đất nước,
đặc biệt là sự gia tăng về số lượng, tính chất phức tạp của các quan hệ tranh chấp
thương mại, ngày 28/4/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
204/1993/TTg về việc thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).
Mặt khác, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung cũng đã và đang hoàn thiện để
đảm bảo tốt nhất quyền tự do kinh doanh của chủ thể trong giải quyết tranh chấp
thương mại thông qua thủ tục tố tụng trọng tài. Từ thực tiễn trên, em đã quyết
định chọn đề tài “Quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương
mại bằng Trọng tài khi Việt Nam gia nhập TPP” làm đề tài cho luận văn tốt
nghiệp của mình.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn tập trung nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
quyền tự do kinh doanh nói chung, quyền tự do kinh doanh trong giải quyết
tranh chấp thương mại nói riêng và nêu lên được một cách khái quát nhất các
5


quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do kinh doanh trong giải quyết
tranh chấp thương mại thông qua thủ tục tố tụng trọng cũng như một số tác động
của Hiệp định TPP đến quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp bằng
cơ chế trọng tài tại Việt Nam nếu Hiệp định chính thức có hiệu lực.
Trên cơ sở đó tìm ra những định hướng, giải pháp nhằm xây dựng và hoàn
thiện pháp luật Việt Nam nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong giải quyết
tranh chấp thương mại thông qua thủ tục tố tụng trọng tài ở nước ta.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn đặt ra các mục tiêu
cụ thể:
Luận giải các vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh nói chung, quyền tự
do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại nói riêng và việc giải quyết
tranh chấp thương mại bằng thủ tục tố tụng trọng tài, từ đó xác định đúng đắn bản
chất, nội dung, những yếu tố chi phối quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh
chấp thương mại của các chủ thể trong nền kinh tế;
Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành thể hiện quyền tự do kinh
doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại thông qua thủ tục tố tụng trọng tài,
đánh giá thực trạng các quy định nêu trên trong thực tiễn giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài tại Việt Nam và những tác động của Hiệp định TPP đến
quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
trong trường hợp Hiệp định có hiệu lực. Từ đó chỉ ra các khó khăn, vướng mắc mà
Việt Nam đang và sẽ gặp phải và các nguyên nhân ảnh hưởng đến việc thực hiện
quyền tự do kinh doanh của các chủ thể trong giải quyết tranh chấp thương mại
bằng thủ tục tố tụng trọng tài khi Việt Nam gia nhập TPP.

6


Đưa ra những giải pháp nhằm thực tiễn hóa một cách hiệu quả các quy
định của pháp luật nhằm bảo đảm và nâng cao quyền tự do kinh doanh của các
chủ thể trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
1.3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại thông qua
thủ tục tố tụng trọng tài đang ngày càng được chú trọng trong giai đoạn hiện nay,
chính vì thế một số công trình nghiên cứu về quyền tự do kinh doanh trong giải
quyết tranh chấp thương mại nói chung và quyền tự do kinh doanh thông qua thủ
tục trọng tài nói riêng đã được tiến hành ở nước ta. Ở trong nước, đã có các bài

viết và công trình nghiên cứu ở cấp độ khác nhau về phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài, có thể nêu một số công trình như: “Quyền con người
trong thế giới hiện đại” do TS.Phạm Khiêm Ích và GS.TS Hoàng Văn Hảo chủ
biên, “Thực trạng pháp luật kinh tế ở nước ta và các quan điểm đổi mới đưa
pháp luật kinh tế vào cuộc sống” của PGS.TS Nguyễn Niên; “Một số vấn đề cấp
thiết cần giải quyết để đảm bảo quyền tự do kinh doanh” của TS.Dương Đăug
Huệ, Luận văn của Tiến sĩ Bùi Ngọc Cường năm 2001 “Xây dựng và hoàn thiện
pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta”.
Ngoài ra, vấn đề hoàn thiện pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật về
giải quyết tranh chấp thương mại thông qua thủ tục tố tụng trọng tài nhằm nâng
cao quyền tự do kinh doanh của các chủ thể còn thu hút sự chú ý của nhiều đề tài
khoa học thuộc dự án do các tổ chức quốc tế thực hiện như: Dự án của Chương
trình Phát triển Liên hợp quốc (Viết tắt là UNDP) mang tên “Tăng cường năng
lực pháp luật tại Việt Nam” (Dự án VIE/94/003) mà nội dung chính là xây dựng
khung pháp luật kinh tế phù hợp với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam nói
chung và nâng cao hiệu quả các quy định về quyền tự do kinh doanh của chủ thể
trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài tại Việt Nam nói riêng.
7


Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến
nhiều khía cạnh và ở các mức độ khác nhau của quyền tự do kinh doanh trong
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài, so với thời điểm hiện tại, pháp
luật về đảm bảo quyên tự do kinh doanh nói chung và quyền tự do kinh doanh
trong giải quyết tranh chấp thương mại thông qua thủ tục tố tụng trọng tài nói
riêng ở nước ta hiện nay đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, chưa có một công trình
nghiên cứu có hệ thống khía cạnh các quy định của pháp luật hiện hành và các
biện pháp bảo đảm quyền tự do kinh doanh của chủ thể trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại thông qua thủ tục tố tụng trọng tài khi Việt Nam gia
nhập TPP và nhất là thực trạng của pháp luật trong việc đảm bảo quyền tự do

kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở nước ta hiện
nay. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị để xây dựng và hoàn thiện pháp luật
kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh của chủ thể trong nền kinh tế khi giải
quyết tranh chấp thương mại bằng con đường trọng tài.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Quyền tự do kinh doanh nói chung và quyền tự do kinh doanh trong giải
quyết tranh chấp thương mại thông qua tố tụng trọng tài nói riêng là một trong
những vấn đề pháp lý có nội dung rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa
học. Trong khuôn khổ Luận văn này, em không có tham vọng và không có đủ
trình độ cần thiết để giải quyết tất cả các vấn đề về quyền tự do kinh doanh của
các chủ thể. Do đó, em chỉ đi tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản, khái quát
về lý luận quyền tự do kinh doanh nói chung, quyền tự do kinh doanh của các
chủ thể trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài nói riêng và những
quy định của pháp luật về quyền tự do kinh doanh thương mại trong giải quyết
tranh chấp thương mại bằng con đường trọng tài và đi sâu nghiên cứu về thực
tiễn các quy định của pháp luật thể hiện quyền tự do kinh doanh trong lĩnh vực
8


giải quyết tranh chấp thương mại để từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam trong trường hợp
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương chính thức có hiệu lực.
1.5. Bố cục của Luận văn
Luận văn được trình bày với kết cấu ba chương như sau:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận chung về quyền tự do kinh doanh và
quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại
Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền tự do kinh doanh
trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và tác động của Hiệp định
TPP đến quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do kinh doanh trong giải
quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài

Chƣơng 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam về quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài
1.6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ những đặc thù của đối tượng và phạm vi nghiên cứu, các
phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài này là:
- Phương pháp tư duy – trừu tượng;
- Phương pháp thu thập, tổng hợp, đánh giá và phân tích tài liệu;
- Phương pháp thống kê, phân loại;
- Phương pháp lô gic.
Bên cạnh đó, để có thể đánh giá một cách cụ thể, khách quan đối tượng
nghiên cứu, đề tài còn sử dụng các phương pháp hiện đại như:
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp so sánh.
9


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI BẰNG
TRỌNG TÀI
1.1.

Khái quát về quyền tự do kinh doanh

1.1.1. Khái niệm
Quyền con người là vấn đề có nội dung rộng lớn, phức tạp và luôn gắn
liền với quá trình hình thành và phát triển của nhân loại. Bản thân sự phát triển
của xã hội loài người đã chứng minh giá trị to lớn của những khát vọng về quyền
con người. Chính vì giá trị cao quý đó mà trong tư duy pháp lý của nhân loại,

quyền con người đã trở thành nội dung cơ bản nhất của lịch sử lập hiến. Trong
bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 khẳng định quyền con người là quyền
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Ở Việt Nam, có thể nói từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến sự
nghiệp đổi mới ngày nay, đường lối của Đảng và Nhà nước luôn nhất quán vì sự
nghiệp giải phóng con người. Trong Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba
Đình ngày 02/09/1945, Bác Hồ đã phát triển lý tưởng về quyền con người, nhấn
mạnh ý nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Các quyền tự do của con
người đã được ghi nhận chính thức trong các bản Hiến pháp của nước ta.
Tuy nhiên, sau khi chiến tranh kết thúc, do nhận thức sai lầm về một mô
hình Nhà nước Xã hội chủ nghĩa nên khi đất nước giành được độc lập, người dân
đã có những quyền con người, quyền công dân cơ bản thì chúng ta lại cho rằng
có thể chủ động tiến thẳng lên Chủ nghĩa xã hội bằng cách bỏ qua nền kinh tế thị
trường của chủ nghĩa tư bản. Do đó, chúng ta đã thực hiện nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Chính vì thế, hệ thống pháp luật nước ta chỉ
10


ghi nhận hai hình thức sở hữu: Nhà nước và tập thể. Đồng thời, xóa bỏ mọi hình
thức sở hữu phi xã hội chủ nghĩa khác và trong thời gian này, quyền tự do kinh
doanh đã không được ghi nhận.
Tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013,
quyền tự do kinh doanh được đặt trong chương “Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Do đó, quyền tự do kinh doanh là một trong
những quyền con người, quyền của công dân Việt Nam đã được Hiến định.
Kinh doanh là một trong những hoạt động tạo ra của cải vật chất cho xã
hội, là hoạt động hết sức đa dạng, phong phú và phức tạp của con người. Do vậy,
quyền tự do kinh doanh là một cấu thành quan trọng trong hệ thống các quyền
con người. Đó là quyền trong lĩnh vực kinh tế, “nhằm phục vụ nhu cầu vật chất
của con người, tạo ra giá trị vật chất cho xã hội và là động lực thúc đẩy sự phát

triển mạnh mẽ của xã hội. Chính vì vậy, bảo đảm quyền tự do kinh doanh là mục
tiêu Nhà nước cần hướng tới nhằm phát triển kinh tế, xã hội”. [8]
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm kinh doanh lần đầu tiên xuất hiện trong
Luật Công ty năm 1990, theo đó, kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến thiêu thị sản phẩm
hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Luật Doanh
nghiệp năm 2014 hiện hành định nghĩa về kinh doanh cũng tương tự như các
Luật trước đây (Khoản 6 Điều 4).
Qua tìm hiểu về khái niệm kinh doanh nói chung cũng như đặt dưới góc
độ tiếp cận là một trong những quyền con người quan trọng, có thể định nghĩa về
quyền tự do kinh doanh như sau: Quyền tự do kinh doanh là khả năng của con
người theo ý chí, nguyện vọng và vì lợi ích của mình quyết định cách thức thực
hiện các hoạt động sản xuất – kinh doanh từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản
11


phẩm để tạo ra lợi nhuận. Khả năng này của con người được Nhà nước ghi nhận
và bảo đảm thực hiện bằng cách biện pháp và hình thức khác nhau [10].
Kể từ thập niên 90 của thế kỷ trước, Việt Nam đã ký nhiều hiệp định song
phương. Tuy nhiên, các hiệp định thường có phạm vi bảo hộ hẹp, chỉ áp dụng
cho các hoạt động đầu tư trực tiếp, không bao gồm hoạt động đầu tư gián tiếp.
Đến thế hệ các hiệp định FTA, đặc biệt là hiệp định TPP, phạm vi cam kết đa
phương rộng hơn với các yêu cầu mở cửa thị trường, bao gồm các quy định đối
xử quốc gia, các nguyên tắc về thế quyền, cơ chế bồi thường đầu tư, cơ chế giải
quyết tranh chấp…Tinh thần chung của TPP theo nguyên tắc “chọn bỏ”, nhằm
mở rộng và thực thi quyền tự do kinh doanh toàn diện, đầy đủ hơn cho nhà đầu
tư giữa các nước thành viên. Ngoài nguyên tắc “chọn bỏ” đã đề cập ở trên, để tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp, Hiệp định TPP dành riêng một chương định hướng
loại bỏ các rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại, từ đó nâng cao
và đảm bảo quyền tự do kinh doanh đối với các chủ thể có liên quan.

1.1.2. Nội dung của quyền tự do kinh doanh
Có thể nói quyền tự do kinh doanh có nội dung rất rộng, song không phải
là vấn đề trừu tượng mà có nội dung xác định cụ thể. Nội dung đó bao gồm bởi
hệ thống các quyền tự do sau:
1.1.2.1. Quyền đƣợc bảo đảm sở hữu
Sở hữu đối với tài sản, trong đó có tư liệu sản xuất có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Trong mối quan hệ với quyền tự do
kinh doanh thì quyền tự do sở hữu là nền tảng, là tiền đề cho việc hình thành và
thực hiện quyền tự do kinh doanh. Chỉ khi được sở hữu về tài sản thì con người
mới có thể đưa tài sản đó vào quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời, chỉ khi

12


có quyền sở hữu đối với tài sản, nhà đầu tư mới có thể nghĩ tới việc lựa chọn mô
hình tổ chức kinh doanh, thành lập doanh nghiệp…
Ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới, sở hữu tư nhân không được thừa nhận.
Chúng ta chỉ chú trọng và bảo đảm hình thức sở hữu tập thể và sở hữu Nhà nước.
Kết quả là kinh tế bị kìm hãm, kém phát triển. Sau Đại hội lần thứ VI năm 1986,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức ra rằng, sự tồn tại của nhiều hình thức sở
hữu (trong đó có sở hữu tư nhân) đối với tư liệu sản xuất là khách quan, phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quyền được bảo đảm về sở hữu có
ý nghĩa hết sức quan trọng, không những đối với cá nhân, tổ chức mà còn đối với
toàn xã hội.
1.1.2.2. Quyền tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh, ngành nghề
kinh doanh, quy mô kinh doanh và địa điểm kinh doanh
Vấn đề đầu tiên mà nhà kinh doanh phải quan tâm đến khi tiến hành
hoạt động kinh doanh là lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh nào? Ngành nghề
kinh doanh gì? Quy mô kinh doanh như thế nào? Kinh doanh ở đâu? Điều đó
hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí, điều kiện và khả năng của nhà kinh doanh.

Không có bất kỳ cá nhân hay cơ quan nào có quyền can thiệp vào quyền này của
họ. Quyền tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh sẽ giúp nhà đầu tư tự chủ,
linh hoạt trong tổ chức quản lý doanh nghiệp phù hợp với ngành nghề, quy mô
kinh doanh. Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh không những khuyến
khích nhà đầu tư không ngừng tìm tòi, sáng tạo mà còn tạo thuận lợi cho họ khi
có nhu cầu thay đổi ngành nghề kinh doanh đáp ứng yêu cầu của thị trường, mở
rộng quy mô kinh doanh.
Nhà đầu tư có quyền lựa chọn quy mô kinh doanh trước khi thành lập
doanh nghiệp đồng thời có quyền thay đổi quy mô trong toàn bộ quá trình kinh
13


doanh. Địa điểm kinh doanh là nơi mà nhà đầu tư tiến hành các hoạt động kinh
doanh, yếu tố này phản ánh tính pháp lý và tính không gian của hoạt động kinh
doanh. Việc lựa chọn địa điểm kinh doanh không bị giới hạn về mặt lãnh thổ
hoặc về địa giới hành chính.
1.1.2.3. Quyền tự do thành lập và đăng ký kinh doanh, tổ chức lại doanh
nghiệp và rút khỏi thị trƣờng
Quyền tự do thành lập và đăng ký doanh nghiệp được hiểu là quyền của
cá nhân, tổ chức trong việc tạo lập tư cách pháp lý thông qua các thủ tục thành
lập, đăng ký kinh doanh. Không ai có quyền can thiệp, ngăn cản trái phép quyền
này của nhà kinh doanh. Vấn đề đặt ra là: cá nhân, tổ chức muốn có tư cách của
nhà kinh doanh hợp pháp phải tiến hành thủ tục thành lập và đăng ký doanh
nghiệp. Điều này có vi phạm quyền tự do kinh doanh hay không? Trước hết, cần
khẳng định rằng, việc thành lập và đăng ký kinh doanh là thủ tục hành chính
thông thường nhằm thừa nhận tư cách pháp lý đối với các nhà đầu tư và thể hiện
sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế. Khi cá nhân, tổ chức đã
nộp đủ hồ sơ hợp lệ thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải cấp giấy đăng ký
kinh doanh cho họ. Việc cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là góp phần
tích cực vào hoạt động quản lý Nhà nước, đồng thời cũng chính là bảo vệ lợi ích

cho bản thân nhà kinh doanh.
Tự do tổ chức lại doanh nghiệp là việc nhà đầu tư chủ động theo ý
chí, nhu cầu của mình quyết định việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập doanh
nghiệp, chuyển đổi hình thức pháp lý của doanh nghiệp…phù hợp với quy
định của pháp luật. Quyền tự do rút khỏi thị trường là việc nhà đầu tư có
quyền tự chủ chuyển nhượng vốn góp, cổ phần và các hoạt động khác nhằm
rút khỏi thị trường theo ý chí của mình phù hợp với quy định của pháp luật.

14


Tất cả các quyền này có vai trò giúp nhà kinh doanh linh hoạt trong tổ chức và
hoạt động sản xuất, kinh doanh [25].
1.1.2.4. Quyền tự do giao kết hợp đồng
Các chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn khách hàng, tự do đàm
phán, thỏa thuận và thống nhất các điều khoản của hợp đồng, tự do thỏa thuận
hình thức hay nội dung của hợp đồng trên cơ sở phù hợp với các quy định của
pháp luật. Theo đó, các chủ thể được tự do về mặt ý chí, không có chủ thể nào
có quyền áp đặt ý chí để bắt buộc hay ngăn cản chủ thể khác giao kết hợp
đồng. Quyền tự do giao kết hợp đồng xuất phát từ bản chất của hợp đồng bởi
hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất về mặt ý chí giữa các chủ thể, nhưng
không phải tất cả những thỏa thuận giữa các chủ thể đều là hợp đồng. Sự thỏa
thuận chỉ có thể trở thành hợp đồng khi ý chí của các chủ thể được thể hiện
phù hợp với “ý chí thực” của họ. Thông qua việc xác lập, thực hiện hợp đồng
các chủ thể kinh doanh có thể thực hiện hoạt động kinh doanh một cách chủ
động, sáng tạo và xác lập các biện pháp tự bảo vệc quyền và lợi ích hợp pháp
của mình một cách tốt nhất.
1.1.2.5. Quyền tự do lựa chọn phƣơng thức giải quyết tranh chấp
Thuật ngữ “tranh chấp” nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu
thuẫn về quyền và lợi ích phát sinh giữa các bên liên quan. Tổ chức Thương

mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp thương mại là tranh chấp ở phạm vi
quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các nước thành viên WTO khi
một nước cho rằng quyền lợi của mình theo một hiệp định nào đó của WTO bị
triệt tiêu đi hay bị xâm hại do việc một nước thành viên khác áp dụng một
biện pháp thương mại hoặc không thực hiện một nghĩa vụ (khiếu kiện vi
phạm); hoặc khi việc đạt được mục tiêu của hiệp định bị cản trở, triệt tiêu
15


hoặc suy giảm quyền lợi thương mại do biện pháp thương mại của một thành
viên bất kể là biện pháp này có trái với nghĩa vụ thành viên hay không (khiếu
kiện không vi phạm); hoặc khi có bất kỳ tình tiết nào đem lại thiệt hại về
quyền lợi hay cản trở đạt mục tiêu hiệp định (khiếu kiện tình huống). Hơn
nữa, một bất đồng chỉ trở thành một tranh chấp của WTO khi nó được chính
thức thông báo cho Ban Thư ký WTO. Như vậy, trong khuôn khổ WTO, tranh
chấp thương mại được hiểu là bất đồng giữa các nước thành viên WTO và bất
đồng này được thông báo chính thức cho Ban Thư ký WTO.
Ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề
cập trong Luật Thương mại năm 1997, tuy nhiên lại chỉ thừa nhận là tranh chấp
thương mại phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp
đồng trong hoạt động thương mại. Đến Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm
2003 không trực tiếp đưa ra định nghĩa về tranh chấp thương mại song với sự
hiện diện của khái niệm “hoạt động thương mại” đã tạo ra sự tương đồng trong
quan niệm về thương mại và tranh chấp thương mại của pháp luật Việt Nam với
chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế. Khoản 1 Điều 3 Luật Thương
mại năm 2005 quy định “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Như vậy có thể hiểu tranh chấp
thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ của
các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại.

Tranh chấp thương mại đòi hỏi được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ
quyền lợi của các bên, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân, góp
phần ngăn chặn sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại. Hiện nay,
tranh chấp thương mại được giải quyết bằng các phương thức: thương lượng, hòa
giải, trọng tài thương mại và tòa án. Mỗi phương thức có sự khác nhau về tính
16


chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành. Các bên có quyền tự do lựa
chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi thế mà mỗi phương thức có thể
mang lại, mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung và tính chất của
tranh chấp và thiện chí của các bên trong quan hệ tranh chấp thương mại [8].
Xuất phát từ đặc thù của hoạt động sản xuất, kinh doanh, về mặt khách
quan phải bảo đảm cho các chủ thể kinh doanh quyền tự do lựa chọn phương
thức để giải quyết tranh chấp. Quyền này thể hiện ở chỗ khi có tranh chấp xảy ra
các bên có quyền quyết định có đưa vụ tranh chấp đó ra trước cơ quan có thẩm
quyền để giải quyết hay không? Cơ quan đó là cơ quan nào? Giải quyết theo thủ
tục như thế nào? Các chủ thể hoàn toàn có quyền lựa chọn một trong các hình
thức giải quyết tranh chấp như: Hòa giải, thương lượng, tố tụng trọng tài, tố tụng
Tòa án.
Nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện tối đa cho các quan hệ kinh tế
ngày càng phát triển. Sự đa dạng của các quan hệ kinh tế làm cho các tranh chấp
thương mại ngày càng trở nên phức tạp về nội dung và gay gắt về mức độ, tính
chất. Chính điều này dẫn đến những đòi hỏi nhất định mà các phương thức giải
quyết tranh chấp phải đáp ứng tối đa nhu cầu của các nhà kinh doanh như phải
tôn trọng quyền tự định đoạt, sự thỏa thuận cho các bên tranh chấp; đảm bảo dân
chủ, uy tín của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp; việc giải quyết
tranh chấp phải tiến hành nhanh chóng và thuận lợi nhằm hạn chế tối đa sự gián
đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh và phải đạt hiệu quả thi hành cao nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ tranh chấp.

Quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp có vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm các nội dung khác của quyền tự do kinh doanh của các
cá nhân, tổ chức kinh doanh được đảm bảo và thực hiện. Mặt khác, quyền này

17


góp phần bảo vệ công bằng về quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh
doanh, góp phần xây dựng môi trường kinh doanh an toàn, lành mạnh.
1.2. Khái quát về quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp
thƣơng mại bằng Trọng tài
Giải quyết tranh chấp thương mại chính là việc lựa chọn các hình thức,
biện pháp thích hợp để giải quyết sự mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa
các chủ thể kinh doanh nhằm tái lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có
thể chấp nhận được.
Ngày nay, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận rộng rãi các hình
thức giải quyết tranh chấp như: Thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Điều
317 Luật Thương mại năm 2005 quy định về hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại bao gồm: Thương lượng giữa các bên; Hòa giải giữa các bên do một
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa
giải; Trọng tài hoặc Tòa án. Các bên trong quan hệ tranh chấp có quyền tự do
thỏa thuận lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp trên cơ sở phù hợp với nội
dung, tính chất của tranh chấp thương mại hoặc hoàn cảnh, nhu cầu và mong
muốn của mình. Trong đó, hình thức giải quyết tranh chấp thương mại qua trọng
tài là một phương thức giải quyết quan trọng và khá phổ biến. Đây là phương
thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu thế, trong đó nổi bật là tính nhanh gọn,
tính bí mật và tính phán quyết của trọng tài. Đây cũng là con đường được nhiều
doanh nghiệp trên thế giới tin tưởng và lựa chọn. Các doanh nghiệp của Việt
Nam cũng đang đi theo xu hướng này.

Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, trọng tài thương mại với tư cách là một
cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, đã và đang góp phần không nhỏ vào sự
18


ổn định của hoạt động thương mại trên thế giới. Xét về thời điểm ra đời thì
phương thức này cùng phương thức hòa giải và tòa án ra đời cùng với quá trình
hình thành và phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Một số tài liệu cho thấy rằng
những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã biết sử dụng phương thức này để giải
quyết các tranh chấp. Ở Anh, phương thức trọng tài lần đầu tiên được ghi nhận
trong Luật trọng tài năm 1697. Đến đầu thế kỷ thứ XX, một số quốc gia khác ở
Châu Âu và Châu Mỹ (trong đó có Pháp và Mỹ) đã bắt đầu thông qua các đạo
luật quy định và khuyến khích việc phân xử ở cấp trọng tài thay cho kiện tụng ở
tòa án [9].
Với bản chất là phương thức giải quyết tranh chấp không mang tính quyền
lực Nhà nước, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp ngày càng phổ biến,
được nhiều nhà kinh doanh lựa chọn bởi những ưu thế vốn có của nó. Quyền tự do
kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài được thể hiện
khái quát thông qua một số nội dung sau:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài là cơ sở để Trọng tài thương mại trở thành
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Có nghĩa là trọng tài chỉ có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp cụ thể nào đó khi các bên tranh chấp tự nguyện thỏa
thuận lựa chọn trong tài để giải quyết. Tuy nhiên, khi giữa các bên đã có một thỏa
thuận trọng tài hợp pháp theo quy định của pháp luật thì việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài trở thành một yêu cầu bắt buộc, khi đó tòa án sẽ được coi là không
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó.
Thứ hai, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục
tố tụng chặt chẽ trên cơ sở tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên trong quan hệ
tranh chấp. Xuất phát từ bản chất tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, thủ tục
trọng tài vẫn giữ được sự mềm dẻo chứ không cứng nhắc như thủ tục giải quyết

tại tòa án. Ngoài ra, khác với phương thức thương lượng và hòa giải với phần thủ
19


tục đơn giản, linh hoạt, trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các bên cần
phải tuân thủ thủ tục tố tụng theo đúng quy định của pháp luật và quy tắc tố tụng
của trung tâm trọng tài.
Thứ ba, quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài được thể hiện thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài, đó là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Trong suốt quá trình
giải quyết tranh chấp, thỏa thuận của các bên luôn được tôn trọng, có thể nói bản
chất của phương thức trọng tài chính là xuất phát từ sự thỏa thuận của các bên.
Tuy nhiên, trong phương thức trọng tài còn chứa đựng cả yếu tố tài phán. Có
nghĩa trọng tài có quyền năng theo pháp luật, được pháp luật bảo hộ, có quyền ra
các quyết định trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ tƣ, quyền lựa chọn hình thức trọng tài quy chế hay trọng tài vụ việc.
Đối với trọng tài vụ việc, với một thủ tục linh hoạt, quy tắc hoạt động đơn giản,
ít tốn kém. Tuy nhiên trọng tài vụ việc cũng không thể tránh khỏi những hạn chế,
điển hình là sự không ổn định trong hoạt động của trọng tài và điều này có thể
gây ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh chấp. Đối với trọng tài thường trực,
đây là hình thức trọng tài hoạt động dưới mô hình trung tâm trọng tài, có cơ cấu
tổ chức chặt chẽ, có trụ sở ổn định, có danh sách trọng tài viên, Điều lệ hoạt
động và Quy tắc tố tụng riêng... Do đó, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các bên
tham gia vào hoạt động tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, trọng tài thường trực lại tồn
tại một nhược điểm, đó là về vấn đề chi phí – một vấn đề được các bên rất quan
tâm khi quyết định lựa chọn một phương thức nào đó. Chi phí trọng tài quy chế
thường cao hơn so với trọng tài vụ việc. Mỗi phương thức giải quyết tranh chấp
sẽ phù hợp với từng yêu cầu, mong muốn của các chủ thể khác nhau trong mỗi
quan hệ tranh chấp. Do đó, khi quyết định lựa chọn hình thức trọng tài các bên
tranh chấp cần cân nhắc đến hoàn cảnh, nhu cầu hiện tại của mình, phân tích

20


từng ưu nhược điểm của các phương thức để có thể lựa chọn phương thức phù
hợp nhất. Có như vậy, việc giải quyết tranh chấp mới đem lại hiệu quả cao.
1.3. Tác động của Hiệp định TPP đến quyền tự do kinh doanh trong giải
quyết tranh chấp thƣơng mại thông qua thủ tục Trọng tài
Hiệp định TPP (Trans – Pacific Partnership Agreement) là một thỏa thuận
thương mại tự do được ký kết giữa 12 nước vào ngày 04/02/2016 tại Auckland,
New Zealand sau năm năm đàm phán. Các quy định về giải quyết tranh chấp
trong TPP thể hiện tập trung trong chương 28 và tại điều 27 ở các chương 7, 9,
11, 12, 13, 14, 20, 21, 22, 23, 25, 26, 27 [13].
Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại trong TPP là cơ chế có độ mở
cao kết hợp được cả cơ chế của WTO và cơ chế của TPP. Các thành viên của
TPP đồng thời là thành viên của WTO nếu có tranh chấp, có thể lựa chọn cơ chế
giải quyết tranh chấp theo TPP mà không nhất thiết phải theo cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO. Bên nguyên đơn có quyền đề xuất cơ chế hay diễn đàn giải
quyết tranh chấp này. Tranh chấp xảy ra khi một bên trong Hiệp định cho rằng
các biện pháp được đề xuất hoặc áp dụng của bên kia không phù hợp với nghĩa
vụ được quy định trong Hiệp định hoặc không thực hiện nghĩa vụ hoặc lợi ích
chính đáng của một bên bị triệt tiêu hoặc xâm hại do bên kia áp dụng biện pháp
trái với Hiệp định. Vấn đề được ưu tiên trước hết ở hợp tác và tham vấn để giải
quyết thỏa đáng các vấn đề liên quan đến giải thích và áp dụng Hiệp định, đặc
biệt là các vấn đề gây tranh cãi hay những vấn đề bất đồng. Đồng thời, một bên
không được quy định quyền hành động theo luật trong nước để chống lại một
bên khác với lý do bên khác đó áp dụng biện pháp không phù hợp với nghĩa vụ
quy định trong Hiệp định hoặc không thực hiện nghĩa vụ trong Hiệp định. Việc
giải quyết tranh chấp có thể thông qua hòa giải, trọng tài. Thủ tục của các

21



phương thức giải quyết tranh chấp này được giữ bí mật, không ảnh hưởng đến
quyền của các bên trong các quy trình tố tụng.
Cơ chế giải quyết tranh chấp chủ yếu thông qua Hội đồng trọng tài gồm ba
thành viên tương tự như cơ chế Ban hội thẩm của WTO. Tiêu chuẩn lựa chọn
trọng tài viên và chủ tịch Hội đồng trọng tài với những yêu cầu rất cao về trình
độ pháp luật quốc tế, thương mại quốc tế, năng lực tiếng Anh, được lựa chọn
khách quan, phán xét hợp lý và có tính độc lập cao, tuân thủ các quy tắc ứng xử
trong quy định về thủ tục. Thời gian tiến hành thủ tục giải quyết tranh chấp được
quy định chặt chẽ và được phân loại thành tranh chấp gắn với hàng hóa dễ hỏng
và tranh chấp về các vấn đề khác. Thời gian xử lý các khâu công việc của tranh
chấp gắn với hàng hóa dễ hỏng thường bằng một nửa thời gian của tranh chấp về
các vấn đề khác. Biện pháp khắc phục thiệt hại là các hình thức bồi thường, tạm
ngừng các ưu đãi và thanh toán một khoản tiền nhất định…
1.3.1. Tác động của thủ tục tố tụng trọng tài
Các thủ tục tố tụng trọng tài được quy định chi tiết tại Điều 28 của Hiệp
định về cơ bản là khách quan, minh bạch, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của
các bên trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và tạo điều kiện để
việc giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả.
Tuy nhiên, các quy định về thủ tục tố tụng trọng tài theo Hiệp định TPP là
một thách thức đối với các quy phạm pháp luật về trọng tài đối với Việt Nam.
Bởi lẽ trong thủ tục tố tụng trọng tài của TPP một số điều khoản có khả năng làm
ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh trong giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài như không có điều khoản về quy tắc lựa chọn địa điểm trọng tài
theo hướng thuận tiện hơn cho hoạt động giải quyết tranh chấp mà chủ yếu là
theo hướng chọn nước đầu tư để tiến hành giải quyết tranh chấp, không có quy
định về lựa chọn ngôn ngữ trọng tài nào là ngôn ngữ đồng thời và bắt buộc hay
22



×