Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

DSpace at VNU: Kết cấu phóng sự ngắn truyền hình (Khảo sát phóng sự ngắn trong chương trình thời sự 19h của VTV1 từ tháng 1 2007 đến tháng 6 2008)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.82 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ & TRUYỀN THÔNG
----------//---------

TRẦN VĂN LONG

KẾT CẤU PHÓNG SỰ NGẮN
TRUYỀN HÌNH
( Khảo sát phóng sự ngắn trong chương trình
thời sự 19h của VTV1 từ tháng 1/ 2007 đến tháng
6/2008)
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số 60 32 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC BÁO CHÍ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TSKH. ĐINH THUÝ HẰNG

Hà Nội 2008

1


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU.....……………………………………………………….1
Chương 1 : NHẬN DIỆN PHÓNG SỰ NGẮN TRUYỀN HÌNH………8
1.1. Phóng sự và phóng sự truyền hình .……………………….…...8
1.1.1. Phóng sự….………………………………………………………8
1.1.2. Phóng sự truyền hình ……..…………………………………….11


1.2. Phóng sự ngắn truyền hình trên sóng truyền hình Việt Nam...16
1.2.1. Sự ra đời của phóng sự ngắn truyền hình trên sóng
truyền hình Việt Nam………...………………….…………….....16
1.2.2. Các quan niệm về phóng sự ngắn truyền hình…………………..18
1.2.3. Đặc trưng phóng sự ngắn truyền hình…………...…………..…..21
1.2.4. Vị trí của phóng sự ngắn trong hoạt động sáng tạo truyền hình
trên sóng truyền hình Việt Nam...………….……………………34
Chương 2: KẾT CẤU PHÓNG SỰ NGẮN TRUYỀN HÌNH...….40
2.1.Kết cấu hình thức của phóng sự ngắn truyền hình………..…..41
2.1.1. Kết cấu tuyến tính.………………………….……………...…..42
2.1.2.Kết cấu theo kiểu “lấy điểm để nói diện”.…….…………..……47
2.1.3.Kết cấu theo kiểu diễn giải vấn đề.……………….……….……52
2.1.4. Kết cấu song hành……………….……………….………...…..56
2.2. Kết cấu nội dung của phóng sự ngắn truyền hình……........…62
2.2.1 Đề tài ………………………………………………………...…62

2


2.2.2. Sự kiện..………………………………………………….……66
2.2.3. Chi tiết……………………………………………………...…71
2.2.4. Quan điểm tư tưởng..…………………….………………........76
Chương 3 : ỨNG DỤNG PHÓNG SỰ NGẮN TRUYỀN HÌNH
VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỂ LOẠI...85
3.1. Ứng dụng phóng sự ngắn trong chương trình Thời sự trên
VTV1 ………………………………………………………….……84
3.1.1. Thành công...…………………………………………....…….84
3.1.2. Hạn
chế……….……………………………………………………..92
3.2 Xu hướng báo chí tác động tới chất lượng phóng sự ngắn

truyền hình……...…………………………………………….....97
3.2.1. Xu hướng co ngắn về dung lượng tác phẩm………….………...98
3.2.2. Xu hướng đan xen hoà trộn giữa các thể loại báo chí………....98
3.3.Giải pháp nâng cao chất lượng phóng sự ngắn truyền hình....99
3.3.1 Về mặt lý luận……………………………………………….....99
3.3.2 Về mặt đội ngũ ……………………………………………..…101
3.3.3 Về mặt cơ chế …………………………………………..…..…103
KẾT LUẬN………………………………………………………...105
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………...108
PHỤ LỤC ……………………………………………………….…113

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1 - Tính cấp thiết của đề tài
Phóng sự ngắn truyền hình là dạng thể loại đang được sử dụng khá phổ
biến trên sóng truyền hình trong và ngoài nước. Với ưu thế ngắn gọn, thông
tin trực diện, phóng sự ngắn là công cụ quan trọng của những người làm
truyền hình trong việc phản ánh phân tích mổ xẻ sự kiện vấn đề. Cũng vì lý
do này mà phóng sự ngắn được sử dụng khá hiệu quả trong các chương trình
tin tức thời sự. Hiện tại trung bình Chương trình Thời sự 19 giờ của Đài
Truyền hình Việt Nam sử dụng từ 5-6 phóng sự ngắn, chiếm chừng một nửa
lượng tin bài thời sự trong nước. Qua khảo sát của tác giả tại một số đài
truyền hình địa phương như Hà Nội, Hà Tây, Nghệ An, Hà Tĩnh, thời lượng
dành cho phóng sự ngắn trong một chương trình thời sự cũng chiếm từ 40 –
50%. Có thể khẳng định: phóng sự ngắn đã góp phần làm thay đổi diện mạo
các chương trình thời sự truyền hình.
Tại các kỳ liên hoan truyền hình toàn quốc ( sân chơi nghiệp vụ lớn nhất
dành cho người làm truyền hình trong cả nước), số lượng phóng sự ngắn

luôn chiếm tỉ lệ cao nhất trong tổng số tác phẩm dự thi. Không những vậy,
số lượng phóng sự ngắn tham dự kỳ Liên hoan sau bao giờ cũng cao hơn kỳ
Liên hoan trước. Ví dụ Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 21 (năm
2002) có 538 tác phẩm thuộc 8 thể loại dự thi thì phóng sự ngắn đã lên tới
149 tác phẩm, cao hơn hẵn thể loại phóng sự (123 tác phẩm), phim tài liệu
(62 tác phẩm); liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 22 (năm 2003) có
150 tác phẩm phóng sự ngắn trong tổng số 548 tác phẩm dự thi; liên hoan
Truyền hình toàn quốc lần thứ 25 (năm 2006) có 160 phóng sự ngắn trong
tổng số 635 tác phẩm dự thi; liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 27
(năm 2008) có 212 tác phẩm phóng sự ngắn trong tổng số 742 tác phẩm dự

4


thi. Tác giả Quang Ninh trong một bài viết đăng trên báo Truyền hình số ra
ngày 17/1/2001 đưa ra lời nhận xét về vị trí của phóng sự ngắn tại Liên hoan
truyền hình toàn quốc lần thứ 20 như sau: “ trái với quan niệm lâu nay về
sức hấp dẫn của các chương trình tuyền hình, vượt qua cả phim truyện và
phim ca nhạc, phóng sự ngắn đã thu hút được sự chú ý của người xem nhiều
nhất” [ 37].
Phóng sự ngắn đang ngày càng khẳng định vai trò xung kích trong các
chương trình thời sự, thế nhưng ở góc độ lý luận lại còn rất thiếu những
công trình nghiên cứu công phu, đầy đủ. Còn nhiều ý kiến tranh luận về tên
gọi, dấu hiệu đặc trưng cũng như vị trí của dạng thể loại sinh động, hiệu quả
này. Trong cách sử dụng của các đài truyền hình nước ngoài, phóng sự ngắn
được xác định như là một dạng của tin, còn trong quan niệm của những
người làm truyền hình ở Việt Nam phóng sự ngắn lại được xem là một dạng
của phóng sự. Điều này giải thích vì sao phóng sự ngắn rất ít khi trở thành
đối tượng nghiên cứu độc lập. Đặc biệt việc đi sâu nghiên cứu để rút ra
những đặc điểm tương đồng về kết cấu hình thức cũng như kết cấu nội dung,

từ đó đề xuất những căn cứ khoa học cho công việc sáng tạo tác phẩm là
chưa có. Người làm nghề chủ yếu tự đúc rút kinh nghiệm từ chính hoạt động
thực tiễn hoặc tiếp thu kinh nghiệm từ các đài truyền hình nước ngoài. Hệ
quả tất yếu là chất lượng phóng sự ngắn trên sóng không đều. Nhiều phóng
sự ngắn bộc lộ sai sót hoặc không phát huy được những thế mạnh vốn có.
Trong khi đó trước yêu cầu ngày càng khắt khe của công chúng và trước sự
cạnh tranh quyết liệt của các loại hình truyền thông, hoạt động sáng tạo
truyền hình nói chung, sáng tạo phóng sự ngắn truyền hình nói riêng đang
thường xuyên phải đối diện với áp lực đổi mới. Một trong những giải pháp
đổi mới đó là phải tiếp tục hoàn thiện về mặt lý luận, xác định lý luận là cơ
sở cho hoạt động sáng tạo.
5


Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết này, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “ Kết
cấu phóng sự ngắn truyền hình” với mong muốn vừa khái quát thực tiễn vừa
xây dựng những căn cứ khoa học cho hoạt động sáng tạo thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khi các thể loại báo chí truyền hình như phóng sự truyền hình, tin
truyền hình, phỏng vấn trên truyền hình… được nghiên cứu khá kỹ lưỡng thì
số công trình nghiên cứu về phóng sự ngắn lại còn hết sức khiêm tốn. Cho
đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách bài
bản công phu về phóng sự ngắn truyền hình. Phóng sự ngắn thường chỉ được
đề cập đến một cách gián tiếp khi các tác giả nghiên cứu một số thể loại
khác như phóng sự truyền hình hoặc tin truyền hình. Chẵng hạn trong tác
phẩm Phóng sự truyền hình (NXB Thông tấn 2003), nhóm tác giả Brigitte
Besse, Didier Desormeaux đã chỉ ra cách lựa chọn góc độ tiếp cận vấn đề
đối với những phóng sự có thời lượng chưa đầy 2 phút và những phóng sự
có thời lượng từ 2 đến 4 phút. Nhóm tác giả cũng xây dựng công thức chung
của phóng sự “một phút 30 giây” (còn gọi là phóng sự một ba mươi) là:

“một chủ đề = một phóng sự = một phút 30 giây hình ảnh âm thanh” [ 4, tr.
60]. Đây là những dạng phóng sự được sử dụng phổ biến trong chương trình
thời sự với các đặc điểm tương đồng đặc điểm phóng sự ngắn.
Công trình được xem là đã đề cập đến những nét cơ bản và những thủ
thuật sáng tạo phóng sự ngắn rõ nhất là cuốn: “Sổ tay phóng viên, TinPhóng sự truyền hình” của Neil Everton do Quỹ Reuters xuất bản năm 1999
( Lê Phong dịch, Trần Bình Minh hiệu đính). Mặc dù tác giả không trực tiếp
gọi tên đối tượng nghiên cứu là phóng sự ngắn hay phóng sự thời sự nhưng
nội dung được đề cập đều hướng tới phóng sự trong chương trình thời sự.
Tác phẩm chỉ ra được những kinh nghiệm và nguyên tắc khi thực hiện một
6


tác phẩm phóng sự sử dụng trong chương trình thời sự như nguyên tắc về
ghi hình, dựng hình, phỏng vấn, thể hiện lời bình…
Liên quan đến hoạt động nghiên cứu phóng sự ngắn còn có thể kể ra
những bài báo của các nhà nghiên cứu hoặc những người làm truyền hình
đăng tải rải rác trên các báo, tạp chí, các website điện tử... Mỗi bài báo chỉ
có thể đưa ra một góc nhìn, một cách đánh giá cụ thể và phụ thuộc nhiều vào
quan điểm cá nhân, do vậy thường chỉ mang ý nghĩa tham khảo về mặt khoa
học.
Gần đây sinh viên và học viên cao học tại một số cơ sở đào tạo báo chí như
Học viện báo chí và tuyên truyền, Khoa Báo chí – Trường Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội)…đã chọn phóng sự ngắn làm
đối tượng nghiên cứu cho khoá luận hoặc luận văn tốt nghiệp. Mỗi luận văn
xác định một hướng nghiên cứu riêng như tính độc đáo của phóng sự ngắn,
nhận dạng phóng sự ngắn, vai trò xung kích của phóng sự ngắn… qua đó có
những đóng góp thiết thực vào hệ thống lý luận. Tuy nhiên ở góc độ kết cấu
phóng sự ngắn lại chưa có bất cứ một công trình nghiên cứu nào.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu và đề xuất các dạng kết cấu về hình
thức và nội dung của phóng sự ngắn truyền hình. Qua đó luận văn gợi mở
những nguyên tắc sáng tạo trong hoạt động sáng tạo tác phẩm phóng sự ngắn
truyền hình.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Phân tích những dấu hiệu đặc trưng như thời lượng, lời dẫn, hình ảnh,
âm thanh, phỏng vấn, dẫn hiện trường…để nhận diện phóng sự ngắn truyền
hình trong chương trình Thời sự 19h của VTV1.
7


+ Vận dụng lý luận kết cấu tác phẩm báo chí vào thực tiễn sáng tạo tác
phẩm phóng sự ngắn trong chương trình thời sự 19h của VTV1, luận văn đề
cập tới các dạng kết cấu về hình thức cũng như kết cấu về nội dung phóng sự
ngắn.
+ Đánh giá vị trí của phóng sự ngắn trong các chương trình truyền hình,
đặc biệt là trong chương trình thời sự, từ đó đề xuất những giải pháp nâng
cao chất lượng phóng sự ngắn.
- Phạm vi nghiên cứu
Nếu căn cứ vào tiêu chí thời lượng thì trong thực tế những phóng sự có
thời lượng dưới 5 phút được sử dụng khá phổ biến trong rất nhiều chương
trình truyền hình. Tuy nhiên không phải phóng sự nào dưới 5 phút cũng là
phóng sự ngắn bởi “ngắn” ở đây không có nghĩa là sự rút ngắn cơ học mà
phải là sự rút ngắn sáng tạo. Nói cách khác ngoài yếu tố thời lượng, một
phóng sự ngắn đúng nghĩa còn phải hội tụ nhiều dấu hiệu đặc trưng khác.
Theo tác giả, phóng sự ngắn hội tụ được đầy đủ các yếu tố đặc trưng nhất là
những phóng sự sử dụng trong chương trình thời sự.
Hiện tại trên VTV1 có 6 chương trình thời sự tổng hợp nhưng chương
trình được đầu tư công phu nhất, có độ chọn lọc thông tin cao nhất là
chương trình thời sự 19 giờ. Chương trình thời sự 19 giờ có tổng thời lượng

45 phút, trong đó 32 phút giành cho tin tức trong nước. Đây là chương trình
được nhiều người xem nhất vì phát vào thời điểm công chúng có khả năng
tiếp nhận lớn nhất (giờ vàng). Do vậy các phóng sự ngắn sử dụng trong
chương trình thời sự 19 giờ, về nguyên tắc phải là những phóng sự tốt nhất.
Xuất phát từ nhận thức nói trên, luận văn xác định phạm vi nghiên cứu là
các phóng sự ngắn sử dụng trong chương trình thời sự 19 giờ trên VTV1Đài Truyền hình Việt Nam. Thời gian khảo sát là từ tháng 1 năm 2007 cho
đến tháng 6/2008.
8


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Đề tài của luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác
Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử vừa là thế giới quan,
vừa là phương pháp luận cho hoạt động nghiên cứu. Việc nghiên cứu còn
phải dựa trên cơ sở chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam về báo chí.
Đề tài luận văn kế thừa và phát huy sáng tạo thành quả nghiên cứu từ các
công trình lý luận cơ sở về báo chí như lý luận báo chí truyền thông, lý luận
báo chí truyền hình, lý luận về hoạt động sáng tạo tác phẩm truyền hình, lý
luận về phóng sự truyền hình…
- Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát, thống kê… Do hoạt động sáng
tạo phóng sự ngắn trong thực tế vẫn còn phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm
cá nhân nên tác giả đã sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu để thu thập ý
kiến, quan điểm, kinh nghiệm nghề nghiệp từ các nhà báo, các phóng viên
truyền hình. Đây cũng là một trong những căn cứ quan trọng phục vụ cho
hoạt động nghiên cứu.

5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Trên cơ sở nhận diện đặc thù thể loại, đề tài tập trung phân tích sâu kết cấu
phóng sự ngắn truyền hình. Qua đó đề xuất các dạng kết cấu phổ biến về
hình thức và nội dung, góp phần hình thành cơ sở khoa học cho hoạt độ ng
nghiên cứu và sáng tạo phóng sự ngắn truyền hình.
9


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận
Bằng việc phân tích và đề xuất các dạng kết cấu của phóng sự ngắn truyền
hình, tác giả hy vọng luận văn sẽ góp phần bổ sung vào hệ thống công trình
nghiên cứu về phóng sự truyền hình nói chung và phóng sự ngắn nói riêng.
Đây là sự nối tiếp cho hoạt động nghiên cứu phóng sự ngắn truyền hình
đồng thời là cơ sở lý luận cho các công trình nghiên cứu tiếp theo ở những
góc độ mới mẻ hơn.
- Ý nghĩa thực tiễn
Bằng việc chỉ ra dấu hiệu đặc thù và những dạng kết cấu về hình thức lẫn
nội dung của phóng sự ngắn, tác giả hy vọng luận văn sẽ cung cấp thêm
những cơ sở khoa học cho hoạt động thực tiễn. Người làm phóng sự ngắn sẽ
có thêm những nguyên tắc trong phát hiện đề tài, sự kiện, chi tiết, trong việc
biểu thị quan điểm tư tưởng cũng như xây dựng kết cấu cho tác phẩm. Ngoài
ra luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động
giảng dạy, hoạt động quản lý, biên tập, tổ chức sản xuất chương trình truyền
hình…
Riêng đối với cá nhân tác giả, đề tài nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong việc trang bị cách nhìn, cách làm phóng sự ngắn,
phục vụ thiết thực cho công việc thời sự ở một đài truyền hình địa phương.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm 108 trang. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, nội dung

chính của luận văn bao gồm ba chương:
- Chương 1 : Nhận diện phóng sự ngắn truyền hình

10


- Chương 2: Kết cấu phóng sự ngắn truyền hình
- Chương 3: Ứng dụng phóng sự ngắn truyền hình và giải pháp nâng cao
chất lượng thể loại

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Nhật An (2006), Đường vào nghề phát thanh truyền hình, NXB Trẻ
2- Nguyễn Thị Minh Anh (1998), Phóng sự thời sự trên chương trình
VTV1 Đài Truyền hình Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp đại học Báo
chí, Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn (Đại học Quốc gia
Hà Nội).
3- Hoàng Anh (2003), Một số vấn đề sử dụng ngôn từ trên báo chí, NXB
Lao động
4- Brigitte Besse, Didier Desormeaux (2004), Phóng sự truyền hình,
NXB Thông tấn
5- Phong Châu (1997), “Nhận diện phóng sự truyền hình”, Báo Truyền
hình, (số 20/1997).
6- Thái Kim Chung (2006), Phóng sự trong chương trình thời sự của Đài
Truyền hình Việt Nam, Luận văn thạc sỹ khoa học báo chí, Học viện
Báo chí tuyên truyền.
7- Thái Kim Chung, Nhận diện phóng sự trong chương trình thời sự
truyền hình, Tạp chí Người làm báo ( số tháng 6/2005)

8- G.V. Cudơnhetxốp, X.L. Xvích, A.Ia.Iurốpxki (2004), Báo chí truyền
hình, tập 1, NXB Thông tấn, Hà Nội.
9- G.V. Cudơnhetxốp, X.L. Xvích, A.Ia.Iurốpxki (2004), Báo chí truyền
hình, tập 2, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
10 - Cục điện ảnh Việt Nam (1983), Lịch sử điện ảnh cách mạng Việt
Nam
11 - Đức Dũng (2006), Viết báo như thế nào, Nxb Văn hoá - thông tin,
Hà Nội
12


12- Đức Dũng (2004), Phóng sự báo chí hiện đại, Nxb Thông tấn, Hà Nội
13 - Nguyễn Văn Dững, Đối tượng tác động của báo chí và ý nghĩa của
nó đối với hoạt động của nhà báo, Bài giảng chuyên đề Lịch sử nghiên
cứu báo chí, Chương trình đào tạo thạc sỹ báo chí Trường Đại học Khoa
học xã hội & nhân văn ( Đại học Quốc gia Hà Nội)
14 - Nguyễn Văn Dững, Sự kiện báo chí, Bài giảng chuyên đề Lịch sử
nghiên cứu báo chí, Chương trình đào tạo thạc sỹ báo chí Trường Đại học
Khoa học xã hội & nhân văn ( Đại học Quốc gia Hà Nội)
15 - Nguyễn Văn Dững ( chủ biên), Hữu Thọ, Nguyễn Thị Thoa, Lê Thị
Thanh Xuân (2006), Tác phẩm báo chí (tập 2), NXB Lý luận chính trị
16 - Peter Eng, Jeff Hodson (2007), Tường thuật và viết tin – sổ tay
những điều cơ bản, NXB Thông tấn, Hà Nội
17 - Neil Everton – Lê Phong dịch, Trần Bình Minh hiệu đính(1999), Sổ
tay phóng viên - Tin, phóng sự truyền hình, Quỹ Reuters, Hà Nội.
18 - Eric Fikhtelius (2002), 10 bí quyết kỹ năng nghề báo, NXB Lao
động, Hà Nội
19 - Philippe Gaillard (2007), Nghề làm báo, NXB Thông tấn
20 - Hoàng Thị Thanh Hà (1998), Vấn đề sử dụng phóng sự truyền hình
trên chương trình thời sự VTV1, Khoá luận tốt nghiệp đại học báo chí,

Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn ( Đại học Quốc gia Hà Nội)
21- Trường Hà, Phóng sự ngắn truyền hình cần đổi mới cách thực hiện,
Báo Thể thao văn hoá ngày 27/2/2001
22 - Đinh Thị Thuý Hằng (2008), Báo chí thế giới xu hướng phát triển,
NXB Thông tấn, Hà Nội
23 - Vũ Quang Hào (2007), Ngôn ngữ báo chí, NXB Thông tấn, Hà Nội

13


24 - Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ
môn khoa học Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2001), Giáo trình triết
học Mác Lê-nin, NXB chính trị quốc gia Hà Nội
25 - Đỗ Quang Hưng (chủ biên), Nguyễn Thành, Dương Trung Quốc
(2001), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 -1945, NXB Đại học Quốc gia

Nội
26 - Phạm Thành Hưng (2007), Thuật ngữ báo chí truyền thông, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội
27 - Đinh Văn Hường, Các thể loại báo chí thông tấn (2006), NXB Đại
học quốc gia Hà Nội
28 – Nguyễn Kim (2002), Mấy vấn đề của tin và phóng sự ngắn, Tạp chí
Truyền hình tháng 9/2002
29 - Tạ Bích Loan, Bài giảng chuyên đề hoạt động sáng tạo tác phẩm
truyền hình, Chương trình đào tạo thạc sỹ báo chí Trường Đại học Khoa
học xã hội & nhân văn ( Đại học Quốc gia Hà Nội)
30 - Nguyễn Thành Lưu (1995), Phóng sự truyền hình, Khoá luận tốt
nghiệp đại học báo chí, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội
31 - Claudia Mast (2003), Truyền thông đại chúng, công tác biên tập,
NXB Thông tấn, Hà Nội

32 - Claudia Mast (2004), Truyền thông đại chúng, những kiến thức cơ
bản, NXB Thông tấn, Hà Nội
33 - Trần Bình Minh, Mấy vấn đề của phóng sự ngắn, Đặc san Truyền
hình số tháng 9/2000
34 - X.A. Muratốp (2004), Giao tiếp trên truyền hình, trước ống kính và
sau ống kính camera, NXB Thông tấn, Hà Nội
35 - Hà Nam, Phóng sự ngắn – Hiệu quả cao, Đặc san Truyền hình số
14


tháng 9/2000
36- Nguyễn Vọng Ngàn (2001), Phóng sự ngắn truyền hình - một thể loại
xung kích trên các chương trình thời sự VTV1, Luận văn thạc sỹ khoa học
báo chí, Trường Đại học khoa học xã hội & nhân văn ( Đại học quốc gia
Hà Nội)
37 - Quang Ninh, Báo chí ở TP Hồ Chí Minh nói về Liên hoan truyền
hình
toàn quốc lần thứ 20, Báo Truyền hình ngày 17/1/2001
38 - Trần Quang (2005), Các thể loại báo chí chính luận, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội
39 – Line Ross (2004), Nghệ thuật thông tin, NXB Thông tấn, Hà Nội
40 - M.I.Sostak (2003), Phóng sự - tính chuyên nghiệp và đạo đức, NXB
Thông tấn, Hà Nội
41 - Dương Xuân Sơn (2004), Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
42 - Dương Xuân Sơn, Bài giảng chuyên đề báo chí truyền hình, Chương
trình đào tạo thạc sỹ báo chí Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân
văn ( Đại học Quốc gia Hà Nội)
43 - Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ sở lý
luận báo chí truyền thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội

44 - Nguyễn Minh Tâm (1996), Bài giảng môn Nguyên lý công nghệ
truyền hình và nguyên lý báo chí truyền hình, Khoa Báo chí, Trường Đại
học Khoa học xã hội & nhân văn ( Đại học Quốc gia Hà Nội)
45 - Tạ Ngọc Tấn (1995), Tác phẩm báo chí, tập 1, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
46 – Nguyễn Thị Minh Thái (2006), Phê bình tác phẩm văn học nghệ
thuật
15


trên báo chí, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
47 - Thái Thanh, Liên hoan truyền hình toàn quốc lần thứ 17, Báo Nhân
Dân ngày 16/1/1998
48 - Nguyễn Thị Thoa, Đức Dũng ( chủ biên), Nguyễn Ngọc Oanh, Lê
Thị Kim Thanh (2007), Phóng sự báo chí, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội
49 - Hữu Thu, Phóng sự ngắn phải là vấn đề của thời sự (phỏng vấn nhà
báo Trần Bình Minh, trưởng Ban giám khảo thể loại phóng sự ngắn tại
Liên hoan truyền hình toàn quốc lần thứ 19), Báo Truyền hình ngày
6/1/2000
50 – Trung tâm từ điển học (1998), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng
51 - L.A.Vaxilépva (2004), Chúng tôi làm tin, NXB Thông tấn, Hà Nội
52 - Michel Voirol (2007), Hướng dẫn cách biên tập, NXB Thông tấn, Hà
Nội
53 - Vốtxcôbôinhikốp, Iyriev ( Nguyễn Văn Dững, Hoàng Anh biên dịch,
Đỗ Công Tuấn hiệu đính) (1998), Nhà báo – bí quyết kỹ năng nghề
nghiệp, NXB Lao Động
54 - V.V.Vôrôsilốp (2004), Nghiệp vụ báo chí – lý luận và thực tiễn,
NXB Thông tấn, Hà Nội
55 - Đoàn Thị Xuyên (2004), Tính độc đáo của phóng sự ngắn truyền
hình, Khoá luận tốt nghiệp đại học báo chí, Trường Đại học Khoa học xã

hội & nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội)

16



×