Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Phân tích giá trị văn hóa đặc trưng vùng Nam Bộ. Có thể khai thác các giá trị văn hóa đặc trưng đó để phục vụ kinh tế ntn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.03 MB, 36 trang )

Mở đầu
Trong nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thì mỗi dân tộc, mỗi
vùng miền lại có nét văn hóa riêng rất độc đáo, đa dạng và phong phú. Nam bộ tuy là
vùng đất tổ tiên ta mới khai phá lập nghiệp hơn 300 năm, nhưng văn hóa của nông
thôn Nam bộ bắt nguồn từ nền văn hóa chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam có hơn
4000 năm lịch sử.
Nam bộ từ miền đất hoang vu rừng thẳm, nhiều sông rạch, đầm lầy "muỗi kêu như
sáo thổi, đỉa lộí như bánh canh , trên rừng nhiều thú dữ, rắn độc và động vật quý. Dưới
nước tôm cá bạt ngàn, còn có cá sấu, cá mập. Người nông dân Nam bộ lao động cần
cù, dũng cảm. Thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước cải tạo tự nhiên, phòng chống thú dữ
trên rừng, dưới nước để sản xuất và bảo vệ sản xuất. Ðể tồn tại và phát triển giống nòi,
sản xuất và bảo vệ sản xuất tất yếu các gia đình nông dân trong họ tộc, trong xóm làng
liên kết lại (hợp tác) lao động đổi công phá rừng làm ruộng rẫy, đào sông rạch, làm
đường giao thông: săn bắn thú dữ, cưu mang đùm bọc "thương nguời như thể thương
thân" giúp đỡ nhau chén cơm manh áo, con giống, hạt giống, đúng với câu ca truyền
miệng gần như nông dân Nam bộ ai cũng thuộc lòng "một miếng khi đói bằng cả gói
khi no" trong sản xuất và đời sống. Tuy cuộc sống vô cùng cơ cực ngày ngày lao động
trên đồng ruộng, đêm đêm nam nữ quây quần giã gạo, chài đôi, chải ba, rồi ca hát hoặc
hò đối đáp dưới ánh trăng, tình quê tuy mộc mạc nhưng thấm đậm nghĩa tình.
Những người nông dân có mặt ở vùng đất Nam bộ này hơn 300 năm trước đây là
những nông dân đến từ nhiều vùng ở miền Trung, miền Bắc. Tuy buổi đầu lập nghiệp
trên vùng đất hoang sơ trăm đắng ngàn cay bời rừng thiêng nước độc, thú dữ, người
nông dân thiếu cả công cụ, phương tiện lao động... nhưng mọi người kiên cường bám
trụ "đến đây thì ở tại đây trăm năm bám rễ xanh cây không về". Tấm lòng người nông
dân Nam bộ xưa nay luôn đức độ bao dung, sẵn sàng tha thứ cho những ai biết hối cải
lỗi lầm, nhưng cũng không tha thử kẻ gian ác, điêu ngoa. Họ coi trọng nhân-nghĩa-trídũng-liêm, lòng thương người bao la vô tận, nhưng rất ghét bọn gian tà, tham nhũng,
xu nịnh, những kẻ "tham phú phụ bần". Nếu ai là người lương thiện có đạo đức làm
người, sống trung thực, nhân nghĩa dẫu từ đâu đến với xóm làng nào Nam bộ thì cũng
được nông dân đón tiếp thân tình theo đúng nghĩa "tứ hải giai huynh đệ", sẵn sàng cưu
mang giúp đỡ người đói rét, bệnh tật "anh em như thể tay chân" hay là "Bầu ơi thương
lắy bl cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn".


Nền kinh tế Nam Bộ ngày càng phát triển, đường giao thông ngày càng thuận lợi, sự
giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội của nông dân các làng quê ngày càng mở rộng, các
phong tục, tập quán từ việc ăn, ở, giao tiếp, sinh hoạt văn hóa, lễ hội đến đám cưới,
đám tang... của nông dân Nam bộ cơ bản là giống nhau
Tinh thần yêu nước là đỉnh cao của văn hóa. Lúc bình thường trong cuộc sống nông
dân có thể có vui, có buồn thậm chí to tiếng với nhau vì một lý do nào đó, nhưng khi


đất nước có giặc ngoại xậm thì người nông dân đoàn kết lại sẵn sàng đánh giặc cứu
nước. Ðặc biệt là từ khi có Ðảng, có Bác Hồ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nông dân
Nam bộ cũng như nông dân cả nước được Ðảng, được Hội Nông dân giáo dục, tổ chức
và hướng dẫn đấu tranh thì nông dân sục sôi lòng căm thù thực dân, đế quốc và tay sai;
lòng yêu nước được khơi dậy và phát huy, ý chí cách mạng càng mạnh mẽ, nên họ sẵn
sàng tham gia cách mạng. Ðiều đó minh chứng là tổ chức Hội Nông dân (Nông hội đỏ)
các tỉnh Nam bộ từ Cao Lãnh, Sa Ðéc, Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre, Mỹ Tho, Gia
Ðịnh, Thủ Dầu Một, Cà Mau... đã ra đời cuối những lăm hai mươi. Suốt chặng đường
dài hơn 70 năm đấu tranh gian khổ chống thực dân Pháp, Ðế quốc Mỹ và tay sai, nông
dân Nam bộ đã đóng góp to lớn sức người, sức của cho sự nghiệp thắng lợi có ý nghĩa
lịch sử của dân tộc và thời đại. Hơn 25 năm sau giải phóng miền Nam, thống nhất
nước nhà, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, nông dân Nam bộ một lòng theo Ðảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đã vượt qua bao khó khăn, thi đua lao động sản xuất và có
thể nói đi đầu trong thời kỳ đổi mới nông nghiệp nông thôn, đóng góp xứng đáng vào
sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc.
Các phong trào cách mạng và vận động xây dựng gia đình nông dân văn hóa còn
nhằm từng bước khắc phục những phong tục, tập quán lạc hậu trong sản xuất và đời
sống nông dân. Ðồng thời, khắc phục những tồn tại ấy trên cơ sở không ngừng nâng
cao dân trí, kiến thức khoa học, phát triển kinh tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống vật
chất, đời sống văn hóa, làm cho hàng triệu nông dân và làm cho mảnh đất Nam Bộ
giàu truyền thống cách mạng, đằm thắm thủy chung, nghĩa tình mãi mãi rực rỡ, ngát
hương trong vườn hoa đậm đà bản sắc văn hóa Việt Nam.



Nội dung
CHƯƠNG 1:PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ ĐẶC TRƯNG VĂN HOÁ VÙNG NAM BỘ
1.1 Khái quát lịch sử Nam Bộ và điều kiện tự nhiên
1.1.1. Lịch sử hình thành
Trước kia đây là lãnh thổ của nước Phù Nam và Chân Lạp. Thời chúa Nguyễn và
nhà Tây Sơn, vùng đất này là xứ Gia Định (Gia Định thành), mới được khai khẩn từ
thế kỷ 17. Năm 1698, xứ Gia Định được chia thành 3 dinh: Phiên Trấn, Trấn Biên và
Long Hồ. Vua Gia Long nhà Nguyễn gọi vùng này là Gia Định Thành, bao gồm 5 trấn:
Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang,
Vĩnh Tường và Hà Tiên.
 Năm 1834, vua Minh Mạng gọi là Nam Kỳ (xem lịch sử Nam Kỳ).
 Năm 1859, Pháp đánh chiếm thành Gia Định, mở đầu cuộc xâm lược đất Việt
Nam.
 Năm 1862, ngày 13 tháng 4, triều đình Huế cắt 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ
(Biên Hòa, Gia Định và Định Tường) nhượng cho Pháp. Năm 1867, Pháp đơn
phương tuyên bố toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ là lãnh địa của Pháp.
Từ đó, Nam Kỳ được hưởng quy chế thuộc địa, với chính quyền thực dân, đứng đầu
là một thống đốc người Pháp.
Hiệp ước Quý Mùi (25 tháng 8 năm 1883) nhập thêm tỉnh Bình Thuận vào Nam Kỳ
(thuộc địa Pháp) coi như trừ số tiền bồi thường chiến phí còn lại mà triều đình Huế
chưa trả hết, nhưng năm sau, Hiệp ước Giáp Thân (6 tháng 6 năm 1884) lại trả tỉnh
Bình Thuận về cho Trung Kỳ.
 Năm 1887, Nam Kỳ trở thành một vùng lãnh thổ nằm trong Liên bang Đông
Dương. Năm 1933, quần đảo Trường Sa được sát nhập vào Nam Kỳ thuộc
Pháp.
 Tháng 3 năm 1945 Thống sứ Nhật Nashimura đổi Nam Kỳ thành Nam Bộ.
 Năm 1945, thời Đế quốc Việt Nam với chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố sáp
nhập Nam Kỳ lại thành một bộ phận của nước Việt Nam độc lập. Sau khi Cách
mạng tháng Támnổ ra, Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ đã ra mắt ngày 25

tháng 8 năm 1945 do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch.
Thực dân Pháp nổ súng ở Sài Gòn ngày 23 tháng 9 năm 1945 rồi dần dần đánh rộng
ra chiếm lại Nam Bộ. Chính phủ Nam Kỳ quốc được thành lập theo sự chỉ đạo của
Pháp hòng tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam với tên Nam Kỳ Quốc.
 Năm 1946, trước khi sang Pháp tìm kiếm một giải pháp hòa bình, Hồ Chí Minh
đã viết thư gửi đồng bào Nam Bộ, ông khẳng định: "Đồng bào Nam Bộ là dân


nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao
giờ thay đổi!"
Không đánh bại được Việt Minh, Pháp phải dùng "giải pháp Bảo Đại", công nhận
nền độc lập và sự thống nhất của Việt Nam. Cuối cùng ngày 22 tháng 5 năm 1949,
Quốc hội Pháp chính thức bỏ phiếu thông qua việc trả Nam Bộ cho Việt Nam. Nam Bộ
trở thành lãnh thổ nằm trong Quốc gia Việt Nam.y
1.1.2 Điều kiện tự nhiên
1.1.2.1. Địa hình
Nam bộ là địa bàn lãnh thổ thuộc các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây
Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu thuộc miền Đông Nam Bộ và các tỉnh Long An, Tiền Giang,
Biến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang, Kiên
Giang, Bạc Liêu và Cà Mau thuộc miền Tây Nam Bộ và Thành Phố Hồ Chí Minh.
Phần đất được coi là Đông Nam Bộ có diện tích khoảng 26000 km 2 bao gồm phần
đất đồi núi thấp ( phần rìa của cao nguyên đất đỏ) và phần thềm phù sa cổ thuộc lưu
vực sông Đồng Nai.
Phần đất được coi là Tây Nam Bộ có diện tích khoảng 4000 km 2 , chủ yếu là Đồng
Bằng sông Cửu Long, cùng một vài dãy núi thấp ở miền tây An Giang, Kiên Giang.
Nam bộ là vùng đất nằm cuối cùng của đất nước về phía Nam, trọn vẹn trong lưu
vực của hai dòng sông Đồng Nai và Cửu Long, mà là phần hạ lưu của hai dòng sông.
Trong khi đó, Nam Bộ lại gần biển đông. Nói khác đi đây là vùng đất của cửa sông
giáp biển. Vì thế địa- văn hoá này của Nam Bộ tạo cho nó có những đặc điểm văn hoá
riêng.

Núi chủ yếu tập trung ở phía Đông Nam Bộ như núi Bà Rá (Bình Phước) cao 736m,
núi Chứa Chan (Đồng Nai) cao 839m, núi Bao Quan (Bà Rịa - Vũng Tàu) cao 529m,
núi Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu) cao 461m, núi Bà Đen (Tây Ninh) cao 986m... Khu
vực phía Tây có dãy Thất Sơn (An Giang) và dãy Hàm Ninh (Kiên Giang).
1.1.2.2 Khí hậu
 Nam Bộ nằm trong vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa và cận xích
đạo.
 Nền nhiệt ẩm phong phú, ánh nắng dồi dào, thời gian bức xạ dài, nhiệt độ và
tổng tích ôn cao.
 Biên độ nhiệt ngày đêm giữa các tháng trong năm thấp và ôn hòa. Độ ẩm trung
bình hàng năm khoảng từ 80 - 82%.
 Khí hậu hình thành trên hai mùa chủ yếu quanh năm là mùa khô và mùa mưa :
• Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11
• Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4


Lượng mưa hàng năm dao động từ 966 - 1325mm và góp trên 70 - 82% tổng lượng
mưa trong suốt cả năm. Mưa phân bố không đều, giảm dần từ khu vực giáp ranh từ
Thành Phố Hồ Chí Minh xuống khu vực phía tây và Tây Nam. Ở khu vực Đông Nam
có lượng mưa thấp nhất. Khi xuất hiện cường độ mưa lớn xảy ra trên một số khu vực
trong vùng, thường gây hiện tượng xói mòn ở những vùng gò cao. Khi mưa kết hợp
với cường triều và lũ sẽ gây ngập úng, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của dân cư
trong vùng.
Vì hiện tượng biến đổi khí hậu chung, vùng Đồng bằng Nam Bộ trong thời gian tới
có thể bị tác động rất lớn do các nguồn nước ở các sông bị cạn kiệt, đặc biệt là sông
Me Kong. Theo các nhà khoa học thì tới năm 2070, sự thay đổi thời tiết trong vùng sẽ
tác động đến nguồn nước của Đông Bằng Sông Cửu Long, chủ yếu thông qua các
dòng sông vừa và nhỏ, các dòng chảy bị giảm thiểu đi.
1.2. Các giá trị đặc trưng văn hoá vùng Nam Bộ
1.2.1. Dân cư, các dân tộc vùng Nam Bộ

Nam Bộ là vùng đất cuối cùng của Tổ quốc. Từ hơn 30 năm qua, vùng đất mới này
đã đón nhận nhiều cộng đồng cư dân đến sinh sống, trong đó chiếm phần lớn là người
Việt, người Khơme, người Hoa và người Chăm. Bên cạnh đó còn có người Mạ,
Xtiêng, Chơrơ,Mnông. Địa bàn cộng cư này cũng đã tạo nên mối quan hệ , giao lưu
văn hóa trên nhiều lĩnh vực. Nhìn diện mạo tộc người ở đây, chúng ta có thể nhận ra ít
nhất những khía cạnh sau:
- Các tộc người khai phá Nam Bộ như Chăm, Hoa, Khơ me, Việt đều là lưu dân khai
phá đất mới. Họ đã xa vùng đất côi nguồn cả về không gian.
- Sống cùng một địa bàn cư trú, nhưng trên nét lớn, các tộc người này sống với nhau
một cách hòa hợp, không có chiến tranh giữa các dân tộc trong lịch sử.
- Tộc người chủ thể có vai trò quyết định sự phát triển của vùng đất là người Việt.
Với người Việt, họ là những lớp cư dân từ miền Bắc, miền Trung vốn có những
nguồn gốc xã hội khác nhau. Một số người là các tù nhân, tội đồ, bị nhà nước phong
kiến đưa vào khai hoang ở các đồn điền tại đây. Một số người lại là hững giang hồ, dân
nghèo đi biệt xứ tha phương tìm đến. Một số khác là những quan lại , binh lính được
đưa vào đây để khai phá những vùng đất mới, rồi họ ở lại.Dù khởi nguyên, gốc gác
của họ từ nguồn nà, hành tang mà họ mang theokhoong phải chỉ có vât dụng , tư liệu
sản xuất, vợ con…mà còn là vốn văn hóa ẩm trong tiềm thức. Vốn văn hóa này của
vùng châu thổ Bắc Bộ, được làm giầu ở Khu năm dằng dặc khúc ruột miền Trung, và
được đem vào châu thổ song Cửu Long.
Nét tính cách của người Nam Bộ: do nguồn gốc lịch sử, hoàn cảnh sống và tác
động của môi trường thiên nhiên đã hình thành nên nét tính cách của người Nam Bộ.


Ngoài tính hiếu khách, tính bộc trực mạnh mẽ, hào phóng và đôn hậu. Người Nam Bộ
còn có biết bao nét đẹp truyền thống đáng trân trọng như: tính nghĩa khí hào hiệp, tấm
lòng nhân hậu, bao dung, tư chất thông minh và giàu nghị lực. Đặc biệt,phụ nữ Việt
Nam rất đỗi vị tha, dịu dàng mà lại khéo tay, chiều chuộng nhưng đáng quý nhất là sự
hi sinh cho chồng con, đất nước. Điều đó được chứng minh qua quá trình hon 300
năm lịch sử của Nam Bộ.

Vì Nam BỘ là nơi cư trú của nhiều dân tộc nên bên cạnh dân tộc KInh có các dân
tộc khác chung sống lâu đời( Chăm, Khome,Hoa, X tiêng), số ít người Mạ, Xtiêng ,
Chơ rơ, Mơ Nông thì trên các cao nguyên xếp tầng và các vùng núi cao còn có nhiều
dân tộc ít người sinh sống: Gia lai, Ê Đê, XU Đăng..


Người Hoa

Hơn 900000 người Hoa ở Việt Nam phần lớn cư trú ở Nam Bộ. Riêng thành phố Hồ
Chí Minh có đên hơn 400000 người..


Người Chăm

Dân tộc Chăm còn có tên gọi khác là Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm pa,
Hroi…, thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Pôlinêxia. Dân tộc Chăm cư trú tập trung ở
các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, ngoài ra còn có ở các tỉnh An Giang, Bình Định,
Đồng Nai, Phú Yên, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh


Người Khơme

Dân tộc Khmer có số dân đông thứ 2 trong tỉnh Vĩnh Long, thuộc vùng Nam bộ.
Bên cạnh dân tộc Kinh, đồng bào Khmer chiếm gần 2,1% dân số của tỉnh với trên
21.800 người, tiếp theo là dân tộc Hoa với 4.897 người, còn lại các đồng bào dân tộc
khác là 216 người. Điểm nổi bật dễ nhận thấy trong địa bàn cư trú của người Khmer
đó là đa phần sống tập trung ở vùng nông thôn, có nơi là vùng sâu vùng xa như xã
Loan Mỹ, huyện Tam Bình; xã Trà Côn, huyện Trà Ôn, duy chỉ có một bộ phận nhỏ
người Khmer sống ở thị trấn Vũng Liêm là khu vực đô thị và chuyển từ nghề nông
sang buôn bán.

Thêm một nét đặc trưng nữa trong sự phân bố cư trú của đồng bào Khmer đó là cư
trú tập trung ở ven sông rạch do Vĩnh Long không có nhiều đất giồng như các tỉnh
khác ở Đồng bằng Sông Cửu Long.


Dân tộc Xtieng ( Xa Điêng)

Dân số khoảng 66 788 người ( 1999 ) địa bàn cư trú chủ yếu ở phía bắc tỉnh Bình
Dương và một phần của tỉnh Tây Ninh và Đồng Nai. Thuộc nhóm ngôn ngữ chính là
Môn – Khmer.
1.2.2 Phong tục tập quán riêng


Nam Bộ là vùng đất cuối cùng của Tổ Quốc.Từ hơn 300 năm qua, vùng đất mới này
đã đón nhận nhiều cộng đồng cư dân đến sinh sống, trong đó chiếm đa số là người
Việt, người Khơme , người Hoa và người Chăm. Địa bàn cộng cư này cũng đã tạo nên
mối quan hệ, giao lưu văn hoá trên nhiều lĩnh vực. Chính sự giao lưu này đã tạo nên
phong tục đặc thù ở Nam Bộ. Phong tục là một mảng đề tài rất đa dạng. nó được tạo
nên bởi nhiều yếu tố khác nhau.
Nét tính cách của người Nam Bộ: Do nguồn gốc lịch sử, hoàn cảnh sống và tác động
của môi trường thiên nhiên đã hình thành nên tính cách của người Nam Bộ. Ngoài tính
hiếu khách, tính bộc trực mạnh mẽ, hào phóng và đôn hậu. Người Nam Bộ còn biết
bao nét đẹp truyền thống đáng trân trọng như: tính nghĩa khí hào hiệp, tấm lòng nhân
hậu, bao dung, tư chất thông minh và giàu nghị lực. Đặc biệt: phụ nữ miền Nam rất đổi
vị tha, dịu dàng mà lại khéo tay, chìu chuông nhưng đáng quý nhất là sự hy sinh cho
chồng con, cho quê hương Đất nước. Điều đó được chứng minh suốt quá trình hơn 300
năm lịch sử của Nam Bộ.
Về trang phục của những con người vùng đất Nam Bộ bên cạnh người kinh quen
với đồng án, lúa nước lại chọn khăn rằn quấn cổ và áo nâu sòng, quần đen thanh thoát
trên những đồng lúa hay trên sông nước ngày xưa. Đặc biệt là chiếc áo bà ba là nét đặc

trưng của người kinh ở Sài Gòn xưa và Đồng bằng sông Cửu Long. nó tạo thành nét
đẹp duyên dáng đậm đà của người dân Nam Bộ xưa và nét đẹp đó còn tồn tại đến tận
ngày nay.
Trong nhân gian còn lưu truyền câu “ăn mặn nói ngay” để nói tính cách của người
miền Nam. Vì họ là những lưu dân đến đây chủ yếu bằng đường biển, suốt hành trình
lênh đênh giữa sóng to gió lớn để chống lại giá rét, những cơn cuồng nộ của biển cả…
buộc họ phải tìm cách bảo đảm mạng sống và sinh tồn.
Một đặc tính của người miền Nam là luôn chân tình, cởi mở và dễ hoà mình. “Hiếu
khách” là nét đặc trưng là cá tính độc đáo của người miền Nam. Với tính cách của
người miền Nam như vậy nên tục đón xuân của họ cũng có biết bao điều kì lạ và hấp
dẫn. Người ta thường chuận bị đón tết rất sớm. Mỗi gia đình nông dân đều giành một
nủă thửa ruộng để cấy một giống nếp ngon làm bánh trong ngày tết. Khi mùa màng thu
hoạch xong thì không khí tết rộn lên trong tiếng chày quếch bánh.
Trong ngày tết cành mai là không thể thiếu trong mỗi gia đình miền Nam. Ngày tết
thường có nhiều trò vui đặc biệt như: đá gà , đá cá lia thia…những lễ tục phiền toái
lãng phí xa hoa tốn kém thời giờ và tiền của hay mang tính chất mê tín dị đoan đều
được nhân dân tự giác loại bỏ. Chính vì nơi cư trú của nhiều dân tộc nên ở vùng đồng
bằng bên cạnh dân tộc Kinh còn có các dân tộc khác chung sống lâu đời ( Chăm,
Khơme, người Hoa , người Xtiêng…) vẫn còn lưu giữ được những văn hoá nghệ thuật
phong tục tập quán mang sắc thái riêng.
1.2.2.1. Người Hoa


Hơn 900.000 người Hoa ở Viêt Nam phần lớn là cư trú ở Nam Bộ. Riêng thành phố
Hồ Chí minh có đến 400.000 người. Đây chỉ tính số người Hoa vào Việt Nam từ thế kỷ
này, còn trước đó cũng có khá nhiều nhưng phần lớn đã bị Việt hoá. Họ thuộc “ngủ
bang” vùng Hoa nam: quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Hẹ. Làm
nhiều nghề khác nhau: công nghiệp, nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nhân, viên
chức, giáo viên, buôn bán... Có truyền thống trồng lúa nước và nổi tiếng về các nghề
gia truyền.Ở miền Nam từng có một thời không có đường phố nào mà lại không có các

tiệm chạp phố của người Hoa. Họ bán rất nhiều loại hàng hoá: từ cây kim, sợi chỉ cho
đến tương, chao…Chợ Lớn – Sài Gòn ngày nay cũng là một trung tâm tiểu thủ công
nghiệp lớn.
Vào nhà người Hoa cái đập ngay vào mắt là những bàn thờ ngoài sân, trong nhà,
trên cao, dưới đất…Ngoài việc thờ cúng tổ tiên gia đình người Hoa còn thờ nhiều vị
thần bảo trợ: Thần tài phù hộ làm ăn, thổ địa quản lí đất đai, Táo quân ghi chép mọi
việc để cuối năm lên thiên đình báo cáo…Tuy vậy không thể nói tính cách người Hoa
thiên về tín ngưỡng. Dân tộc này sống rất thực tế. Họ chỉ muốn tất cả các mối quan hệ
giữa họ với tất cả mọi người cũng như giữa họ với thần linh đều hữu hảo để họ có thể
dễ bề làm ăn
Về phong tục tập quán của người Hoa : Ở nhà ba gian, hai chái, sống gắn bó với
nhau trong một khu vực. Các gia đình trong cùng dòng họ quây quần bên nhau. Người
cha là chủ gia đình. Con trai được thừa kế gia tài và con trai cả được phần hơn. Thờ
cúng người chết tại nhà. Trong thôn xóm đều có chùa, đền, miếu để thờ cúng. Hôn
nhân của con do cha mẹ quyết định trên cơ sở tương đồng về hoàn cảnh kinh tế và địa
vị xã hội. Việc ma chay phải qua rất nhiều thủ tục nghiêm ngặt.
1.2.2.2. Người Khmer
Tập trung nhiều ở hai tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng và các huyện dọc biên giới ở châu
Đốc. NHà của người Khơme hầu hết là nền đất, lợp lá không khác gì nhà của người
Việt. Và nhiều nhà thành một “phum”. “Sóc” gồm nhiều “phum” tương đương như
làng xã của người Việt.
Ở Nam Bộ bạn có thể gặp ngưòi Hoa khắp nơi: Họ là chủ những quán ăn, chủ tiệm
tạp hoá… nhưng người Khơme thì ít thấy mặc dù họ đông không kém người Hoa. Bởi
lẽ người Khơme có khuynh hướng sống khép kín trong “Sóc” xa thành phố. Khi so
sánh thì hai dân tộc này hầu như có nhiều tính cách tương phản nhau:



Người hoa: năng nổ, thích làm giàu, giỏi buôn bán và nhiều ngành nghề.
Người Khơme: Có vẻ an phận thủ thường, chỉ là những người nông dân, kĩ

thuật vẫn còn đơn giản.

Chiếc sà rông của người Khơme ngày chàng ít thấy trừ trong ngày cưới vì đó là
trang phục bắt buộc của chú rể. Thường ngày nam cũng như nữ đều mặc bà ba đen và


quấn khăn rằn. Trong dịp lễ tết họ mặc áo bà ba trắng , quần đen (hoặc áo đen , quàng
khăn quàng trắng chéo , ngang hông vắt lên vai trái .Trong đám cưới chú rể thường
mặc bộ “ xà rông “ (hôl ) và áo ngắn bỏ ngoài màu đỏ . Đây là áo ngắn sẻ ngực cổ
đứng ngoài cúc , quàng khăn trắng vắt qua vai trái và đeo thêm “con dao dưới “ ( kầm
pách ) với ý nghĩa bảo vệ cô dâu Thanh niên hiện nay khi ở nhà không mặc áo và quấn
chiếc “xà rông” kẻ sọc .. Chùa Khơme nào cũng có những căn nhà danh cho “ những
ông sư trẻ” tạm thơì này. Về phụ nữ cách đây khoảng 30 – 40 năm họ thường mặc
chiếc “ Xăm pốt “ ( váy ) đó là loại váy bằng tơ tằm hình ống ( kín ) Chiếc váy điển
hình là loại xăm pốt chân khen , một loại váy hở quấn. Nam giới đến tuổi trưởng thành
phải vào chùa tu một thời gian thì mới được xã hội nhìn nhận . Gia đình phụ quyền
nhưng đàn bà vẫn được tôn trọng, đối xử bình đẳng. Họ theo truyền thông phật giáo
tiểu thừa khi chết thì hoả thiêu bởi “sóc” Khơme không có nghĩa địa.
Về phong tục tập quán : Theo đạo Bà La Môn, đạo Phật dòng tiểu thừa. Sùng kính
đạo Phật. Thanh niên trước khi trưởng thành thường đến chùa tu học để trau dồi đức
hạnh và kiến thức. Nhà ở lợp bằng lá dừa nước, ít nhà lợp ngói. Có tiếng nói và chữ
viết riêng. Sống xen kẽ với người Kinh, Hoa trong các phum, sóc, ấp. Các ngày lễ lớn
là lễ Chôn Chơ Nam Thơ Mây (năm mới), lễ Phật Đản, lễ Ðôn Ta (Xá tội vong nhân),
lễ hội Ooc-Om-Bok (cúng trăng).
1.2.2.3. Người Chăm
Hiện nay ở vùng Nam Bộ có khoảng 12 000 người ( thống kê 1999 ) tập trung chủ
yếu ở An Giang , Đồng Nai , TP Hồ Chí Minh và miền cực Đông Nam Bộ . Ngôn ngữ
chính thuộc hệ Mã Lai – Đa Đảo. Hầu hết người Chăm theo đạo Hồi (nhóm Bà Ni và
nhóm Ixlam) và đạo Bà La Môn (chiếm 3/5 dân số). Duy trì chế độ mẫu hệ, con gái
theo họ mẹ. Nhà gái cưới chồng cho con, con trai ở rể. Con gái được thừa kế tài sản,

con gái út phải nuôi dưỡng bố mẹ. Nhà ở quay mặt về phía nam hoặc tây. Múa hát dân
tộc Chăm rất nổi tiếng.

Các lễ hội dân gian truyền thống tiêu biểu của người Chăm đó là: lễ hội Katê (tưởng
niệm đấng cha - lễ hội lớn nhất, vui nhất của người Chăm theo đạo Bà La Môn) ; lễ
hội Ramưwan - lễ hội điển hình nhất về lễ nghi ở thánh đường của người Chăm theo
đạo Hồi; lễ hội Tháp Bà (tưởng niệm nữ thần Mẹ Xứ sở) đến từ Nha Trang - Khánh
Hòa; lễ mừng sức khỏe, lễ múa tống ôn đầu năm, lễ cưới của người Chăm An Giang...
Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục
thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình)
là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài)
thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây
duy nhất là dân tộc còn thấy nam giới mặc váy ở Việt Nam với lối mang trang phục và
phong cách thẩm mỹ riêng


1.2.2.4. Người Xtieng ( Xa Điêng)
Dân số khoảng 66 788 người ( 1999 ) địa bàn cư trú chủ yếu ở phía bắc tỉnh Bình
Dương và một phần của tỉnh Tây Ninh và Đồng Nai. Thuộc nhóm ngôn ngữ chính là
Môn – Khmer.Người Xtiêng là một dân tộc rất đam mê âm nhạc và nhạc cụ của họ là
bộ chiêng 6 cái , cồng , khèn , bầu.
Trang phục : Nữ mặc váy, nam đóng khố. Mùa đông choàng thêm tấm vải. Họ để
tóc dài búi sau gáy, tai xâu lỗ, xăm mặt, xăm mình. Ðeo nhiều loại trang sức làm bằng
gỗ hoặc ngà voi.
Phong tục tập quán :Ðứng đầu là già làng am hiểu tập tục, có uy tín, tháo vát. Họ
sống định canh định cư theo từng gia đình. Tin vào sức mạnh huyền bí của sấm sét,
trời đất, trăng, mặt trời. Tính tuổi theo mùa rẫy. Trong hôn nhân, họ lấy vợ lấy chồng
khác dòng họ. Cô dâu về ở nhà chồng ở sau ngày cưới.
1.2.2.5. Người Chơ Ro ( Châu Ro , Đơ Ro )
Dân số khoảng 22 567 người tập trung chủ yếu ở Đồng Nai , Bà Rịa – Vũng Tàu và

các tỉnh cực Đông Nam Bộ , ngôn ngữ thuộc nhóm Môn-Khmer gần với tiếng Mạ ,
Xtiêng. Đa số người dân Châu Ro sống bằng nghề làm nương rẫy nhiều nơi phát triển
về trồng lúa nước, chăn nuôi , săn bắt , đánh cá , nghề thủ công là đan lát, làm các đồ
dùng bằng tre, gỗ.
Phong tục tập quán : Coi trọng chế độ mẫu hệ và phụ hệ như nhau. Người Chơ Ro
tin mọi vật đều có "hồn" và các "thần linh" chi phối con người, khiến con người phải
kiêng kỵ và cúng tế. Lễ cúng "thần rừng" và "thần lúa" là quan trọng. Trước đây sống
ở nhà sàn, hiện nay họ đã ở nhà trệt.
Trang phục : Mặc như người Kinh trong vùng. Nữ thích đeo các vòng đồng, bạc,
dây cườm...
Ngoài những dân tộc thiểu số sống ở Vùng đồng bằng Nam Bộ như đã kể trên đã
góp phần làm tăng nét phong phú của Văn hóa Việt Nam về các mặt : phong tục tập
quán, lễ hội , âm nhạc , trang phục . Còn có phần lớn người Kinh sinh sống và làm ăn
lâu đời ở đây tạo nên sắc thái pha trộn giữa những nềnVăn hóa riêng biệt thành một
nền Văn hóa chung - Văn hóa Nam Bộ .
1.2.3. Cách thức hoạt động sản xuất
Do điều kiện địa lý đặc thù, nên cách thức hoạt động sản xuất của cư dân trên vùng
đất phì nhiêu rộng lớn này mang đặc trưng đồng bằng sông nước rõ nét nhất, đồng thời
cũng đa dạng nhất so với tất cả các vùng miền khác. Nhờ sông Cửu Long có tốc độ
dâng nước và tốc độ dòng chảy thấp, người ta không cần phải đắp đê ngăn lũ như ở
đồng bằng sông Hồng, mà ngược lại còn tận dụng nguồn nước này vào mùa lụt để đưa


nước ngọt và phù sa vào ruộng, rửa phèn ở vùng trũng, đánh bắt thuỷ sản, v.v. Không
chỉ thế, sông nước nơi đây còn là tiền đề phát triển các nghề buôn bán trên sông, vận
tải đường sông, v.v. Cho nên, không ở đâu có nhiều từ ngữ để chỉ các loại hình và hoạt
động sông nước như ở vùng này: sông, lạch, kinh, rạch, xẻo, ngọn, rọc, tắt, mương,
rãnh, ao, hồ, đìa, hào, láng, lung, bưng, biền, đầm, đìa, trấp, vũng, trũng, gành, xáng,
vịnh, bàu...; nước lớn, nước ròng, nước đứng, nước nhửng, nước rông, nước rặc, nước
lên, nước xuống, nước nhảy, nước chụp, nước rút, nước nổi, nước lụt, nước lềnh, nước

cạn, nước xiết, nước xoáy, nước ngược, nước xuôi... Sông nước đã trở thành một yếu
tố cấu thành đặc trưng của văn hoá nơi đây.
Trước hết, do diện tích có thể trồng lúa trên cả hai vùng châu thổ rất rộng lớn và phì
nhiêu nên ở nơi đây, truyền thống nông nghiệp lúa nước của người Việt đã được phát
huy ở mức tối đa: Nam Bộ sản xuất đến 50% lúa cả nước, và góp phần chính yếu vào
sản lượng gạo xuất khẩu hằng năm trên 4 triệu tấn của cả nước. Nhiều thương hiệu lúa
gạo của Nam Bộ rất nổi tiếng trên thị trường trong và ngoài nước, như gạo Tài
Nguyên, gạo Nàng Hương Chợ Đào (Cần Đước, Long An), v.v.
Nam Bộ cũng là nơi sản xuất đến 70% trái cây cả nước. Các tỉnh miền Đông có sầu
riêng, mít, bưởi, măng cụt, vú sữa, chôm chôm... Long An có đặc sản dưa hấu Long
Trì, dứa Bến Lức. Bến Tre có cam, quít, sầu riêng, chuối, chôm chôm, măng cụt, mãng
cầu, xoài cát, bòn bon, khóm, vú sữa, bưởi da xanh, trồng nhiều ở Chợ Lách, Giồng
Trôm, Mỏ Cày và Châu Thành. Vĩnh Long nổi tiếng khắp Việt Nam với đặc sản bưởi
Năm Roi, v.v.
Nam Bộ cũng là vùng trồng cây công nghiệp lớn nhất nước. Các tỉnh miền Đông có
cao su, điều, đậu phộng... Các tỉnh miền Tây có dừa, mía, đậu phộng, thuốc lá, tiêu...
Long An trồng nhiều đậu phộng ở Đức Hoà, trồng mía ở Thủ Thừa. Bến Tre có gần
40.000ha dừa, cho rất nhiều trái và lượng dầu cao. Ngoài nước uống và dầu, dừa còn
cho các sản phẩm khác là than dừa, vỏ dừa làm thảm dừa, dây dừa, kẹo dừa. Mía được
trồng nhiều tại các vùng đất phù sa ven sông rạch tại Mỏ Cày, Giồng Trôm. Diện tích
trồng thuốc lá tập trung ở Mỏ Cày, nơi có loại thuốc thơm nổi tiếng. Ngoài ra huyện
Chợ Lách (Bến Tre) còn là nơi trồng các loại hoa kiểng, bonsai nổi tiếng.
Sở hữu một vùng sông nước lắm thuỷ sinh và được biển bao quanh hai phía, Nam
Bộ cũng là một ngư trường giàu có nhất nước, là cơ sở đề phát triển các nghề đánh bắt,
nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Đánh bắt thuỷ sản phát triển cả ở vùng đầu nguồn,
vùng cửa sông và vùng biển. Chế biến thuỷ sản rất phát triển ở TP. Hồ Chí Minh,
Vũng Tàu, Phú Quốc. Nước mắm Phú Quốc là một thương hiệu nổi tiếng cả nước và
quốc tế. Nghề nuôi cá bè trên sông phát triển ở Đồng Nai, Châu Đốc... Ngoài ra, do
tôm cá dồi dào nên Nam Bộ cũng là nơi có nhiều sân chim nhất trong cả nước. Hầu
như tỉnh nào ở miền Tây cũng có sân chim, trong đó nổi tiếng nhất là các sân chim ở

Bến Tre, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Cà Mau. Mỗi sân chim là nơi trú ngụ của hàng trăm


ngàn chim thú hoang dại như, cò, vạc, sếu... cùng với thảm thực vật phong phú của
môi trường đồng bằng và ven biển nhiệt đới gió mùa.
Các nghề thủ công truyền thống cũng khá phát triển. Bình Dương là nơi có nhiều
làng nghề truyền thống với các nghệ nhân điêu khắc gỗ, làm đồ gốm và tranh sơn mài.
Từ xa xưa các sản phẩm gốm mỹ nghệ, sơn mài và điêu khắc của Bình Dương đã tham
gia hội chợ quốc tế, đồng thời cũng đã xuất khẩu sang Pháp và nhiều nước trong khu
vực. Bến Tre có làng nghề chế biến các sản phẩm từ dừa và mật ong trên cồn Phụng
thuộc huyện Châu Thành, v.v.
Việc giao thương của vùng cũng mang đặc thù sông nước. Từ xưa, các trung tâm
giao thương lớn của vùng đều được hình thành ven bờ sông rạch, thuận lợi cho việc
vận chuyển hàng hoá: Nông Nại Đại phố, Mỹ Tho Đại phố, Sài Gòn, Cần Thơ... Đặc
biệt ở miền Tây còn có các chợ nổi mà toàn bộ hoạt động đều diễn ra trên sông nước.
Chợ nổi Long Xuyên (An Giang) là nơi hàng trăm ghe xuồng tụ tập để buôn bán hàng
hoá nông sản như bánh canh ngọt, lạt, bánh tầm, bánh bò, hủ tiếu, chè đậu đỏ, cà phê...
Chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ) tụ họp hàng trăm ghe từ tờ mờ sáng, bán đủ loại sản
phẩm miệt vườn được treo trên một cây sào cắm trước mũi ghe gọi là "cây bẹo".
Người mua chỉ cần nhìn vào "cây bẹo" là biết ngay ghe bán thứ gì. Tương tự là chợ nổi
Cái Bè (Tiền Giang), chợ nổi Phụng Hiệp (Hậu Giang)... Là nơi "dân thương hồ" lui
tới mưu sinh, chợ nổi đã trở thành một nét sinh hoạt văn hoá rất đặc thù của miền Tây
sông nước, và được ngành du lịch khai thác như một sản phẩm du lịch độc đáo dành
cho du khách.
Người Khmer Nam Bộ chủ yếu làm nghề trồng lúa nước trên đất giồng và vùng
chân giồng, nơi đất đai màu mỡ thích hợp cho việc trồng lúa nước và các loại hoa màu,
hoặc vùng đất giữa các giồng chính và giồng nhánh, nơi có đất tốt có thể trồng liên tục
các loại lúa, khoai lang, bắp, dưa hấu, rau đậu. Từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, do
dân số gia tăng và đất hoang ngày càng ít, người Khmer đã khai phá cả những mảnh
đất bưng phèn ở các vùng ngập mặn chỉ có thể cấy lúa một vụ. Bên cạnh việc trồng lúa

nước, người Khmer còn trồng hoa màu trên đất rẫy. Ở vùng ven sông biển, người
Khmer cũng làm nghề đánh bắt cá mà chủ yếu là cá đồng, cá sông, với kỹ thuật và ngư
cụ giống như người Việt. Nghề chăn nuôi nhìn chung còn gắn với nông nghiệp, mặc
dù đã hình thành được những đàn bò, trâu, vịt tàu... khá lớn. Các nghề thủ công đan
mây tre, đan đệm, dệt chiếu rất phổ biến. Nghề dệt và làm gốm còn duy trì ở An
Giang, Kiên Giang.
Người Hoa ở nông thôn Nam Bộ chủ yếu làm các nghề nông, nghề rừng, nghề cá,
nghề muối, nghề sắt. Người Hoa ở vùng đô thị thì hoạt động kinh tế chủ yếu là sản
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, vận tải. Thời Pháp thuộc,
người Hoa nắm độc quyền vận chuyển hàng hoá từ miền Tây về Sài Gòn - Chợ Lớn, từ
Sài Gòn - Chợ Lớn lên cao nguyên, độc quyền thu mua xay xát lúa gạo dành cho xuất
khẩu, và độc quyền mua bán hàng hoá với Miên và Lào. Dù ở thời kỳ nào, các cộng


đồng người Hoa ở Nam Bộ cũng nỗ lực duy trì sự bền vững về kinh tế cũng như bản
sắc văn hoá riêng. Các hoạt động kinh tế rất thành công của người Hoa đã góp phần
thay đổi quan niệm trọng nông khinh thương của người Việt Nam, và góp phần thúc
đẩy quá trình đô thị hoá ở Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh thành khác ở phía Nam.
Người Chăm Nam Bộ chủ yếu làm các nghề đánh cá, làm ruộng, buôn bán, dệt vải.
Ở An Giang, có nghề dệt sarong (xà-rông), dệt kama (khăn tắm, khăn rằn), thêu khăn,
đan lưới... của phụ nữ Chăm, phục vụ nhu cầu ăn mặc theo truyền thống của người
Chăm và dùng để trao đổi trong vùng. Năm 1999, Hợp tác xã Dệt thêu Châu Giang đã
được thành lập tại cộng đồng Chăm tỉnh An Giang nhằm bảo tồn và phát triển nghề dệt
truyền thống. Ở miền Đông Nam Bộ, hoạt động kinh tế của người Stiêng chủ yếu là
làm nương rẫy trồng lúa, và làm một ít ruộng nước. Săn câu lượm hái là ngành kinh tế
phụ, rất thiết thực vào mùa giáp hạt. Nghề thủ công có đan lát, làm đồ gốm, dệt vải.
Hoạt động kinh tế của người Chrau chủ yếu là làm nương rẫy. Săn câu lượm hái vẫn
còn giữ vị trí nhất định trong đời sống hằng ngày. Nghề thủ công kém phát triển, chỉ
có một ít nghề phụ gia đình như đan, rèn, mộc.
1.2.4. Tín ngưỡng- phong tục- lễ hội

1.2.4.1 Tín ngưỡng
Về tín ngưỡng, là một vùng đất đa tộc người, Nam Bộ cũng là nơi gặp gỡ các tín
ngưỡng tôn giáo sẵn có từ Bắc Bộ, Trung Bộ, đồng thời là cái nôi sinh thành những tín
ngưỡng tôn giáo mới. Vì vậy, đây chính là vùng đất phong phú nhất về tín ngưỡng tôn
giáo ở Việt Nam. Tiếp nối truyền thống của người Việt ở đồng bằng Trung và Nam
Trung Bộ, người Việt Nam Bộ cũng dành ưu tiên cho đạo Phật, kết hợp với tín
ngưỡng vạn vật hữu linh và thờ cúng tổ tiên. Chùa chiền có mặt ở khắp đồng bằng, đặc
biệt là những vùng đồi núi sót, có sơn thuỷ hữu tình. Ở Thất Sơn, có chùa Phật Lớn lâu
đời, có tượng Phật Di Lặc được sách kỷ lục Việt Nam công nhận lớn nhất cả nước. Ở
núi Bà Đen, có chùa Bà Đen nổi tiếng, v.v. Đạo Phật kết hợp với đạo Lão, đạo Khổng,
đạo Kitô, đạo Thánh Mẫu, là cơ sở hình thành đạo Cao Đài trên vùng đất Nam Bộ. Tây
Ninh là thánh địa của đạo Cao Đài. Hiện đạo Cao Đài có 2,7 triệu tín đồ. Đạo Phật
cũng là cơ sở hình thành đạo Hoà Hảo ở An Giang. Hiện đạo này có khoảng 2 triệu tín
đồ. Các tôn giáo trên cũng là cơ sở làm hình thành nhiều "đạo" khác ở Nam Bộ.
Những "đạo" này tuy ít tín đồ nhưng cũng góp phần giải quyết nhu cầu tâm linh của cư
dân trên vùng đất mới trong lúc các tôn giáo lớn chưa phát triển trong vùng: Bà Rịa Vũng Tàu có đạo Ông Trần ở xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu; Bến Tre có đạo Dừa
trên cồn Phụng thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, v.v. Ngoài ra, đạo Thiên
Chúa, đạo Tin Lành cũng có đông tín đồ. Bên cạnh đó, họ cũng duy trì tín ngưỡng thờ
cúng Bà Chúa Xứ ở núi Sam, thờ cúng Thành hoàng ở các đình miếu, thờ cúng Cá
Ông ở các làng ven biển.


Phong tục của người Việt Nam Bộ cũng có nguồn gốc từ đồng bằng Trung và Nam
Trung Bộ, nhưng có tiếp biến thêm nhiều yếu tố từ phong tục của người Khmer, người
Hoa. Chẳng hạn, hầu hết người Việt Nam Bộ vẫn giữ tập quán giẫy mã vào ngày 25
tháng Chạp trước khi làm lễ đón ông bà vào ngày 30 tháng Chạp âm lịch, nhưng một
bộ phận người Việt Nam Bộ cũng theo tập quán tảo mộ vào tiết Thanh minh tháng Ba
âm lịch giống như người Hoa. Tính cách của người Việt Nam Bộ cũng có nhiều nét
khác biệt với người Việt ở đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ: cởi mở, không ưa sự
ràng buộc, chuộng sự bình đẳng; trong mưu sinh thì có tinh thần mạo hiểm, bươn chải,

đầu óc sáng tạo, nhanh nhạy với cái mới; trong ứng xử thì bộc trực, hào hiệp, trọng
nghĩa, khinh tài, thích ăn chơi xả láng, v.v.
1.2.4.2. Phong tục- Lễ hội
Các lễ hội truyền thống trong dân gian Nam Bộ đã được hình thành và phát triển
theo tiến triển hình thành và phát triển của nền kinh tế. Một đặc trưng quan trọng của
văn hóa dân gian Nam Bộ là Lễ Tế nông nghiệp, mà chủ yếu là nghề trồng lúa nước
của người Nam Bộ. Do đó các lễ hội truyền thống đã gắn chặt với sinh hoạt tinh thần
của mỗi người dân Nam Bộ.
Tương ứng với với sự phong phú về cách thức hoạt động sản xuất và về tín ngưỡng,
lễ hội của người Việt Nam Bộ cũng rất đa dạng, bao gồm cả bốn loại hình lễ hội chủ
yếu ở Việt Nam: lễ hội nông nghiệp - ngư nghiệp; lễ hội tưởng niệm danh nhân - anh
hùng dân tộc; lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo; và hỗn hợp. Tất cả đều mang sắc thái Nam
Bộ mặc dù nhiều lễ hội bắt nguồn từ Trung Bộ. Ở các đình làng, thường xuyên có các
lễ hội Kỳ yên tiến hành vào đầu năm và cuối năm, để tạ ơn Thành hoàng Bổn cảnh,
các thần linh và các bậc tiền hiền, hậu hiền có công khai khẩn, khai cơ, giúp dân an cư
lạc nghiệp. Ở vùng ven biển, lễ hội Nghinh Ông là sự kiện quan trọng bậc nhất trong
đời sống văn hoá và tâm linh của cư dân. Ở Bà Rịa-Vũng Tàu, nơi có 10 đền thờ cá
voi, nhiều nhất ở miền Nam, bên cạnh lễ hội Nghinh Ông còn có lễ Lệ Cô Long Hải từ
10/2 đến 12/2 âm lịch để thờ cúng Mẫu - Nữ thần và kết hợp cúng thần biển. Ở Bến
Tre, lễ hội Nghinh Ông tiến hành vào ngày 16/6 âm lịch hằng năm tại các các làng ven
biển thuộc huyện Bình Đại, huyện Ba Tri. Trong ngày hội, tất cả tàu thuyền đánh cá
đều về tập trung để nghinh Ông, tế lễ, vui chơi và ăn uống. Ở Cần Giờ (TP. Hồ Chí
Minh), Vàm Láng (Tiền Giang)... đều có lễ hội Nghinh Ông trọng thể hằng năm. Lễ
hội tưởng niệm các danh nhân có công mở đất như Nguyễn Hữu Kính, Nguyễn Văn
Thoại (Thoại Ngọc Hầu), Lê Văn Duyệt, Trần Thượng Xuyên... và lễ hội tưởng niệm
các anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Đốc
binh Kiều, Phan Công Hớn, Ngô Tán Đước, Nguyễn Thanh Long, Trương Văn Rộng,
Trần Công Thận... đều là những lễ hội long trọng do nhân dân tổ chức, với sự bảo trợ
của chính quyền địa phương. Lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo bao gồm hội đền Linh Sơn
Thánh mẫu ở núi Bà Đen; lễ hội Vía Bà Chúa Xứ ở núi Sam; các lễ tết cổ truyền như

tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ; các lễ hội thường niên của đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo
Hoà Hảo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành... Trong số đó, lớn nhất là lễ hội Vía Bà Chúa


Xứ ở núi Sam, Châu Đốc, một lễ hội đặc trưng của cư dân Nam Bộ, hằng năm thu hút
đến 2,5 triệu người hành hương và du khách.
Người Khmer Nam Bộ theo đạo Phật Tiểu thừa Theravada, một tôn giáo mới du
nhập từ thế kỷ XIII nhưng đã thay thế đạo Bà La Môn, chi phối rất sâu sắc đời sống
của người Khmer. Đối với người Khmer, Phật là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất, là
đấng thiêng liêng nhất, còn sư sãi là những người thay Đức Phật để hoằng hóa độ sinh,
vì vậy rất được mọi người tôn kính. Nam giới Khmer đều được trải qua một thời kỳ tu
tập tại chùa để trở thành một con người hoàn thiện về nhân cách, phẩm chất, khả năng.
Bên cạnh đạo Phật, người Khmer vẫn duy trì tín ngưỡng thờ Neak tà là các nam thần
bảo hộ con người và đất đai trong một khu vực, dưới hình tượng là những viên đá cuội
bóng láng. Còn tín ngưỡng thờ Arăk là bà tổ dòng họ mẫu hệ, bảo hộ gia đình, nhà,
khu đất, rừng, vốn phổ biến dưới thời Pháp thuộc, thì nay đã hiếm thấy.
Các lễ hội của người Khmer bao gồm hai loại chính là lễ hội nông nghiệp - ngư nghiệp
và lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo. Theo truyền thống, người Khmer phân chia lễ hội của
mình thành hai loại là lễ hội văn hoá - lịch sử (pithi) và lễ hội có màu sắc Phật giáo
(bon). Các lễ hội văn hoá - lịch sử bao gồm lễ Tết (pithi Chôl Chnam Thmây, 14-1516/4 dương lịch, gồm nghi lễ đắp các núi cát và tắm Phật, tảo mộ ông bà, vui chơi), lễ
cúng tổ tiên (pithi Sen Đônta, 29/8-1/9 âm lịch Khmer), lễ cúng trăng (pithi Sâm Peak
Preach Khe, còn gọi là lễ đút cốm dẹp - Âk Âmbok, 15/10 âm lịch, gồm nghi lễ cảm tạ
thần Mặt Trăng bảo hộ mùa màng, điều hòa thời tiết, đem lại ấm no, tổ chức đua ghe
ngo - Um tuk ngua)... Các lễ hội có màu sắc Phật giáo bao gồm lễ Phật đản (bon
Pisakh Bâuchea), lễ nhập hạ (bon Châul Vâssa), lễ cầu phước (bon Đa), lễ hội linh
(bon Pchum Bôn), lễ tang (bon Sôp).... Ngoài ra, người Khmer còn có các nghi lễ vòng
đời như lễ cắt tóc (đầy tháng), lễ giáp tuổi (12 tuổi), lễ đi tu cho nam giới, lễ cưới, lễ
chúc thọ, và lễ tang dùng hình thức hoả táng.
Người Hoa ở Nam Bộ phần nhiều theo các tín ngưỡng dân gian và thờ cúng tổ tiên.
Hệ thống thần thánh của người Hoa rất phong phú và phức tạp. Các thần thánh được

cộng đồng thờ cúng gồm Bà Thiên Hậu, Quan Thánh Đế Quân, Ngọc Hoàng, Ông
Bổn, Khổng Tử... Trong đó, thánh nhân được thờ cúng nhiều hơn thần linh, và Thiên
Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Phước Đức Chánh Thần là ba vị thần được
tôn sùng bậc nhất. Bên cạnh đó là hàng chục vị thần của các địa phương. Trong gia
đình, người Hoa thờ các vị thần bảo hộ gia đình: Thiên Quan Tứ Phước, Môn Thần,
Thổ Địa Bản Gia, Táo Quân, Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần, Tiền Hậu Địa Chủ Tài
Thần, Quan Âm Bồ Tát, Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, tổ tiên, tổ sư. Một số
người Hoa cũng theo đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành. Vì vậy, người Hoa có
rất nhiều lễ hội: tết Nguyên đán 1/1 âm lịch, vía Ngọc Hoàng 9/1, vía Quan Công 13/1,
tết Thượng nguyên 15/1, ngày Hàn thực 3/3, vía Ông Bổn 15/3, tiết Thanh minh tháng
3, vía Bà Thiên Hậu 23/3, lễ tế Khổng Tử và 72 tiên nho, tết Đoan ngọ 5/5, ngày cúng
cô hồn 15/7, tết Trung thu 15/8, ngày Hạ nguyên 15/10, tiết Đông chí 15/11; chưa kể
các nghi lễ vòng đời.


Người Chăm Nam Bộ hầu hết đều theo đạo Hồi (Islam), tôn thờ Thượng đế Allah và
lấy Kinh Qur'an làm kim chỉ nam cho hoạt động tín ngưỡng của mình. Các lễ hội
truyền thống của người Chăm Nam Bộ chủ yếu là lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo: lễ
Tolakbala vào ngày Thứ tư tuần cuối tháng Safar (tháng 2 Hồi lịch) để cầu xin Thượng
đế ban sự bình an, lễ kỷ niệm ngày sinh của Đấng Muhammad vào ngày 12 tháng
Rabiul Awal (tháng 3), lễ Raya Iadil Fitrah vào ngày cuối cùng của tháng chay nhịn
Ramadan (tháng 9). Các nghi lễ vòng đời gồm có lễ đặt tên, cắt tóc cho trẻ sơ sinh (cha
kak buk), lễ thành niên thực hiện tiểu phẫu (khotan) ở bộ phận sinh dục khi con trai và
con gái đến 15 tuổi, hôn lễ, và tang lễ dùng hình thức địa táng. Người Stiêng, người
Chrau thì vẫn bảo tồn tín ngưỡng vạn vật hữu linh, phong tục và lễ hội gần gũi với các
tộc người nói tiếng Mon-Khmer ở Tây Nguyên.
1.2.5. Văn học, nghệ thuật- giao lưu văn hoá
1.2.5.1 Văn học
Nam Bộ có một kho tàng văn học, văn nghệ dân gian phong phú. Đó là các truyện
dân gian phản ánh sự nghiệp khai phá đất đai, gắn liền với những danh thắng, di tích

và nhân vật lịch sử. Đó là kho tàng ca dao và dân ca với các điệu hò, điệu lý, các bài
hát huê tình, hát ru em, hát đồng dao, hát sắc bùa, hát thài, hát rối, hát vọng cổ, hát tài
tử, v.v. Đặc biệt, hát vọng cổ và hát tài tử rất được người Nam Bộ ưa thích. Ngoài ra,
Nam Bộ còn có một số thể loại văn học dân gian đặc sắc khác là nói vè, nói tuồng, nói
thơ. Đây là loại hình tự sự dân gian khá phổ biến, nó thông tin nhanh những nỗi niềm,
tâm sự. Trong đó, vè chiếm vị trí quan trọng, có những vè tiêu biểu như vè Chàng Lía,
vè Trịnh Hâm, vè thầy Thông Chánh... Truyện thơ và hình thức diễn xướng nói thơ
cũng là một hoạt động văn nghệ dân gian phổ biến tại Nam Bộ, với các truyện thơ nổi
tiếng như Lục Vân Tiên, Phạm Công - Cúc Hoa, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Lâm Sanh
- Xuân Nương, Thạch Sanh - Lý Thông, Dương Ngọc, Hoàng Trừu, Tấm Cám, Hậu
Vân Tiên... Hát bội (tuồng) từ miền Trung đưa vào đã phát triển mạnh mẽ trên đất
Nam Bộ. Hầu hết các lễ hội thường có kèm theo hát bội. Ca nhạc tài tử phát sinh từ
Gia Định rồi lan đến các tỉnh miền Tây, là một trong những cội nguồn của nghệ thuật
cải lương là loại hình sân khấu mới ra đời tại Nam Bộ vào đầu thế kỷ XX. Trên cơ sở
khai thác đặc điểm ngữ âm Nam Bộ và những thành tựu của ca nhạc, sân khấu dân
gian và ca nhạc tài tử Nam Bộ, cùng với sự tiếp biến loại hình sân khấu kịch nói
phương Tây, cải lương đã nhanh chóng trở thành một trong ba loại hình sân khấu dân
tộc phổ biến ở Việt Nam.
Văn hoá bác học ở Nam Bộ cũng bước đầu phát triển với những thi đàn, thi xã như
Tao đàn Chiêu Anh Các, Bình Dương Thi xã, Bạch Mai Thi xã, trường tư thục của Gia
Định Xử sĩ Võ Trường Toản ở Hoà Hưng... Tao đàn Chiêu Anh Các còn để lại tác
phẩm Hà Tiên thập vịnh. "Gia Định tam gia" là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và
Ngô Nhân Tĩnh là tác giả các công trình biên khảo Hoàng Việt nhất thống dư địa chí,
Gia Định Thành thông chí... Ông nghè đầu tiên của Nam Bộ là Phan Thanh Giản đã


làm Tổng tài biên soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Trong thời kỳ
cận đại, Nam Bộ có nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu nổi tiếng, như
Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn Thông,
Hồ Biểu Chánh, Trần Chánh Chiếu, Sương Nguyệt Anh, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh

Của, v.v. Các sản phẩm văn hoá gốc phương Tây như chữ quốc ngữ, nhà in, báo chí,
tiểu thuyết, thơ mới, trường học kiểu phương Tây, Âu phục... đều được phổ biến ở
Nam Bộ trước tiên rồi mới phổ biến đến các vùng miền còn lại.
Là vùng đất mới, nhưng Nam Bộ cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử - văn hoá như
Văn miếu Trấn Biên, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai; di tích Rạch Gầm-Xoài
Mút, di tích Ấp Bắc, luỹ Pháo Đài, lăng Hoàng Gia, lăng Trương Định, lăng Tứ Kiệt ở
Tiền Giang; Văn Miếu ở Vĩnh Long, v.v. Gần đây, một số địa phương ở Nam Bộ đã
tiến hành phục dựng, trùng tu các di tích này để tôn vinh những người có công đối với
lịch sử và văn hoá của vùng đất phương Nam.
Người Khmer Nam Bộ có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú bao gồm
nhiều thể loại như truyện cổ tích (rương prêng), thần thoại (rương boran), tục ngữ
(sopheaset), bài ca (châm riêng)..., và được chia làm hai mảng lớn là văn xuôi (peak
sâmrai) và văn vần (kâm nap). Người Khmer Nam Bộ cũng có nhiều loại hình nghệ
thuật rất độc đáo như múa, âm nhạc, sân khấu, kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, trang trí...
Trong đó, nghệ thuật múa được chú ý nhiều nhất, bao gồm múa dân gian và múa
chuyên nghiệp. Ram vong, lâm lêv và sarvan là ba điệu múa dân gian phổ thông nhất,
hầu như bất cứ người Khmer nào cũng biết. Ngoài ra là các điệu múa con sáo
(sarikakev), múa trống chhayam, múa đám cưới, múa đám tang, múa cúng Neak Ta và
cầu Arăk... Âm nhạc bao gồm nhạc sân khấu và nhạc dân gian. Nhạc cụ rất đa dạng,
trong đó tiêu biểu là dàn nhạc gõ (phlêng pinpeat), thường được sử dụng trong những
lễ nghi của Phật giáo, đám tang, đám cưới và các lễ hội dân gian. Dàn nhạc có 5 bộ,
gồm bộ hơi, bộ da, bộ đồng, bộ sắt, bộ mộc, nhưng người Khmer vẫn gọi là dàn nhạc
gõ vì đa số các nhạc cụ đều phải gõ để phát âm. Người Khmer còn có dàn nhạc nhẹ
(phlêng khsê) gồm các loại đàn cây, chủ yếu là đàn cò (trôrô lea), đàn cò u (trô ủ), đàn
bán nguyệt (khưm), cặp phách tre (krab), trống cổ bồng (skôr phiêng)... dùng để hợp
tấu, và các loại đàn trô khse bei và peiar Khmer dùng độc tấu trong các dịp cúng Arăk,
Neak Ta. Tiêu biểu nhất trong loại hình nghệ thuật sân khấu là kịch hát Rôbam và kịch
hát Yukê.
- Kịch hát Rôbam có nguồn gốc từ cung đình, trong đó vũ đạo chiếm một vai trò quan
trọng, nên có người gọi là múa rôbam (răm rôbam) hay hát răm. Nội dung là những

tuồng tích cổ, nổi tiếng nhất là vở Réakér.
- So với Rôbam, kịch hát Yukê có nguồn gốc gần gũi với mảnh đất Nam Bộ hơn nên
được người Khmer ở Campuchia gọi là Lakhôn Bassac (kịch hát vùng đồng bằng sông
Cửu Long), và có tuổi đời trẻ hơn, ra đời và trưởng thành trong thập niên 1920. Tuồng
tích của Yukê là các tuồng cổ Khmer được trích từ anh hùng ca Ấn Độ Ramayana; các


truyện thần thoại như Lin thông, Mak phu yong kev, Sara minh, các truyện xưa tích cũ
của người Việt như Thạch Sanh chém chằn, Tấm Cám..., và cả một số tuồng Trung
Quốc như Tam Tạng thỉnh kinh, Trụ Vương mê Đắc Kỷ...
Chùa chiền của người Khmer Nam Bộ có kiến trúc rất độc đáo, là nơi thể hiện những
thành tựu nổi bật về kiến trúc, điêu khắc, hội họa và hoa văn trang trí của người
Khmer. Các ngôi chùa không chỉ là trung tâm tôn giáo mà còn là trung tâm giáo dục,
trung tâm văn nghệ, trung tâm hội họp, trung tâm lễ hội của cộng đồng. Toàn vùng có
tổng cộng hơn 400 ngôi chùa Khmer, trong đó xưa nhất và nhiều nhất là các chùa
Khmer trên địa bàn Trà Vinh và Sóc Trăng. Ở Trà Vinh có tới 140 chùa Khmer, vượt
xa số lượng chùa của các tộc người khác hiện có trên địa bàn cộng lại. Trong đó tiêu
biểu là chùa Âng (chùa Samrông Ek, có từ năm 1642, có thuyết cho là năm 1373),
chùa Hang, chùa Nôdol (chùa Cò), chùa Samrônge (tương truyền được xây dựng năm
642, xây dựng lại năm 1850)... Ở Sóc Trăng, có những chùa nổi tiếng như chùa
Kh'leang (xây dựng năm 1533), chùa Dơi (chùa Mã Tộc, chùa Ma-ha-tuc, ra đời
khoảng đầu thế kỷ XVII), v.v. Người Khmer Nam Bộ có hệ thống chữ Khmer cổ
truyền, ra đời vào thế kỷ thứ VII, bắt nguồn từ chữ Sanskrit, vẫn còn được lưu dụng và
phổ biến trong cộng đồng.
Người Hoa ở Nam Bộ có nền văn học, nghệ thuật rất phát triển, gồm đủ các bộ môn:
văn học, âm nhạc truyền thống, tân nhạc, ca kịch, hí kịch, múa hầu, múa lân - sư rồng, tạp kỹ, kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, thư pháp, tranh kiếng, v.v. Những nơi thờ
phụng công cộng của người Hoa như các hội quán, miếu, đình, đền, chùa, nhà thờ, đều
có lối kiến trúc và điêu khắc cổ kính, đặc thù. Những nơi thờ phụng công cộng này
không chỉ là trung tâm tín ngưỡng mà còn là trung tâm văn hoá, giáo dục của cộng
đồng, nơi giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá nghệ thuật của người Hoa. Riêng

Sài Gòn - Chợ Lớn đã có trên 20 nơi thờ phụng công cộng như vậy: các hội quán Minh
Hương Gia Thạnh (xây dựng năm 1789), Nghĩa Nhuận, Lệ Châu (Minh Hương - Chợ
Lớn), Tuệ Thành (Quảng Đông - Chợ Lớn, xây dựng năm 1796), Quảng Triệu (Quảng
Đông - Sài Gòn), Hà Chương, Ôn Lăng, Tam Sơn (Phúc Kiến - Chợ Lớn), Nghĩa An
(Triều Châu - Chợ Lớn), Quỳnh Phù (Hải Nam - Chợ Lớn), Quần Tân (Hẹ - Gò Vấp);
các miếu Thất Phủ (7 bang - Chợ Lớn), Thiên Hậu (Quảng Đông - Sài Gòn); đình Nhị
Bang (Phúc Kiến - Chợ Lớn); đền Ngọc Hoàng Đa Kao (tất cả người Hoa); các chùa
Phụng Sơn (Hội chợ Sắt), Trúc Lâm (Phật tử gốc Hoa), Bảo Sơn (Phúc Kiến - Chợ
Lớn), Báo Ân (tín đồ Công giáo Hoa); các nhà thờ Cha Tam (tín đồ Công giáo Hoa),
Phúc Ân, Tịnh Tâm (tín đồ Tin Lành Hoa), v.v. Tiếng Hoa và chữ Hán, phương tiện
truyền lưu văn hoá và nối kết các cộng đồng người Hoa, vẫn được giảng dạy ở các
trường lớp nơi có người Hoa cư trú tập trung, mà nhiều nhất là ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Nhiều người Hoa cư trú lâu đời ở Việt Nam đã có những cống hiến xuất sắc, góp phần
không nhỏ vào việc phát triển trên các lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá của Việt
Nam: Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Trần Đại Định, Mạc Cửu, Mạc Thiên
Tứ, Võ Trường Toản, Gia Định tam gia (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân


Tĩnh), Gia Định tam hùng (Đỗ Thành Nhân, Võ Tánh, Châu Văn Tiếp), Ngô Tùng
Châu, Trần Tiễn Thành, Phan Thanh Giản, Lý Liễu, Châu Thượng Văn, Hồ Dzếnh, tứ
trụ thời Pháp thuộc (Hứa Bồn Hoa, Quách Đàm, Hộ Xưởng, Trần Ích), v.v. Người Việt
Nam Bộ tiếp thu Nho giáo và học thuật của Trung Hoa, một phần cũng là nhờ sự vai
trò cầu nối của những trí thức Minh Hương và trí thức người Hoa Nam Bộ.
Người Chăm Nam Bộ có các hoạt động văn nghệ như ca, múa, kịch... Tuy bị câu
thúc bởi đạo Hồi nhưng các hoạt động này vẫn được cộng đồng ủng hộ trong những
dịp lễ hội. Thành tựu nổi bật nhất về nghệ thuật của người Chăm Nam Bộ là các thánh
đường lớn với lối kiến trúc và trang trí rất độc đáo, đặc thù. Người Chăm Nam Bộ có
chữ víết riêng là chữ Chăm Melayu do người Chăm Nam Bộ xây dựng dựa trên chữ Ả
Rập và chữ Jawi của người Melayu ở Đông Nam Á, dùng để trao đổi trong cộng đồng
và tìm hiểu đạo Hồi. Các tộc người Stiêng, Chrau đều có nền văn học dân gian riêng,

và có hệ thống chữ viết được xây dựng theo mẫu tự La Tinh nhưng chưa được triển
khai, phổ biến.
1.2.5.2 Nghệ thuật
Cải lương là một làn điệu đặc trưng của mảnh đất phương Nam. Hay nói cách khác
Miền Nam của xứ Việt Nam là nơi phát xuất cải lương. Con người miền Nam có một
đời sống nhàn hạ, sung túc. Ruộng cò bay thẳng cánh. Cá đầy sông, rạch. Không lo đói
nhờ đất đai phì nhiêu, rau và lúa gạo đầy đồng. Người miền Nam mang dòng máu của
những dân đến sinh sống trên đất Nam kỳ đầu tiên. Dân ca miền Nam phối hợp những
đặc trưng của dân ca miền Bắc miền Trung, thêm vào đó những sắc thái cổ truyền của
nhạc Cao Miên, Trung Hoa, Chàm. Do đó, dân ca rất phong phú về giai điệu cũng như
tiết tấu qua những điệu lý, điệu hò, nói thơ. Cải lương đầu thế kỷ XX, làm phong phú
thêm cho những làn điệu dân ca đất phương Nam. Cùng với sự ra đời của tiểu thuyết,
kịch nói, thơ mới… sự ra đời. Cải lương được xem như là sản phẩm mang tính tất yếu
của lịch sử. Nó hình thành từ sự tiếp xúc giữa nền văn hóa nông nghiệp lúa nước và
nền văn hóa công nghiệp phương Tây. Nếu như kịch nói có lịch sử lâu đời và nguồn
gốc từ phương Tây, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa, của quan điếm thẩm
mỹ phương Tây thì sự ra đời của Cải lương có nguồn gốc từ nghệ thuật truyền thống
dân tộc và sự du nhập lối biên kịch châu Âu. Yếu tố đầu tiên mang tính cội nguồn của
nghệ thuật cải lương lá âm nhạc tài tử Nam Bộ. Cải lương hình thành và phát triển rất
mau nhờ những đóng góp cùa những bậc tài danh như Năm Phi, Năm Châu, Trần Hữu
Trang, Tư Chơi, Năm Nờ, Phùng Há… Bước đầu hình thành, Cải lương giống như tên
gọi cũng chịu ảnh hưởng đủ thứ nghệ thuật (đầu Ngô mình Sở). Tình trạng hỗn độn
trong trang phục, hay phong cách diễn vẫn thường xảy ra; chẳng hạn diễn viên đóng
Lã Bố mang giày bốt, đóng Điêu Thuyền mặc áo dài, cột dây ngang lưng, đầu thắt
bánh lái, cũng hát đủ kiểu tích Tau, chuyện Tây. Tuy nhiên, những gì phi nghệ thuật
làm mất bản sắc dân gian dần bị đào thải. Nhờ các tác giá có tri thức, có tài năng mà
sân khâu cải lương hình thành hai dòng: tuồng Tàu và tuồng Tây mà sau này các nhà
cứu sân khấu khẳng định là Cải lương có hai phương pháp: phương pháp hiện thực



tâm lý và phương pháp biểu hiện tả ý. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ,
nếu nói hát bội là loại hình nghệ thuật cũ, kịch nói là loại nghệ thuật mới thì Cải lương
lại đứng giữa cái cũ và cái mới. Tính dân tộc của phương pháp biểu hiện tả ý và tính
hiện đại qua phương pháp tả thực tâm lí sân khấu Cải lương vừa dân tộc vừa hiện đại
là do kết hợp một cách tài tình phương pháp hiện thực tâm lý và biểu hiện tả ý đó.

Về đề tài kịch bản không phải chỉ lấy trong lịch sử Trung Quốc hay Việt Nam mà
còn lấy trong các tiểu thuyết hay những cốt truyện do tác giả kịch bản đặt ra. Về nghệ
thuật biểu diễn: Thật mà đẹp. Không còn ước lệ như trong hát bội. Dùng giọng thật, tự
nhiên. Không có những giọng mé, giọng hầu..v.v…Dàn nhạc tài tử lúc hòa tấu ở phòng
khách (đàn hát sa-lông) thường gồm có: đàn kìm, đàn tranh, đàn cò, đàn độc huyền,
sáo hay tiêu, mỗi thứ nhạc cụ chi có một. Có người hát thì thêm phách hay song lang.
Khi trở thành dàn nhạc cải thì số lưọng nhạc cụ trở thành quan trọng hơn: trống ban,
song lang, cặp não bạt, đổng la, đàn cò, đàn gáo, đàn kìm, đàn tam, đàn đoản, đàn
tranh. Lại thêm sáo, tiêu, kèn cùn, kèn nàm. Sau này có thêm đàn độc huyền, đàn xến,
ghi ta phím lõm (còn gọi là lục huyền cầm), tam thập lục, vi-ô-lông, hạ uy cấm. Cây
lục huyền cầm hay ghi-ta phím lõm có nhiều khả năng về cung bậc, âm thanh trầm
bổng lại có thể luyến láy do phím móc sâu. Từ 40 năm nay, ghi-ta phím lõm giữ vai trò
chính trong dàn nhạc cải lương, và sau này đàn ghi ta phím lõm có gắn điện giống ghita điện. Ngoài dàn nhạc cổ, còn có thêm dàn nhạc Tây phương với piano, saxo,
clarinette, trống, ghi-ta điện, và đàn synthé hay organ.
Rô Băm là một loại kịch múa cổ điển cung đình, ngoài động tác múa còn dùng lời
nói, lời hát để giải thích các tích tuồng, hành động. Nội dung thường là các tích cổ như
vở Riềm kê trích từ anh hùng ca Ấn Độ Ramayana, nhất là vở Tình sử nàng Sita.
Dù Kê là một loại hình nghệ thuật có tuồng tích, có cốt truyện được xây dựng trên
nền nhạc, ca hát đối thoại và các hình thái diễn xuất dân gian. Nghệ thuật Dù Kê được


người Khmer rất yêu thích. Đoạn kết kịch bản sân khấu Dù Kê thường có hậu, cái
thiện thắng cái ác, mang tính giáo dục và nhân văn sâu sắc.
1.2.5.3 Giao lưu văn hoá

Không gian văn hoá Nam Bộ là phần mở rộng của không gian văn hoá Việt Nam
trên một vùng đất mới mà ở đó, chung tay khai phá với người Việt còn có các tộc
người bản địa và các tộc người di dân. Vì vậy, trên vùng đất này, ngay từ đầu văn hoá
của cư dân Việt, mà trong đó đã có sẵn yếu tố Chăm, đã giao lưu mật thiết với văn hoá
của các cư dân Khmer, Hoa... Trong thời cận đại và hiện đại, trong suốt một thời gian
dài vùng đất này lại chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp rồi tiếp đó là văn hoá Mỹ. Và từ
năm 1975, nơi đây cũng trở thành một địa bàn biến động mạnh mẽ về thành phần tộc
người không kém Tây Nguyên. Vì vậy, Nam Bộ cũng là một vùng đất mà giao lưu,
tiếp biến văn hoá đã và đang diễn ra với tốc độ rất nhanh. Hệ quả là hầu như không có
hiện tượng văn hoá nào ở nơi đây còn nguyên chất thuần Việt mà luôn có bóng dáng
của những nền văn hoá khác, đã hội tụ nơi đây trong hơn ba thế kỷ qua. Cho nên, có
thể nói, giao thoa văn hoá chính là một trong những bản sắc của văn hoá Nam Bộ. Nó
khiến cho văn hoá Nam Bộ vừa tương đồng, lại vừa khác biệt với cội nguồn của nó là
văn hoá Việt ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là văn hoá Nam Bộ chỉ là con số cộng các luồng
văn hoá đã hội tụ nơi đây. Trong quá trình giao thoa văn hoá, cư dân Việt nơi đây đã
không tiếp thu trọn gói các nền văn hoá khác mà chỉ những yếu tố đáp ứng các nhu cầu
vật chất và tinh thần để bổ sung vào hành trang văn hoá mang theo. Vì vậy, văn hoá
Việt nơi đây không tự đánh mất mình mà chỉ tái tạo các giá trị văn hoá mà vùng đất
này thu nạp được theo hướng làm cho nó thích ứng với văn hoá Việt, với nhu cầu của
người Việt trên vùng đất mới. Có thể nói, sự tái tạo các giá trị văn hoá đó cũng là một
bản sắc của văn hoá nơi đây.
Bên cạnh sự tiếp biến văn hoá, văn hoá Nam Bộ còn mang đặc trưng đồng bằng
sông nước. Hai đặc trưng văn hoá chủ đạo này của vùng đất Nam Bộ đã buộc tất cả
các nền văn hoá sinh tụ nơi đây đều phải tự cấu trúc lại, lược bỏ những giá trị không
còn phù hợp với môi trường mới, phát triển hoặc sáng tạo những giá trị mới giúp con
người có thể tồn tại và phát triển trên một vùng đồng bằng sông nước, đan xen những
tộc người khác biệt nhau về văn hoá. Vì vậy, uyển chuyển, linh động, phóng khoáng,
bao dung, dần dà đã trở thành bản sắc thứ ba của văn hoá Việt ở Nam Bộ và văn hoá
Nam Bộ nói chung.

1.2.6 Văn hoá sinh hoạt của vùng Nam Bộ
1.2.6.1 Ẩm thực Nam bộ
Nói đến tính hoang dã và tính sáng tạo trong văn hóa ẩm thực Nam Bộ là nói đến
đặc tính ăn uống của người Miền Nam thể hiện trong các món có nhiều nguồn gốc tự


nhiên và sự chế biến các món ăn tự nhiên đó thành các món ăn khác nhau, sự trù phú
của vùng đất này về các nguồn lợi tự nhiên, vùng đất “làm chơi ăn thiệt”. Vì đây là nơi
được thiên nhiên ưu đãi cho con người, con người không phải làm lụng nhiều mà vẫn
có cái ăn gặp gì ăn nấy, từ những cây cỏ trên bờ, con cá dưới sông, con chim trên trời,
cho đến các loài sinh vật khác.

Tính hoang dã trong văn hóa ẩm thực của người Nam Bộ đã được định hình từ đây.
Điều dễ nhận thấy nhất ở tính hoang dã này là người Nam Bộ ăn rất nhiều rau, đây là
loại thức ăn có sẵn ở vùng sông nước, ao hồ, ruộng vườn rất dễ tìm không cần nhiều
thời gian chế biến, có loại chỉ cần hái vào rửa sạch là ăn được. Người ta có thể ăn các
loại rau từ rau đắng, rau dền, rau răm, cải xanh, tía tô, hành, hẹ, ngò gai,… đến các loại
cây bông như: bông điên điển, thiên lí, bông kim châm… Trong danh mục này có thứ
dùng để ăn sống, có thứ dùng để nấu canh, có thứ luộc lên chấm với cá kho thịt kho
hay nước chấm. Người Việt nơi đây rất chuộng ăn canh, và do tiếp biến các món canh
chua của người Khmer nên các món canh chua Nam Bộ cực kỳ phong phú.
Do nguồn thuỷ sản dồi dào, thành phần thuỷ sản như cá, tôm, cua, rùa, rắn, nghêu,
sò, ốc, hến, lươn... giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu bữa ăn. Cũng do môi trường lắm
tôm cá, nên các loại mắm nơi đây phong phú hơn hẳn các vùng miền khác: mắm cá
lóc, mắm cá sặc, mắm cá linh, mắm tôm chua, mắm rươi, mắm còng, mắm ba khía,
mắm ruốc, mắm nêm... Cách chế biến cũng rất đa dạng và đặc sắc: mắm sống, mắm
kho, mắm chưng, lẩu mắm, bún mắm...


Từ các nguồn nguyên liệu thuỷ sản này kết hợp với các loại rau trái phong phú,

người Nam Bộ đã sử dụng các kỹ thuật nấu nướng khác nhau như nướng, hấp, chưng,
luộc, kho, xào, khô, mắm... để chế biến ra các loại món ăn khác nhau với những hương
vị độc đáo. Rất nhiều món ăn bình dân nhưng hấp dẫn: canh chua cá kèo, chuột đồng
xào sả ớt, cháo cá rau đắng, cá lóc hấp bầu, bún mắm Đồng Tháp, bánh canh Trảng
Bảng, v.v. đã có mặt trong thực đơn của các "làng ẩm thực", nhà hàng sang trọng trong
vùng. Bên cạnh đó, mỗi địa phương lại có những đặc sản nổi tiếng của mình. Tây Ninh
có bánh canh Trảng Bàng, bánh tráng Trảng Bàng... Long An có dưa hấu Long Trì, dứa
Bến Lức, rượu đế nếp Gò Đen... Đồng Tháp có bánh phồng tôm Sa Giang, nem Lai
Vung, quýt hồng Lai Vung, chuột đồng Cao Lãnh, sen... Trà Vinh có cốm dẹp trộn dừa
kiểu Khmer, các món đuông như đuông chà là, đuông đất, đuông dừa, mắm rươi, rượu
Xuân Thạnh, bánh tét, bánh tráng ba xe, mắm kho, bún nước lèo, lươn um lá cách, cá
cháy Cầu Quan, tôm càng nấu lẩu chua cơm mẻ, chuột đồng khìa nước dừa, vọp chong
nướng lụi, bánh xèo, bánh ống, bánh canh Bến Có... Sóc Trăng có bánh pía, lạp xưởng,
bún nước lèo, bánh cống Đại Tâm (Mỹ Xuyên), bò nướng ngói Mỹ Xuyên, bún xào
Thạnh Trị, bún gỏi già... Hậu Giang có khóm Cầu Đúc (Vị Thanh), bưởi Năm Roi
(Châu Thành), cá thát lát mình trắng (Long Mỹ)... Kiên Giang có nước mắm Phú
Quốc, rượu sim, bánh tằm bì, tôm khô, phồng mực, bún cá, tiêu, xôi Hà Tiên, bún
nước lèo... Cà Mau có mắm lóc U Minh, ba khía Rạch Gốc (Ngọc Hiển), sò huyết Bãi
Bồi (Ngọc Hiển), tôm khô Bãi Háp (Năm Căn), v.v. Người Khmer Nam Bộ cũng có
các món ăn đặc trưng như mắm prahoc, canh sòm lo ko kô, bún sòm lo mun mờ chat...
Mắm prahoc (người Việt gọi là mắm bò hóc) được làm bằng nhiều loại cá, cách làm rất
công phu và tốn thời gian (khoảng hơn 4 tháng). Bên cạnh đó còn có các loại mắm pro
ot (bò ót), ơng pa, pơ ling làm bằng tép mồng, tép bạc, và một loại mắm chua rất ngon
có tên là pha ơk (mắm chao). Dùng tôm tép trộn muối và cho vào nhiều thính (gạo
rang) xong đem phơi nắng khoảng 7-10 ngày. Khi ăn người ta trộn với đu đủ xanh thái
nhỏ, củ gừng, củ riềng, ớt, chuối chát xắt mỏng. Canh sòm lo ko kô (canh sim lo) thì
có cách nấu rất công phu, phải dùng thịt, cá tươi nấu với rau ngổ, chuối rém, hoặc trái
đu đủ non và nêm bằng mắm prahoc. Đây là món canh phổ thông được dùng ở nhiều
nơi. Món bún sòm lo mun mờ chat (bún nước lèo) thì cả người Khmer và người Việt
đều có và ưa thích. Ngoài ra, người Khmer còn có món canh vừa chua vừa cay vừa

béo gọi là sòm lo mò chu được nấu với cơm mẻ rất đặc sắc, hoặc thêm trái chuối xiêm
còn xanh và một ít mắm prahoc gọi là sòm lo mò chu pha le rất ngon.
Người Chăm Nam Bộ theo Hồi giáo có những món ăn riêng phù hợp với đạo Hồi,
gọi là các món halal. Họ được ăn thịt, nhưng phải là các loại thịt do chính người Chăm
Hồi giáo cắt tiết, đọc kinh. Riêng thịt heo, thịt chó, thịt của những con vật tự nhiên ngã
ra chết hoặc bị giết bằng cách xiết cổ, đập đầu, bị ngã, bị húc, bị mãnh thú xé xác, thì
không được phép dùng. Trong tháng chay nhịn Ramadan, người Chăm Hồi giáo phải
giữ mình trong sạch và phải chịu thử thách bằng cách nhịn mọi thứ vào ban ngày và
chỉ được phép ăn, uống, hút thuốc vào ban đêm.


Đối với các loại thuỷ hải sản, ngoài các loại cá, tôm bắt ở ao người ta còn ăn các
loài mang tính hoang dã như: con còng, con cua, ba khía, chuột, cóc, nhái, ếch, dơi…
và thậm chí người ta còn ăn một số côn trùng như: cào cào, dế… Nhưng nổi bật hơn
trong tính hoang dã này chính là môi trường của việc ăn uống, người Nam Bộ thường
có thói quen chế biến món ăn và ăn ngay tại chỗ, nên tính hoang dã ở đây thể hiện ở
việc các món ăn gắn với không gian của một khoảng vườn, mảnh ruộng, bờ ao. Món
cá lóc nướng trui là một minh chứng cho điều này, hoặc một nồi canh chua cá lóc được
nấu ngay sau buổi tát đìa cũng thể hiện điều đó.
Bởi vì mọi thứ đều là cây nhà lá vườn, tát đìa xong người ta dựa những con cá lóc to
đem nấu canh chua. Mọi thứ như bạc hà, cà chua, ớt…đều có sẵn gần đó không phải ra
chợ mua. Khi chín chỉ chặt lá chuối tươi để lót nồi và làm dĩa đựng cá, thêm một chén
muối ớt để chấm cá là đã có được một món canh chua cá lóc của một gia đình Nam Bộ
giữa một đồng ruộng mênh mông. Món cào cào rang cũng đặc biệt, bởi vùng này
nhiều cào cào đến độ chỉ cần cầm túi ra bắt một tí là được một buổi ăn của gia đình,
bắt cào cào đem về lặt chân, móc ruột cho vào chảo rang với xã ớt, ít gia vị là xong
một món khoái khẩu.
Nhưng cũng có những món ăn hoang dã ở Nam Bộ dù chưa hẳn là ngon nhưng cũng
phần do lạ mà hấp dẫn. Mà Nam Bộ là nơi “đất lành chim đậu” nhờ mưa thuận gió hòa
mà nới đây càng trừu phú phồn thịnh: Sự tiếp biến trong văn hóa ẩm thực của các dân

tộc ở đây đã làm cho các món ăn nơi vùng đất này không ngừng phong phú qua việc
tiếp thu rồi chế biến lại, tạo ra hương vị khác. Bún nước lèo của người Khmer là một
ví dụ. Món này vốn là đặc trưng của người Khmer nhưng được cả người Việt và người
Hoa ưa thích. Bún nước lèo được chế biến từ tôm, cá nấu nhừ, rồi rỉa bỏ hết xương,
nêm vào nước lèo sả, ớt, củ ngải bún được giã nhuyễn, sau đó nêm mắm bò-hóc vào
cho đậm đà. Ăn kèm với món này là các loại rau húng nhủi, húng quế, hẹ, bắp chuối...
Nhưng khi bún nước lèo này qua tay những thợ nấu người Việt thì các nguyên liệu của
nó không được giữ nguyên như cũ, mà nó đã được thêm bớt cho phù hợp với cái “gu”
của mình: người Việt lại cho thêm tép bóc vỏ, thịt heo quay và một số loại rau khác,
mà những loại rau này đôi khi nó khác hẳn nguyên gốc. Một món ăn cũng đặc trưng
của người Khmer đó là món canh xiêm lo. Canh xiêm lo là một loại canh chua nói
chung, được người Khmer nấu với đầu xương cá khô và rau ghém (chuối cây non hoặc
bắp chuối). Nấu món này người Khmer thường dùng me hoặc cơm mẻ. Nhưng khi
món canh xiêm lo này qua bàn tay chế biến của các bà nội trợ người Hoa thì họ có
cách làm hơi khác một chút: nấu canh xiêm lo, người Hoa vẫn dùng rau ghém và đầu
xương cá khô, nhưng lại không dùng me hoặc cơm mẻ; cá khô dùng để nấu món canh
này, người Hoa thường dùng loại khô cá sửu, chứ không phải cá lóc như người Khmer.
Đối với các món ăn của người Hoa, các dân tộc Việt, Khmer cũng có sự chế biến lại.
Như món cháo trắng, hột vịt muối của người Hoa vẫn được người Việt ưa dùng.
Nhưng khi ăn cháo trắng, người Việt không chỉ ăn với hột vịt muối mà còn có dưa
mắm và cá cơm, cá lòng tong kho khô... Hay món heo quay của người Hoa thường


được ăn kèm với bánh hỏi thì người Việt dùng heo quay đem kho lại, nêm thêm gia vị
vào... Hoặc món vịt tiềm của người Hoa thường được nấu với chanh muối nhưng lại
được người Việt đem tiềm với cam - ngon cũng không kém. Món canh chua của người
Việt thường được nấu với các loại cá thì người Hoa lại nấu canh chua với gà. Món cá
rô kho tộ của người Việt được người Hoa giữ nguyên công thức cũ khi nấu, nhưng họ
lại cho mỡ và tiêu nhiều hơn. Như vậy, quá trình cộng cư lâu dài giữa các dân tộc Việt,
Hoa, Khmer trên vùng đất Nam bộ này đã khiến mọi mặt văn hóa hòa hợp và giao lưu

lẫn nhau. Mỗi dân tộc, đều lưu giữ một nền văn hóa riêng của mình, đồng thời cũng
đóng góp vào nền văn hóa chung của một vùng đất làm cho nền văn hóa Nam bộ nói
chung, văn hóa ẩm thực ở Nam bộ nói riêng có sự phong phú, đa dạng và nhiều màu
sắc. Tính sáng tạo thể hiện ở việc con người chế biến ra các món ăn khác. Việc chế
biến này nhìn nhận ở hai phương diện.
Thứ nhất một món ăn người ta có thể chế biến bằng nhiều loại động thực vật khác.
Chỉ một món kho người ta có thể chế biến kho với các loại động thực vật hoặc thủy hải
sản khác để tạo ra hương vị món ăn khác nhau.
Thứ hai, chỉ một loài sinh vật, người ta có thể chế biến ra nhiều món ăn khác, với
cách làm khác và hương vị cũng khác. Chỉ môt loại cá lóc, người dân có thể chế biến
ra nhiều món ăn khác nhau như: khô lóc nướng, canh chua đầu cá lóc, cá lóc nướng
trui, cá lóc kho ba chỉ - hột vịt, cá lóc xào ớt xanh, cháo cá lóc…
Bên cạnh đó, nói đến món ăn Nam Bộ không thể không đề cập đến các mon mắm.
Món mắm là một sáng tạo độc đáo của người Nam Bộ, mắm chủ yếu được chế biến từ
cá, ngoài ra còn có mắm rươi, mắm tôm, ba khía .. Điều này cũng được làm trò vui
trong khi đố cuộc nhau.

1.2.6.2 Trang phục của người Nam bộ
Về trang phục, do sống trong môi trường sông nước, nông dân người Việt ở Nam
Bộ, cả nam và nữ, rất thích chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn. Chiếc áo bà ba gọn nhẹ
rất tiện dụng khi chèo ghe, bơi xuồng, lội đồng, tát mương, tát đìa, cắm câu giăng lưới,
và có túi để có thể đựng một vài vật dụng cần thiết. Chiếc khăn rằn được dùng để che
đầu, lau mồ hôi, và có thể dùng quấn ngang người để thay quần.
Trang phục thường nhật của nam giới người Khmer Nam Bộ cũng là bộ bà ba đen,
quấn khăn rằn. Trong dịp lễ tết, họ mặc áo bà ba trắng, quần đen (hoặc áo đen, quàng
khăn quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái). Riêng thanh niên hiện nay khi ở
nhà thường không mặc áo và quấn chiếc xà rông kẻ sọc. Trang phục nữ giới thông
thường cách đây ba, bốn mươi năm là xăm pốt, một loại váy bằng tơ tằm, hình ống
(kín). Chiếc váy điển hình là loại xăm pốt chân khen, một loại váy hở, quấn quanh



×