Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Báo Cáo Chuyên Đề Xác Định Những Mặt Hàng Có Tiềm Năng, Lợi Thế Xuất Khẩu Trong 5 Năm Tới Và Các Biện Pháp Nhằm Khuyến Khích , Đẩy Mạnh Xuất Khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 86 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
DỰ ÁN HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN
EU – VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG CB - 2A “HỖ TRỢ BỘ CÔNG THƯƠNG
XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT
NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 - 2020”.

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ

XÁC ĐỊNH NHỮNG MẶT HÀNG CÓ TIỀM NĂNG, LỢI THẾ
XUẤT KHẨU TRONG 5 NĂM TỚI VÀ CÁC BIỆN PHÁP NHẰM
KHUYẾN KHÍCH , ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU

Người thực hiện: Đỗ Văn Chiến
Giám đốc Trung tâm Thông tin
Công nghiệp và Thương mại

Hà Nội, 11- 2010


2


Chuyên đề 4:

XÁC ĐỊNH NHỮNG MẶT HÀNG CÓ TIỀM NĂNG, LỢI THẾ XUẤT
KHẨU TRONG 5 NĂM TỚI VÀ CÁC BIỆN PHÁP NHẰM KHUYẾN
KHÍCH , ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU
I. KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN CƠ CẤU NHU CẦU ĐỐI
VỚI HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG 5 NĂM TỚI
1. Sự chuyển dịch giữa các nền kinh tế trên thế giới


Kinh tế thế giới đang chuyển dịch dần theo hướng tăng tỷ trọng của các nền kinh
tế mới nổi và đang phát triển trong cả hoạt động sản xuất, đầu tư và tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ trong khi các nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản đang trở nên
bão hòa.
Với tiềm lực tích lũy từ nhiều năm, các nền kinh tế phát triển lâu đời (nhóm 1) sẽ
vẫn có khả năng hấp thụ một lượng hàng không nhỏ từ các nước có nền kinh tế đang phát
1

triển, mới nổi (nhóm 2) và các nền kinh tế còn lại có tăng trưởng GDP thấp (nhóm 3) .
Tuy nhiên, xu hướng tiêu dùng, đầu tư, sản xuất sẽ chuyển dần sang những thị trường
mới nổi và đang phát triển có khả năng sinh lời cao hơn.
a) Các nền kinh tế phát triển (nhóm 1) sẽ vận động theo các xu hướng sau:
- Phát triển sản xuất các ngành đáp ứng nhu cầu nội địa, kể cả các ngành sản xuất hàng
hóa trước đây chủ yếu phải nhập khẩu để tái cân bằng cán cân thương mại và tạo công
ăn việc làm trong nước.
- Tận dụng mọi ưu thế mà các nước khác trong nhóm các nền kinh tế mới nổi (nhóm
2) không có được, không thể sản xuất được, đặc biệt là hàng hóa công nghệ cao, hàng
cơ khí phức tạp, để phát triển sản xuất những hàng hóa mới, hàng hóa “thông minh” và
xuất khẩu sang các nước thuộc nhóm 2 và nhóm các nước đang phát triển khác (nhóm 3).
Đây là yếu tố rất quan trọng liên quan đến chính sách tiền tệ, sức ép về mạnh yếu, các
đồng tiền, tỷ giá tiền tệ giữa nội bộ một nhóm nước và giữa các nhóm nước khác nhau
hiện nay và trong 5 năm nữa.
- Giảm sản xuất các ngành hàng mà đầu tư sang các nước nhóm 2 và nhóm 3 có lợi hơn
b) Các nền kinh tế thuộc nhóm 2 có những dịch chuyển trong sản xuất nội địa như
sau:

1

Ở đây phân chia thành 3 nhóm nước với trình độ phát triển, triển vọng tăng trưởng kinh tế khác nhau để thuận lợi
cho việc phân nhóm các nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (về nhóm hàng hóa, sức mua của các

nhóm thị trường).


- Đẩy mạnh sản xuất các hàng hóa tiêu dùng lâu bền, công nghệ cao và cơ khí
nhằm đáp ứng yêu cầu trong nước và cạnh tranh với ưu thế hàng hóa từ các nước nhóm 1
- Buộc phải giảm sản xuất hàng hóa mà ở các nước nhóm 1 sẽ giảm nhập khẩu (như đã
phân tích ở phần 1.3.1), thay vào đó chuyển dịch sản xuất để xuất khẩu sang các nước
thuộc nhóm 2 và nhóm 3.
- Tăng cường đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu, dự báo nhu cầu thị trường
để tạo ra những dòng sản phẩm mới, những công nghệ, mô hình sản xuất mới.
Đây sẽ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự bứt phá của các nền kinh
tế này trong tương lai.
2. Sự chuyển dịch trong sản xuất, tiêu dùng của các nền kinh tế tiêu biểu và các thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam.
2.1. Hoa Kỳ
a) Kết quả hồi phục của các ngành kinh tế và trong lĩnh vực xã hội quan trọng
Kết thúc năm 2009, thị trường bất động sản của Mỹ vẫn trầm lắng, tăng trưởng
kinh tế trong năm 2009 âm 2,9%, chi tiêu của các hộ gia đình giảm 0,6%, Nhưng một số
tín hiệu phục hồi đã xuất hiện, nhất là khi tăng trưởng kinh tế quí IV/2009 đã đạt dương
(5,6%). Tuy nhiên, các chính sách kích thích tăng trưởng đã khiến thâm hụt ngân sách
của Hoa Kỳ lên tới 1,4 ngàn tỷ USD, nợ công là 12,3 ngàn tỷ USD, tương đương với
2

84% GDP .
b) Đánh giá kết quả so với những năm trước khủng hoảng
So sánh kết quả của năm 2009 với các năm trước khủng hoảng có thể thấy sự sụt
giảm mạnh của cả GDP, xuất khẩu và nhập khẩu cũng như sản xuất công nghiệp, cho
thấy nền kinh tế này cần một khoảng thời gian lớn để có thể lấy lại sức mạnh trước đây.
Tăng trưởng GDP, Xuất khẩu, Nhập khẩu của Hoa Kỳ qua các năm
Tăng trưởng GDP, XK, NK của Hoa Kỳ

T

c
đ


n
g
tr
ư


10
5
0
-5
-10
-15
-20

2007

2008

2009

GDP
XK NK

Năm


Nguồn: Bộ Lao động và Bộ Thương mại Hoa Kỳ

2

Nguồn: Số liệu thống kê của Bộ Lao động Mỹ


c) Đánh giá về nhu cầu hàng hóa tiêu dùng mục tiêu:
Tính đến thời điểm kết thúc năm 2009, nhu cầu đối với hàng hóa tiêu dùng của
Hoa Kỳ vẫn chưa phục hồi rõ nét. Doanh số bán lẻ tăng giảm không đều trong các tháng
nửa đầu năm 2010. Theo thống kê của Bộ Lao động Mỹ vào ngày 13/8/2010, bảy tháng
đầu năm 2010, doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của Hoa Kỳ chỉ tăng nhẹ 6,4% so với
bảy tháng đầu năm 2009, trong đó nếu không tính ô tô và thiết bị phụ tùng ô tô thì doanh
số bán lẻ chỉ tăng 5,7%.
Tóm lại:
Kinh tế Hoa Kỳ đã bắt đầu có sự chuyển dịch từ những năm liền trước khủng
hoảng tài chính 2008, với xu hướng bão hòa trong tiêu dùng hàng hóa dân sinh và cao
cấp, trong khi sự bế tắc trong việc tìm ra những dòng sản phẩm, dịch vụ mới cũng
khiến tiêu dùng và sản xuất không có đủ động lực để duy trì nhịp tăng trưởng. Sự
chuyển dịch càng rõ nét hơn khi khủng hoảng diễn ra, như một quy luật khó cưỡng
lại được của chu kỳ kinh tế. Tốc độ tăng trưởng của tiêu dùng, GDP và nhập khẩu đã
liên tục giảm trong giai đoạn 2007 cho thấy khả năng đóng góp của kinh tế Hoa Kỳ và
kinh tế thế giới đang giảm so với trước đây..
Dự báo thời kỳ 2010-2015, kinh tế Hoa Kỳ sẽ phục hồi so với thời gian diễn ra
khủng hoảng, nhưng không năng động như các giai đoạn trước, bởi hiện nay chưa
thấy những động lực khả quan cho tăng trưởng kinh tế của nước này như trong các
thập kỷ trước. Ở tầm vĩ mô, nền kinh tế sẽ chuyển từ trạng thái nợ nần và tiêu dùng
thái quá sang xuất khẩu và tiết kiệm; kéo theo những thay đổi về vi mô. Những hình
thức và môi trường kinh doanh mới sẽ xuất hiện trong thời gian tới.

2.2. Kinh tế EU
a) Những chỉ tiêu kinh tế quan trọng tính đến nay:
+ Tăng trưởng GDP từ nửa cuối năm 2009 đã có sự cải thiện, tuy nhiên vẫn thấp
hơn nhiều so với tăng trưởng tại các thị trường mới nổi.
Tăng trưởng GDP qua các quí của EU (%)
Q1/2009 QII/2009 QIII/2009 Q4/2009 Q1/2010 Q2/2010
-2,4

-0,3

0,3

0,
1

0,
1

0,
2

Nguồn: Eurostat
+ Doanh số bán lẻ: Tuy vẫn trong xu hướng giảm song doanh thu bán lẻ khu vực
EU đã có sự cải thiện tốt vào giai đoạn cuối năm


Diễn biến doanh thu bán lẻ của EU

Tổng doanh
thu

Thực phẩm,
đồ
uống
thuốc lá
Hàng
phi
thực phẩm

Tháng
1/2010
-0,5

Tháng
2/2010
+0,4

Tháng
3/2010
+0,6

Tháng
4/2010
-1,0

Tháng
5/2010
+0,4

-0,2


-0,3

+0,8

-1,1

+0,3

-0,3

+0,5

+1,0

-1,0

+0,5

Nguồn: Eurostat (2010)
+ Xuất nhập khẩu của EU với bên ngoài:
Biểu đồ: Xuất nhập khẩu của EU
trong các năm 2008, 2009
(ĐV: tỷ Euro)

Năm 2008

Năm 2009

Tăng giảm


Xuất khẩu

1.306,6

1.093,4

-16%

Nhập khẩu

1.565,0

1.198,9

-23%

Cán cân

-258,4

-105,5

Nguồn: Eurostat
+ Sản xuất công nghiệp: Sụt giảm mạnh từ năm 2008 khi khủng hoảng xảy ra
nhưng từ giai đoạn cuối năm 2009 bắt đầu khởi sắc.
b) Triển vọng thời kỳ 2010-2015
Thời kỳ 2010-2015, các nền kinh tế khu vực EU sẽ dần phục hồi từ khủng hoảng,
nhưng cũng giống như kinh tế Nhật Bản và Hoa Kỳ, động lực cho sự tăng trưởng mạnh
mẽ chưa xuất hiện. Đóng góp của khu vực này vào tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ ở mức
thấp hơn so với các nền kinh tế mới nổi và so với giai đoạn trước.

Tóm lại:Bên cạnh những hạn chế tương tự như kinh tế Hoa Kỳ (tiêu dùng có
dấu hiệu bão hòa ở những thị trường lớn, hoạt động sản xuất và kinh doanh kém
năng động so với các thị trường mới nổi), trong nền kinh tế EU còn những trở ngại
khác cho sự phục hồi và phát triển mạnh, đó là sự chênh lệch về trình độ phát triển và
chu kỳ kinh tế giữa các nhóm nước thành viên; đồng Euro đang được định giá cao so
với khu vực khác. Kinh tế khu vực EU nhìn chung mới chỉ là tạm thoát khỏi đáy suy
thoái và chưa phục hồi rõ rệt và còn phải cần rất nhiều thời gian để có thể đạt được
những thành tựu trước khủng hoảng.
2.3. Trung Quốc:


a) Những chuyển dịch trong nền kinh tế Trung Quốc:
Cũng phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu như các nước
khác, nhưng với đà tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây và quỹ dự trữ ngoại
hối khổng lồ, lớn nhất thế giới, Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về mức độ phục hồi
và vươn lên trở thành một trong những cường kinh tế trên thế giới. Sự phát triển của
nền kinh tế Trung Quốc có những đặc điểm nổi bật sau đây:
- Tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong 5 năm trở lại đây với động lực chủ
yếu là xuất khẩu và đầu tư, trong khi tiêu dùng cũng có những cải thiện đáng kể :
Tham khảo tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc qua các quí, từ Q12006-Q2-2010
16
11,4 11,5 10,6 10,4
12

13

12,6

11,5 11,2 10,6


8

10,1

9
6,8

7,9

9,1

10,7

11,9

10,3

6,2

4
0

Nguồn: Tổng cục Thống kê Trung Quốc
Năm 2009 đánh dấu sức tăng trưởng mạnh mẽ của kinh tế Trung Quốc. GDP các
quý trong năm 2009 của Trung Quốc tăng lần lượt 6,2% trong quý I, 7,9% trong quý II,
9,1% trong quý III và 10,7% trong quý IV. Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc tiếp tục
đạt 11,9% vào quí I/2010 trước khi hạ nhiệt còn 10,3% trong quí II/2010.
- Xuất khẩu và thu hút FDI tăng mạnh trong những năm gần đây, cộng với thói
quen tiết kiệm trong một thời gian dài đã giúp Trung Quốc tích lũy được quỹ dự
trữ ngoại hối lớn nhất thế giới, giúp nước này chủ động hơn các nước khác trong

chính sách kích thích tăng trưởng, chính sách tỷ giá và quản lí ngoại hối cũng như
bình ổn thị trường trong nước và đầu tư ra nước ngoài.
+ Theo số liệu từ Cơ quan thống kê quốc gia Trung Quốc, 7 tháng đầu năm
2010, xuất khẩu đạt 850,49 tỷ USD, tăng 35,6%; nhập khẩu đạt 766,56 tỷ USD, tăng
47,2%; thặng dư thương mại đạt 83,93 tỷ USD, giảm 21,2%
+ Theo thông báo của Bộ Thương mại Trung Quốc, các doanh nghiệp nước ngoài
đã đầu tư gần 66 tỷ USD vào nước này, tăng hơn 18% so với cùng giai đoạn năm ngoái
- Trung Quốc trở thành thị trường tiêu thụ một lượng hàng hóa lớn của thế
giới và sức tiêu thụ ngày càng tăng:


Tiêu dùng trong nước cũng tăng mạnh, thể hiện qua mức tăng của doanh thu
bán lẻ: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Trung Quốc, doanh thu bán lẻ thực tế năm
2009 tăng 16,9%, mức tăng cao nhất kể từ năm 1986. Bảy tháng đầu năm 2010, doanh số
bán lẻ của Trung Quốc tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2009, cao gấp hơn 3 lần so với
mức tăng của doanh số bán lẻ tại Hoa Kỳ trong cùng giai đoạn.
Tham khảo tăng trưởng XNK của Trung Quốc từ tháng 1/2007
đến hết quí II/2010
160
140
120
100
80
60
40

T1/07

T7/07


T1/08
Xu t kh u

T7/08

T1/09

T7/09

T1/2010

Nh p kh u

Nguồn: Tổng cục Thống kê Trung Quốc
- Trung Quốc đã tận dụng cuộc khủng hoảng như một cơ hội để tăng cường nhập
khẩu hàng hóa, nguyên vật liệu chiến lược trong bối cảnh giá thế giới giảm
mạnh. Họ cũng mua lại những nguồn tài nguyên và cổ phần của các công ty khai
khoáng lớn trên thế giới, nhờ thế mà họ đang ở thế thượng phong trong ngành năng
lượng toàn cầu. (Điều này sẽ được lí giải cụ thể hơn trong phần 3 của báo cáo)
- Nền kinh tế Trung Quốc đang có sự chuyển dịch theo hướng gia tăng tỷ trọng
và tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ và ngành công nghiệp, xây dựng. Trong
năm 2009, giá trị gia tăng của ngành nông lâm ngư nghiệp: đạt 3.547,7 tỷ NDT, tăng
4,2%; ngành công nghiệp và xây dựng đạt 15.695,8 tỷ, tăng 9,5%; ngành dịch vụ đạt
14.291,8 tỷ, tăng 8,9%.
- Năm 2011 dự báo triển vọng tăng trưởng kinh tế Trung Quốc sẽ tiếp tục duy
trì ở mức cao.
+ Tiêu dùng nội địa của Trung Quốc cũng có triển vọng lớn nhờ mức tăng đáng kể
thu nhập của người dân và lĩnh vực xuất khẩu được cải thiện.
+ Thị trường ô tô diễn ra tích cực sẽ tạo đà phát triển cho đầu tư và tiêu dùng liên
quan tới lĩnh vực này.



+ Thị trường nhà đất sẽ tiếp tục được bình ổn. Tháng 8/2010, so với cùng kỳ năm
trước, giá bất động sản tại Trung Quốc tăng chậm nhất trong 8 tháng nhờ các biện pháp
mạnh mẽ của Chính phủ Trung Quốc nhằm hạn chế đầu cơ nhà đất.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, kinh tế Trung Quốc cũng còn nhiều
khó khăn thách thức phía trước, tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy cơ lạm phát và đổ vỡ
bong bóng trên thị trường bất động sản có thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu Chính phủ
không có những điều chỉnh đúng đắn trong chính sách tài khóa và tiền tệ.
b) Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc trước và sau khủng hoảng
tài chính toàn cầu:
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc liên tục
tăng trưởng từ năm 2006 đến nay. Năm 2009, mặc dù xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn
sụt giảm nhưng xuất khẩu sang Trung Quốc vẫn tăng trưởng 8,3%, đạt trên 4,9 tỷ USD.
Năm 2010, xuất khẩu sang thị trường này nhìn chung tiếp tục khả quan, dự kiến xuất
khẩu cả năm sang thị trường Trung Quốc sẽ đạt trên 5 tỷ USD.
Tổng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc giai đoạn 2001-8T đầu năm
2010 (Đvt: triệu USD)

5000

4535,7

4000
2735,0

3000
2000
1495,0
1418,0

1000

4909,0
4054,8

3357,0

2960,0
2030,0

1770,0

0
2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009


8T đầu
2010

Nguồn: Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại xây dựng trên cơ sở số liệu của
Tổng cục Hải quan

Về các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, trong khi xuất khẩu cao
su, dầu thô và than đá sụt giảm năm 2009 (chủ yếu do việc hạn chế xuất khẩu nhiên liệu
thô của Việt Nam) thì xuất khẩu một số mặt hàng khác vẫn tiếp tục tăng, như gỗ và sản
phẩm từ gỗ, hải sản, hàng điện tử, hạt điều. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu tăng 35,9% đối
với mặt hàng gỗ, 10,5% đối với hạt điều, 54% đối với hải sản và 1,6% đối với máy tính
linh kiện điện tử. Như vậy có thể nói, sự chuyển hướng kịp thời sang thị trường Trung
Quốc- với nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng, là một trong điều kiện quan trọng để duy trì
kim ngạch xuất khẩu trong bối cảnh xuất khẩu sang các thị trường khác gặp khó khăn.


Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực sang Trung Quốc
từ năm 2007-8T đầu năm 2010 (ĐVT: Triệu USD)
1200

1056,9

1000
838,8
650,6800

724,8
603,5


600
400
200

856,7

935,8
674,2

603,2

462,6
281,4
167,7

197,9

145,6

229,6250

0
2007

2008

Cao su

Than đá


2009

Dầu thô

8T đầu 2010

Gỗ & Sp gỗ

Nguồn: Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại xây dựng trên cơ sở số liệu của
Tổng cục Hải quan

2.4. Một số thị trường mới nổi khác:
Tính chung cả năm 2009, trên thế giới có 12 nước có GDP tăng trưởng dương.
Trong đó có những quốc gia đạt được mức tăng trưởng dương ấn tượng: Trung Quốc
(7,8%), Ấn Độ (ước tính khoảng 7-8%), Việt Nam (5,32%), Indonesia (4,5%), Sri Lanka
(3,5%), Hàn Quốc (0,2%), Philippines (0,9%), Australia (0,68%)… Nhìn chung, các nền
kinh tế tăng trưởng dương năm 2009 chủ yếu thuộc nhóm nước đang phát triển và các
quốc gia thuộc khu vực châu Á. Mức tăng trưởng của các quốc gia này cũng góp phần
đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Nguyên nhân chủ yếu là nhờ các gói cứu trợ lớn và kịp thời về tài chính của Chính
phủ, sự kích cầu mạnh mẽ, đầu tư tăng, thặng dư cán cân thương mại hoặc thâm hụt cán
cân thương mại giảm so với năm 2008.
Những nền kinh tế mới nổi đã có sự bứt phá mạnh mẽ trong tăng trưởng và tiêu
dùng, trở thành khu vực phát triển năng động và có khả năng sinh lời cao. Năm 2010,
tăng trưởng của nhóm nền kinh tế này dự báo đạt trên 7% trong khi tăng trưởng của
3

nhóm các nền kinh tế phát triển chỉ đạt khoảng 2,7% . Họ đang trở thành điểm thu hút
hoạt động đầu tư của thế giới và động lực tăng trưởng mới của kinh tế toàn cầu. Đây là
một xu hướng tất yếu khách quan trong sự vận động của kinh tế thế giới.

Cùng với sự bứt phá đó, vị thế của các nền kinh tế này trên trường quốc tế đang
ngày càng được cải thiện. Đặc biệt là Trung Quốc, đang dần trở thành một đối trọng đối
với kinh tế Hoa Kỳ và EU.
3. Sự chuyển dịch trong hoạt động xuất, nhập khẩu giữa các nhóm nền kinh
tế trên thế giới và tác động đến cơ cấu nhu cầu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam

3

Dự báo của IMF vào tháng 10/2010.


3.1. Tác động của sự chuyển dịch trong kinh tế thế giới đến hoạt động xuất
khẩu của Việt Nam thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu:
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2000-2009
80
60

39,83

40

26,49
15,03

20

20,15
16,71
20,6
11,2


31,5

48,56

62,69

57,1

32,45
22,7

22,5

21,9

29,1

14,4825,5
3,8

0
-20

2000

2001

2002


2003

2004

Kim ng¹ ch

2005

2006

2007

2008

-8,9
2009

% thay ®æi

Nguồn: Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại xây dựng trên cơ sở
số liệu của Tổng cục Hải quan
Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam (cụ thể là kim ngạch xuất khẩu) đã tăng trưởng
rất tốt trong 5 năm liền trước khủng hoảng tài chính toàn cầu. Năm 2008, khi khủng
hoảng chưa tác động sâu rộng đến nền kinh tế Việt Nam và các nền kinh tế khác trên thế
giới, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn đạt mức kỷ lục là 62,69 tỷ USD, tăng
trưởng tới 29,1% so với năm 2007. Đến năm 2009, sức mua tại các thị trường xuất khẩu
chính suy giảm mạnh do tác động của cuộc khủng hoảng đã khiến kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam giảm 8,9% so với năm 2009, chỉ đạt 57,1 tỷ USD.
Năm 2010, cùng với sự phục hồi của một số thị trường xuất khẩu và một số mặt
hàng bình dân của Việt Nam có lợi thế về giá so với hàng hóa của các nước đối thủ cạnh

tranh đã giúp kim ngạch xuất khẩu tăng trở lại, ước đạt khoảng 70-71 tỷ USD, tăng gần
24% so với năm 2009.
Những dịch chuyển trong nền kinh tế thế giới cũng dẫn đến những thay đổi về cơ
cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2009, trong khi xuất khẩu sang các thị
trường lớn truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản sụt giảm thì xuất khẩu sang Trung
Quốc và ASEAN lại có sự tăng trưởng tốt đối với nhiều mặt hàng. Ví dụ, xuất khẩu hàng
dệt may sang Hoa Kỳ và EU giảm lần lượt 2,38% và 3,84% thì xuất khẩu sang ASEAN5
lại tăng tới 22,9%. Xuất khẩu đồ gỗ sang Hoa Kỳ giảm 4,3%, sang EU giảm 13,7%
nhưng xuất khẩu sang Trung Quốc lại tăng 8,24%...
Năm 2010, xuất khẩu sang các thị trường chủ lực nhìn chung hồi phục khả quan;
nhưng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang các thị trường mới nổi như Trung Quốc, Brazil,
Ấn Độ, Nga cao hơn so với tăng trưởng xuất khẩu sang Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Ví dụ,
kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 09 tỷ USD trong 8 tháng đầu năm, tăng 26,4% so

11


với cùng kỳ 2009. Kim ngạch xuất khẩu sang EU đang dần hồi phục, đưa kim ngạch xuất
khẩu sang thị trường này 8 tháng đầu năm đạt 6,89 tỷ USD, tăng 12,4%, so với mức tăng
chỉ có 7,8% của 6 tháng đầu năm. Trong khi đó xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc 8
tháng đầu năm nay đã tăng rất mạnh, tăng 46%, đạt trên 04 tỷ USD. Ngoài ra xuất khẩu
sang một số thị trường mới nổi khác như Brazil, Ấn Độ, Nga cũng tăng rất mạnh.
3.2. Dự báo những tác động đến cơ cấu nhu cầu của thế giới đối với hàng hóa
xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015:
3.2.1. Xu hướng xuất, nhập khẩu hàng hóa giữa các nhóm nền kinh tế trên thế giới
Kinh tế thế giới đang chuyển dịch dần theo hướng tăng tỷ trọng của các nền kinh
tế mới nổi và đang phát triển trong cả hoạt động sản xuất, đầu tư và tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ trong khi các nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản đang trở nên
bão hòa.
Với tiềm lực tích lũy từ nhiều năm, các nền kinh tế phát triển lâu đời (nhóm 1) sẽ

vẫn có khả năng hấp thụ một lượng hàng không nhỏ từ các nước có nền kinh tế đang phát
triển, mới nổi (nhóm 2) và các nền kinh tế còn lại có tăng trưởng GDP thấp (nhóm 3).
Tuy nhiên, xu hướng tiêu dùng, đầu tư, sản xuất sẽ chuyển dần sang những thị trường
mới nổi và đang phát triển có khả năng sinh lời cao hơn.
a)Về kim ngạch:
- Các nước phát triển sẽ đẩy mạnh xuất khẩu để tái cân bằng các cán cân vĩ mô
trong khi hạn chế nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng không cần thiết.
- Các nền kinh tế mới nổi sẽ nhập khẩu nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu trong nước.
b)Về cơ cấu hàng xuất, nhập khẩu:
- Nhóm hàng hàng cơ khí, chế biến, chế tạo công nghệ cao, hàng hóa thông minh
sẽ là các mặt hàng xuất khẩu chủ chốt của các nước phát triển. Đây cũng chính là các
hàng hóa mà các nước nhóm 2 có nhu cầu nhập khẩu để đẩy nhanh tiến trình công
nghiệp hóa của mình. Các dòng sản phẩm công nghệ cao khác, với mức giá phải chăng
hơn cũng sẽ được xuất khẩu với số lượng lớn sang nhóm 2 và nhóm 3. Một số nước thuộc
nhóm 2 và nhóm 3 cũng sẽ có các sản phẩm thông minh xuất khẩu sang các nước cùng
nhóm, thậm chí các nước phát triển; điều này phụ thuộc vào mức độ và hiệu quả đầu tư
cho công tác Nghiên cứu và phát triển của từng nước.
Đặc biệt thị trường hàng điện tử là thị trường có tốc độ phát triển nhanh chóng và
các nhà sản xuất đang phải chịu một áp lực cạnh tranh để trở thành thị trường hàng đầu
với những sản phẩm khác lạ và độc đáo. Tuy nhiên, một sản phẩm thành công sẽ nhanh
chóng có những sản phẩm sao nguyên bản chính từ đối thủ cạnh tranh, khiến cho sản


phẩm nhanh chóng bị giảm giá sau một thời gian được tung ra thị trường. Để dẫn đầu
trong cuộc cạnh tranh, nhà sản xuất buộc phải nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc tạo ra
những công nghệ mới. Với những lý do này, vòng đời của sản phẩm đang bị rút ngắn lại
đáng kể.
Do vòng đời của các sản phẩm công nghệ ngày càng ngắn, vòng đời đối với các
sản phẩm linh kiện điện tử phục vụ sản xuất các sản phẩm công nghệ này cũng được rút
xuống. Đây là một cơ hội tốt để đẩy mạnh xuất khẩu các nhóm linh kiện, điện tử của Việt

Nam. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng với xu hướng mới này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt
Nam phải nhanh chóng cải tiến chất lượng và năng suất để kịp thời đáp ứng nhu cầu thị
trường.
- Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản tiếp tục là thế mạnh xuất khẩu của các nước đang
phát triển. Nhập khẩu nông sản và thủy sản vào các nước nhóm 1 sẽ không suy giảm
mạnh, đặc biệt là với những mặt hàng họ không thể sản xuất được (rau quả nhiệt đới,
thủy sản đặc trưng của vùng), nhưng nhập khẩu hoa và một số lâm sản không thiết yếu
sẽ giảm sút. Các nước thuộc nhóm 2 sẽ tiêu thụ và nhập khẩu nhiều hơn các loại hàng hóa
này.
- Nhóm hàng công nghiệp nhẹ (dệt may, giày dép...): Nhập khẩu dệt may và giày
dép (nhóm hàng có hàm lượng lao động thủ công cao) của các nước nhóm 1 sẽ
không tăng trưởng mạnh, trong khi hai thị trường mới nổi là Nga và Braxin, một số Đông
Âu và Úc có thể sẽ nhập khẩu nhiều hơn. Hàng hóa thời trang cao cấp sẽ được nhập khẩu
nhiều hơn vào Trung Quốc và Ấn Độ để phục vụ tầng lớp trung và thượng lưu mới
- Nhóm hàng khoáng sản và năng lượng không thể tái tạo: Nhiều nước sẽ hạn chế các
hoạt động xuất khẩu khoáng sản để bảo vệ tài nguyên cho tương lai, trong khi tìm cách
nhập khẩu hoặc đầu tư khai thác nguồn khoáng sản tại các nước khác. Giá của các loại
khoáng sản sẽ ngày càng tăng.
- Nhóm hàng năng lượng mới có thể tái tạo: Mặt hàng này sẽ xuất hiện nhiều hơn
trong thương mại quốc tế trong những năm tới, bởi nhu cầu sử dụng năng lượng mới,
sạch thay thế nguồn năng lượng không thể tái tạo đang cạn kiệt dần.
3.2.2. Nhu cầu của thế giới đối với hàng hóa của Việt Nam:
- Nhóm hàng nông lâm thủy sản và hàng thực phẩm, đồ uống chế biến: Nhu cầu của
thế giới đối với nhóm hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sẽ vẫn ở mức cao, đặc biệt
với nhóm lương thực, thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, giúp kéo dài tuổi thọ và thân
thiện với môi trường. Đối với nhóm thực phẩm và đồ uống chế biến, nhu cầu đối với
nước ép rau, nước ép quả (phục vụ tiêu thụ trực tiếp hoặc sản xuất các thực phẩm
chức năng) sẽ ngày càng tăng. (Chi tiết các nhu cầu sẽ được phân tích ở phần II)



- Nhóm hàng chế tác
+ Phân nhóm 1: Hàng hóa gia công (dệt may, da giày, đồ gỗ...): Nhập khẩu dệt
may và giày dép (nhóm hàng có hàm lượng lao động thủ công cao) của các nước nhóm 1
sẽ không tăng trưởng mạnh, trong khi hai thị trường mới nổi là Nga và Braxin, một số
Đông Âu và Úc có thể sẽ nhập khẩu nhiều hơn. Hàng hóa thời trang cao cấp sẽ được
nhập khẩu nhiều hơn vào Trung Quốc và Ấn Độ để phục vụ tầng lớp trung và thượng lưu
mới. Hàng dệt may, da giầy, đồ gỗ của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu thuộc nhóm bình
dân; trong giai đoạn 2011-2015 nhóm hàng này sẽ có nhu cầu cao tại các thị trường mới
nổi và một số phân đoạn người tiêu dùng thu nhập thấp tại các thị trường truyền thống
như Mỹ, EU, Nhật Bản; trong khi nhóm hàng cao cấp hơn sẽ duy trì được thị phần tại các
thị trường khó tính như Mỹ và EU.
+ Phân nhóm 2: Hàng hóa có giá trị gia tăng cao (thường là hàng hóa có yếu tố
FDI) (hàng điện, điện tử, hàng thông minh, cao cấp, công nghệ cao): Nhu cầu đối với
nhóm hàng này sẽ tăng mạnh ở cả nhóm nước phát triển và mới nổi. Trong vòng 5 năm
tới, Việt Nam chưa thể xuất khẩu nhiều mặt hàng công nghệ cao nhưng có thể tận dụng
cơ hội từ nhu cầu thế giới đối với nhóm linh kiện điện tử tăng mạnh. Ngoài ra, nếu đẩy
mạnh đầu tư cho hoạt động Nghiên cứu phát triển để có các phát minh mới, nước ta sẽ có
lợi thế hơn trong việc thu hút đầu tư, liên doanh với các nhà đầu tư ngoài để sản xuất các
mặt hàng công nghệ cao; từng bước tạo nền tảng cho việc nâng cao giá trị gia tăng của
hàng xuất khẩu Việt Nam.
- Nhóm hàng khác: (không thuộc nhóm xuất khẩu chiến lược, cần ưu tiên, tập trung):
Nhu cầu đối với nhóm hàng khoáng sản, năng lượng trên thế giới sẽ ngày càng tăng
nhưng khoáng sản, nhiêu liệu thô không thuộc diện khuyến khích xuất khẩu tại
nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
II. NHỮNG MẶT HÀNG CÓ TIỀM NĂNG VÀ LỢI THẾ XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM TRONG NĂM NĂM TỚI
1. Những lợi thế trong sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam trong 5 năm tới
1.1. Về điều kiện tự nhiên và địa lí:
a) Về địa lí: Là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương,
Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía

Bắc, với Lào và Căm-pu-chia ở phía Tây; phía Đông giáp biển Đông.
Việt Nam có ba mặt Đông, Nam và Tây-Nam trông ra biển với lợi thế bờ biển có
chiều dài 3.260 km, từ Móng Cái ở phía Bắc đến Hà Tiên ở phía Tây Nam. Phần Biển


Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông và Đông Nam, có thềm lục địa,
các đảo và quần đảo lớn nhỏ bao bọc.
Đặc biệt, do nằm ở vị trí trung tâm Đông Nam Á, có thể dễ dàng qua lại cả Trung
Quốc lẫn các nước ASEAN, Việt Nam có lợi thế để trở thành một đối tác sản xuất chặt
chẽ cho cả hai. Miền Bắc tiếp giáp với biển Đông và có tiềm năng liên kết được với nhịp
độ phát triển của khu vực năng động này và đó là một ưu thế vượt trội của Việt Nam so
với các nước ASEAN trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Một lợi thế khác về vị trí địa lý là Việt Nam sở hữu nhiều cảng nước sâu, nếu đầu
tư khai thác tốt có thể trở thành những cảng trung chuyển lớn của khu vực.
Việt Nam cũng nằm gần kề các tuyến hàng hải quốc tế quan trọng.
b) Về điều kiện tự nhiên phục vụ sản xuất:
Việt Nam có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho sản xuất các mặt hàng nông, lâm,
thủy hải sản. Lãnh thổ Việt Nam bao gồm ba phần tư là đồi núi nhưng chủ yếu là đồi núi
thấp, hai đồng bằng lớn, nhiều sông, ngòi và có bờ biển dài.
Về đồng bằng và lợi thế sản xuất nông sản, đặc biệt là lúa gạo và cây ăn quả: Việt
Nam có hai đồng bằng chính là Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và Đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL)
+ ĐBSH: Rộng khoảng 15.000km² được bồi đắp bởi phù sa của hai con sông lớn
là sông Hồng và sông Thái Bình.
+ ĐBSCL: Rộng trên 40.000km², là vùng đất phì nhiêu, khí hậu thuận lợi. Đây là
vựa lúa lớn nhất của Việt Nam, đồng thời là nơi sản xuất nhiều cây ăn quả, hải, thủy sản.
Về sông ngòi và lợi thế sản xuất thủy sản: Trên lãnh thổ Việt Nam có hàng nghìn
con sông lớn, nhỏ. Dọc bờ biển, cứ khoảng 20km lại có một cửa sông, do đó, hệ thống
giao thông đường thủy khá thuận lợi.
Hai hệ thống sông quan trọng là sông Hồng ở miền Bắc và sông Mê Kông (còn

gọi là sông Cửu Long) ở miền Nam.
Về tiềm năng vùng biển và lợi thế đánh bắt hải sản: Việt Nam có 3.260km bờ biển
với nguồn thủy hản sản phong phú.
Về tài nguyên thiên nhiên:
+ Tài nguyên đất: Đất ở Việt Nam rất đa dạng, có độ phì cao, thuận lợi cho phát
triển nông, lâm nghiệp. Việt Nam có hệ thực vật phong phú, đa dạng (khoảng 14.ên 600
loài thực vật). Thảm thực vật chủ yếu là rừng rậm nhiệt đới, gồm các loại cây ưa ánh
sáng, nhiệt độ lớn và độ ẩm cao. Việt Nam đã giữ gìn và bảo tồn được một số vườn quốc
gia đa dạng sinh học quý hiếm.


+ Rừng và đất rừng: Rừng chiếm một diện tích lớn trên lãnh thổ Việt Nam. Các
khu rừng quốc gia được nhà nước bảo vệ và có kế hoạch phát triển du lịch sinh thái bền
vững.
+ Nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú. Dưới lòng đất có nhiều khoáng sản
quí như: thiếc, kẽm, bạc, vàng, angtimoan, đá quí, than đá. Ở thềm lục địa của Việt Nam
có nhiều dầu mỏ, khí đốt.
+ Tài nguyên nước, nếu tính cả lượng nước sản sinh từ nước ngoài thì mức đảm
bảo nước trung bình cho một người trong một năm cũng vào loại khá, trên mức trung
bình so với khu vực châu á và thế giới. Việt Nam có một mạng lưới sông ngòi dày đặc
(2.360 con sông dài trên 10 km), chảy theo hai hướng chính là tây bắc- đông nam và
vòng cung. Hai sông lớn nhất là sông Hồng và sông Mê Công tạo nên hai vùng đồng
bằng rộng lớn và phì nhiêu. Hệ thống các sông suối hàng năm được bổ sung tới 310 tỷ
m3 nước.
1.2. Về nguồn nhân công:
Trong xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức sẽ tạo ra nhiều cơ
hội phát triển cho các quốc gia. Đặc biệt là ở việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao, sử dụng
hiệu quả mọi nguồn lực, giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống người lao
động. Và trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt, ưu thế sẽ luôn nghiêng về các quốc
gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và một xã

hội ổn định.
Theo Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội cho, lực lượng lao động của
Việt Nam dự kiến sẽ gia tăng khoảng 1,5%/năm (tương đương với khoảng 738.000 lao
động/năm) trong giai đoạn 2010 - 2015. Mức tăng lao động của Việt Nam vẫn là nước
cao nhất khu vực ASEAN, chỉ sau Indonesia và Philippins.
Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo, nhất là qua đào tạo nghề còn thấp, chỉ bằng
1/3 các nước và các nền kinh tế công nghiệp mới. Nếu trong giai đoạn 2011-2015, việc
nâng cao chất lượng lao động được đầu tư đúng mức, Việt Nam sẽ có lợi thế nguồn nhân
lực cả về chất lượng và số lượng. Tháng 11/2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề
án: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Đề án này được kỳ vọng sẽ
tạo nên một lực lượng lao động nông thôn chuyên nghiệp và có chất lương, đáp ứng các
yêu cầu mới về phát triển sản xuất hàng xuất khẩu với chất lượng cao và các tiêu chuẩn
kỹ thuật cao hơn giai đoạn 2011-2020.
1.3. Về khả năng tiếp thu và phát triển khoa học, công nghệ, kỹ thuật
Với đội ngũ công nhân trẻ, năng động, nhiệt tình, khả năng tiếp thu và phát triển
khao học, công nghệ, kỹ thuật của Việt Nam trong 5 năm tới rất khả quan. Không chỉ các


nhà quản lý mà cả những nhà sản xuất nước ngoài đều nhìn nhận và đánh giá cao trình độ
và tay nghề của lao động Việt Nam. Họ đánh giá, người lao động Việt Nam là những con
người nhiệt tình, ham học hỏi và tiếp cận những cái mới rất nhanh.
Lực lượng lao động Việt Nam được giáo dục tốt và ham làm việc. Số tuổi trung
bình của một thợ máy là 24 tuổi, số lao động biết và thông thạo tiếng Anh ngày càng tăng
cùng với sự xuất hiện của rất nhiều trung tâm ngoại ngữ.
Lao động Việt Nam với trình độ khác nhau có thể đáp ứng yêu cầu đa dạng của
nhà đầu tư và họ không phải mất nhiều chi phí cho chế độ lượng bổng, trợ cấp,...như một
số nước trong khu vực.
Việt Nam có tỷ lệ cao về giáo dục, xóa nạn mù chữ và biết tiếng Anh. GDP bình
quân đầu người năm 2010 dự báo đạt khoảng 1200USD, vượt qua ngưỡng nước đang
phát triển có thu nhập thấp. Đây là một điều kiện quan trọng cho sự tiếp thu và phát triển

khoa học kỹ thuật trong giai đoạn 2011-2020.
1.4. Về môi trường chính trị, xã hội:
- Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong một thập kỷ trở lại đây thuộc nhóm cao
trong khu vực
Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của Việt Nam giai đoạn 2001-2009 đạt
7,3%, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. Những năm liền trước
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, tăng trưởng kinh tế đạt trung bình 8% và
được đưa vào danh sách các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên toàn thế
giới. Năm 2009, Việt Nam là 1/12 nước trên thế giới có tăng trưởng dương. Điều này
chứng tỏ khả năng tăng trưởng của Việt Nam còn rất lớn. Nhận định này dựa trên các cơ
sở sau:
+ Thị trường nội địa vẫn đang có nhu cầu rất đa dạng về hàng hoá và dịch vụ;
+ Nguồn vốn trong dân và năng lực sản xuất, chế tạo, thi công công trình còn
nhiều, chưa được huy động hết;
+ Giá vật tư, nguyên liệu, công nghệ và máy móc, thiết bị trên thị trường thế giới
đang ở mức tương đối thấp trong khi nhu cầu đầu tư phát triển của Việt Nam rất lớn, nhất
là phát triển hạ tầng, đổi mới công nghệ;
+ Các nhà đầu tư, các nhà tài trợ nước ngoài vẫn tin tưởng vào triển vọng phát
triển Việt Nam, vẫn coi Việt Nam là điểm đến an toàn và hấp dẫn.
- Việt Nam được đánh giá là nước có môi trường chính trị và xã hội ổn định so với các
nước khác trong khu vực. Sự ổn định chính trị là một trong những yếu tố không thể
thiếu, góp phần giúp Việt Nam có thể kiên trì chính sách phát triển kinh tế. Nền chính trị
ổn định tạo cho Việt Nam có được một nền hoà bình và thịnh vượng. Nếu nhìn sang một


số quốc gia trong khu vực, dễ thấy rằng, trừ Singapore, thì từ năm 1990 trở lại đây, hầu
hết các nước khu vực đều trải qua các cuộc đảo chính hay khủng hoảng chính trị. Trong
khi đó, nền chính trị của Việt Nam luôn ổn định, đây là một đảm bảo cho sự gắn kết để
thực hiện chính sách kinh tế nhất quán.
So với các nước trong khu vực như Indonesia, Malaysia, Philipine, và Trung

Quốc, Việt Nam có ít các vấn đề liên quan đến tôn giáo và mâu thuẫn sắc tộc hơn. Sau
khi đưa ra chính sách “Đổi mới”, Việt Nam đã và đang đạt được mức tăng trưởng GDP
ổn định. Sự ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô đang được duy trì. Các chính sách Đổi mới
nhìn chung đã nhận được sự ủng hộ của các giới chức trong cả nước. Trong bối cảnh của
những sự kiện diễn ra trong vài năm qua liên quan đến chủ nghĩa khủng bố, Việt Nam
được biết đến như là một trong những nước an toàn nhất xét về các tội ác chống con
người và quyền sở hữu. Thực tế cho thấy Việt Nam được đánh giá là nơi an toàn để đầu
tư.
- Ngoài ra, các chính sách mở cửa, tăng cường hợp tác giao lưu quốc tế của Việt
Nam cũng có những tiến bộ đáng kể.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế trên, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với một
số hạn chế và thách thức như: nạn tham nhũng, tội phạm hình sự và tội phạm kinh tế gia
tăng, các hành vi gây ô nhiễm môi trường và một số vấn đề trong hệ thống báo chí,
truyền thông.
1.5. Môi trường đầu tư và hệ thống pháp luật:
So với các nước trong khu vực, Việt Nam có những lợi thế như sau về môi
trường đầu tư:
- Thể chế chính trị ổn định, môi trường đầu tư và hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày
càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng dần với tiến trình tự do hóa thương mại
trong khu vực và toàn cầu.
- Môi trường đầu tư thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khai thác thị
trường kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên mới của WTO. Tiềm năng và tốc độ phát
triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua khá hấp dẫn doanh nghiệp.
- Ngoài ra, Việt Nam đã chủ động đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thiết lập
quan hệ thương mại với trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam những năm qua phát triển mạnh mẽ cùng với sự cải thiện không ngừng trong
môi trường kinh doanh. Mỗi năm Việt Nam có thêm trên 50.000 doanh nghiệp mới với
số vốn khoảng 30 tỷ USD. Điều này thể hiện sức phát triển mạnh mẽ và môi trường
kinh doanh rất sôi động với rất nhiều cơ hội tại Việt Nam.



- Việt Nam ngày càng thực hiện bình đẳng hơn giữa các doanh nghiệp trong và ngoài
nước. Sự cam kết của Chính phủ Việt Nam về môi trường đầu tư thông thoáng, minh
bạch với những ưu đãi rõ ràng thể hiện trong các cam kết với WTO là minh chứng
thuyết phục về môi trường kinh doanh ổn định và đầy triển vọng của Việt Nam. Vào thời
điểm kinh tế có những khó khăn tạm thời hiện nay, chỉ các nhà đầu cơ mới ra đi, còn các
nhà đầu tư vẫn ở lại.
Do đó, Chính phủ Việt Nam khẳng định thực hiện nghiêm túc những cam kết với
cộng đồng quốc tế và sẽ tiếp tục đẩy nhanh hơn việc hoàn thiện thể chế và cải cách các
thủ tục hành chính, tạo thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trong
cộng đồng quốc tế vì lợi ích chung.
Tham khảo thu hút FDI từ năm 2001 đến hết tháng 9/2010
(Đvt: ngàn USD)
Năm
2001

Năm
2002

Năm
2003

Năm
2004

Năm
2005

Năm
2006


Năm
2007

Năm
2008

Năm
2009

8T
năm
2010

Thu hút vốn FDI

3.143

2.999

3.191

4.548

6.840 12.004 21.348 64.011 21.800 12.000

Thực hiện vốn FDI

2.451


2.591

2.650

2.853

3.309

4.100

8.030 11.600

9.800

9.000

Nguồn: Tổng cục Thống kê
* Ưu đãi
thuế
Việt Nam đã áp dụng một chương trình ưu đãi thuế thu nhập rất linh hoạt. Ví dụ
như miễn thuế bốn năm kể từ năm đầu tiên có lãi; tính thuế thu nhập bằng 1/2 mức thuế
thông thường trong vòng 7 năm. Mức thuế thông thường có thể là 10%, 15%, 20% tuỳ
thuộc vào lĩnh vực công nghiệp, phân loại đầu tư và vị trí địa lý. Trong khi đó, mức thuế
chung cho doanh nghiệp là 28%.
Khi một công ty lựa chọn địa điểm đầu tư, hàng loạt khu đất, các chính sách thuế
ưu đãi và điều kiện để được hưởng ưu đãi được giới thiệu. ở đây có cả những chương
trình miễn thuế cho một số loại hàng hoá nhập khẩu. Theo các nhà kinh doanh nước
ngoài đánh giá, ưu đãi thuế của Chính phủ Việt Nam là một trong những chính sách
thuế tốt nhất châu á. Các công ty đều công nhận tầm ảnh hưởng lớn của những
khuyến khích tài chính này tới nguồn thu nhập của họ.

* Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng của Việt Nam đang phát triển nhanh chóng khi gặp làn sóng đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài. Chính phủ Việt Nam đã cam kết phát triển cân bằng cơ sở hạ
tầng, đặc biệt là cung cấp điện - nước, dịch vụ cảng biển và viễn thông. Các khoản cho
vay và tài trợ song phương vẫn tiếp tục đổ vào Việt Nam với số lượng lớn.


Đến năm 2012, Việt Nam sẽ hoàn thành hệ thống cảng nước sâu và vận tải biển một mốc phát triển đem lại cho đất nước lợi thế cạnh tranh to lớn và cho phép Việt Nam
dành được những hỗ trợ lớn hơn với so với các nước trong khu vực, tạo điều kiện xuất
khẩu thuận lợi hơn sang ASEAN, Trung Quốc và Bắc Mỹ.
Hệ thống giao thông vận tải đã được tập trung đầu tư phát triển. Các tuyến giao
thông huyết mạch và trọng yếu được nâng cấp mở rộng và làm mới, bảo đảm thông suốt
trong cả nước
+Hàng không: Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (VietnamAirlines) có 17
đường bay quốc tế, và 16 đường bay nội địa. Các sân bay lớn: Nội Bài (Hà Nội), Tân Sơn
Nhất (TP.HCM), Đà Nẵng, Phú Bài (Huế), Cát bi (Hải Phòng), Điện biên (Lai châu),
Vinh (Nghệ An), Nha Trang, Cần Thơ... với tổng năng lực vận tải hành khách thông qua
các sân bay vào khoảng trên 12 triệu hành khách/năm.
+Cảng biển: Hệ thống cảng biển Việt Nam bảo đảm thông qua toàn bộ lượng
hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển theo yêu cầu tăng trưởng của nền kinh tế đất
nước, dự kiến đạt khoảng 200 triệu tấn/năm vào năm 2010. Hệ thống cảng biển Việt Nam
được qui hoạch phân bố trên phạm vi cả nước tại những vị trí có điều kiện và nhu cầu xây
dựng cảng biển, nhằm khai thác ưu thế thiên nhiên, tận dụng khả năng vận tải biển, phục
vụ tốt các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, tiết kiệm chi phí đầu tư và chi phí khai thác
cảng. Tổng năng lực thông qua cảng biển hiện vào khoảng 73 triệu tấn.
* Sở hữu trí tuệ và cơ sở hạ tầng pháp luật
Nhằm tăng cường công tác bảo hộ sở hữu trí tuệ và thực thi những thủ tục pháp
luật phù hợp với cam kết gia nhập WTO, chính phủ Việt Nam đã tiến hành nhiều biện
pháp để bảo hộ sở hữu trí tuệ và ban hành các đạo luật bảo vệ riêng đối với nhà đầu tư.
Hệ thống luật pháp có ảnh hưởng tới đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục được cải thiện, tạo

một khuôn khổ hợp pháp và minh bạch với các hoạt động đầu tư.
Quốc hội Việt Nam cũng đã thông qua nhiều luật mới nhằm tạo ra sự đồng bộ về
khung luật pháp cho các nhà đầu tư như: Luật Chứng khoán, Luật chuyển giao công
nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, bộ luật Lao động sửa đổi…
1.5 Về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
1.5.1. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 nhấn mạnh “Phát triển nhanh và bền
4

vững là quan điểm xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của nước ta” .

4

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. “Phát triển nhanh và bền vững là quan điểm xuyên suốt trong chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội của đất nước ta”. Báo Nhân dân, số 20042, ngày 16 tháng 7 năm 2010.


Đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển… giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng” và xác định “Phát
triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt
trong Chiến lược”, với các nội dung chủ yếu là “Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh
là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao
không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn đi
cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu
cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết; phát triển bền vững là cơ sở để
phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển
nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách
phát triển kinh tế - xã hội. Phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội,

tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.”
Để hiện thực hoá quan điểm phát triển nhanh và bền vững, phải thực hiện đồng bộ
các định hướng phát triển đã nêu trong dự thảo Chiến lược, trong đó cần tập trung thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, bằng các giải pháp và sức mạnh tổng hợp, kiên quyết giữ vững độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường hoà bình và điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển đất nước. Đây là điều kiện tiên quyết nhất cho sự phát triển nhanh
và bền vững và cũng là một lợi thế của đất nước ta.
Hai là, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế; giữ
vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng và sự hoạt động an toàn, hiệu quả của các
định chế tài chính.
Thế hệ chúng ta đã từng chứng kiến những cuộc khủng hoảng lương thực, khủng
hoảng năng lượng, mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
xảy ra trong các năm 2007 - 2009 và cuộc khủng hoảng nợ công ở một số nước hiện nay.
Những cuộc khủng hoảng này là hậu quả của sự phát triển không bền vững, gây mất ổn
định toàn cầu và tác động đến tăng trưởng của hầu hết các quốc gia, kinh tế thế giới suy
giảm, thất nghiệp gia tăng, xung đột xã hội lan rộng...
Ở nước ta, cùng với những bất cập, yếu kém trong quản lý vĩ mô, cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của

21


đất nước, lạm phát tăng cao, tốc độ tăng trưởng suy giảm, đời sống nhân dân gặp khó
khăn. Kinh nghiệm quốc tế cũng như của nước ta những năm qua cho thấy giữ vững an
ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính, kiểm soát được lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn vừa là tiền đề để tăng trưởng nhanh vừa là nội
dung của tăng trưởng bền vững, trở thành nhiệm vụ quan trọng nhất trong quản lý kinh tế

của bất cứ quốc gia nào.
Ba là, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để bảo đảm đạt tốc độ tăng
trưởng cao đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và không ngừng nâng cao chất lượng
tăng trưởng là yếu tố quyết định nhất để phát triển nhanh và bền vững. Có đạt được tốc
độ tăng trưởng cao, đất nước mới phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước,
mới tạo được nguồn lực để phát triển các lĩnh vực xã hội, phát triển con người, đầu tư
phát triển những khu vực khó khăn, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng trong
nước, mở rộng hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Với ưu thế về nguồn lực con người, chính trị xã hội ổn định, vị trí địa - kinh tế
thuận lợi, lại là nước đi sau, chúng ta có điều kiện để phát triển nhanh. Mặt khác, có nâng
cao chất lượng tăng trưởng mới tăng được hiệu suất sử dụng vốn và sức cạnh tranh của
nền kinh tế, mới mở rộng được thị trường tiêu thụ trong điều kiện cạnh tranh ngày càng
gay gắt. Trên cơ sở đó, tạo ra giá trị gia tăng lớn cho đất nước, tăng khả năng tích luỹ từ
nội bộ nền kinh tế, bảo đảm nguồn lực cho tăng trưởng cao và ổn định trong dài hạn.
Để tăng trưởng cao, đạt tốc độ bình quân 7 - 8%/năm, phải tháo gỡ mọi cản trở về
thể chế và thủ tục hành chính, giải phóng và phát triển mạnh lực lượng sản xuất gắn với
nâng cao trình độ khoa học, công nghệ. Phải tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế tư nhân thành phần có tốc độ tăng trưởng cao nhất và tạo nhiều việc làm nhất.
Mặt khác, phải đổi mới, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà
nước, để doanh nghiệp nhà nước trở thành công cụ quan trọng trong việc thực hiện chính
sách cơ cấu và định hướng tổ chức thị trường. Phải thực hiện đa sở hữu, công khai minh
bạch, nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp và quan trọng hơn là đặt doanh nghiệp
nhà nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong cơ
chế thị trường. Chỉ có như vậy mới nâng cao được hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước
và sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước mới không chèn lấn các nguồn lực để phát
triển khu vực tư nhân - một động lực chủ yếu của tăng trưởng.
Nâng cao hiệu quả đầu tư công là một yếu tố quan trọng bảo đảm chất lượng tăng
trưởng. Trong mười năm tới, cần tập trung hơn nữa đầu tư phát triến hệ thống kết cấu hạ
tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, từng bước hiện đại, tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng



nhanh, bền vững. Hoàn thiện cơ chế giám sát và tăng cường công tác giám sát đầu tư.
Kiên quyết và có biện pháp mạnh mẽ chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí trong đầu tư.
Yêu cầu cấp bách trong thời kỳ chiến lược tới là thực hiện tái cấu trúc nền kinh
tế trên cả ba nội dung chính:
(1) Tái cấu trúc các ngành sản xuất, dịch vụ gắn với các vùng kinh tế, phát triển công
nghiệp hỗ trợ. Phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào
sự gia tăng vốn đầu tư và nguồn nhân lực chất lượng thấp hiện nay sang kết hợp hợp lý
giữa tăng trưởng theo chiều rộng với tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở áp dụng các
tiến bộ về khoa học, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý hiện đại.
Trong mười năm tới, nhất là trong những năm đầu của thời kỳ chiến lược, chúng
ta chưa thể từ bỏ hoàn toàn mô hình tăng trưởng theo chiều rộng. Vì, để tăng trưởng theo
chiều sâu phải sử dụng công nghệ hiện đại và phải có nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đây là quá trình tích luỹ vốn và phát triển nguồn nhân lực trong từng doanh nghiệp và cả
nền kinh tế. Hơn nữa, phát triển bền vững phải gắn với yêu cầu giải quyết việc làm và
toàn dụng lao động trong khi nguồn lao động thiếu việc làm còn nhiều, nhất là ở khu vực
nông thôn.
Tuy nhiên, phải hành động khẩn trương, kiên quyết tạo lập đồng bộ các tiền đề để
chuyển mạnh sang tăng trưởng theo chiều sâu ngay trong những năm đầu của thời kỳ
chiến lược, trước hết là ở những lĩnh vực khoa học, công nghệ phát triển nhanh và nước
ta có điều kiện. Đây là con đường cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng.
(2) Tái cấu trúc các doanh nghiệp, xây dựng lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều
thương hiệu mạnh, hiệu quả và có sức cạnh tranh cao.
(3) Điều chỉnh chiến lược thị trường, coi trọng hơn thị trường trong nước đi đôi với việc
tiếp tục đa dạng hoá, mở rộng thị trường nước ngoài. Thực hiện tốt các nội dung trên
đây, chẳng những nâng cao được chất lượng tăng trưởng, khả năng độc lập tự chủ của
nền kinh tế, hạn chế được các tác động tiêu cực trước những biến động từ bên ngoài, bảo
đảm cho đất nước phát triển bền vững mà còn tham gia có hiệu quả vào mạng sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, một xu thế phát triển trong nền kinh tế toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế.

Cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải cách hành chính, cần phát
huy có hiệu quả chức năng kiến tạo phát triển của nhà nước, nhất là trong thời kỳ đầu đẩy
mạnh công nghiệp hoá, thể hiện trong việc đề ra chính sách cơ cấu và định hướng phát
triển vùng đúng đắn
2. Phân tích cụ thể các mặt hàng có tiềm năng, lợi thế xuất khẩu trong 5 năm
tới:


2.1. Nhóm 1: Nhóm hàng nông lâm thủy sản và hàng thực phẩm, đồ uống chế
biế
n

2.1.1. Mặt hàng thủy sản:

Ngành thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta. Trong
những năm qua, toàn ngành thuỷ sản nói chung, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
nói riêng luôn đạt được bước tăng trưởng mạnh mẽ, đưa nước ta trở thành nước
đứng thứ 3 trên thế giới (sau Trung Quốc và Ấn Độ) về nuôi trồng và đứng thứ
sáu về kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Giai đoạn 2006-2008, tốc độ tăng xuất
khẩu hàng thuỷ sản đạt trung bình 19%/năm. Sau mức giảm 5,5% của năm
2009, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm
2010 đạt 2,98 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm 2009
Thống kê kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam qua các tháng

a) Năng lực sản xuất theo mức độ tự nhiên, hiện tại:
Việt Nam có tiềm năng lớn để thiết lập một hệ thống nuôi trồng thủy
sản thân
thiện với hệ sinh thái.
Là một nước có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, Việt Nam có một số
lợi thế so sánh như lượng ánh nắng mặt trời dồi dào, có nguồn thức ăn tự

nhiên tốt cho cá và các loài giáp xác ở vùng duyên hải. Chính điều này đã đem
lại cho Việt Nam tiềm năng lớn trong việc nuôi trồng tảo biển, các loài giáp xác
và các loài cá ăn thực vật, sử dụng nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng có nguồn
gốc trên cạn (từ công nghiệp, từ các khu dân cư, từ nông nghiệp) và có tác
dụng làm sạch môi trường nhờ loại bỏ đi lượng dưỡng chất dư thừa và các
loại vi tảo.
Do có nhiều lợi thế phát triển thủy sản, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản ở
cả nước ngọt, nước lợ và biển, nên phần lớn nguồn lợi tự nhiên như nguồn lợi
hải sản ven bờ, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản đã và đang được khai
thác, sử dụng ở mức tối đa.


Trong 10 năm trở lại đây, sản lượng nuôi trồng có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn
so với sản lượng khai thác tự nhiên và chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng sản lượng thủy
sản của cả nước, cho thấy ngành nuôi trồng thủy sản đã có những bước tiến đáng ghi
nhận. (biểu đồ...). Trong giai đoạn 2011-2015 cùng với những nỗ lực cải tiến về công
nghệ và sản xuất an toàn, nguồn cung thủy sản của Việt Nam sẽ được nâng cao cả về số
lượng và chất lượng.
Diễn biến sản lượng thủy sản (tổng sản lượng, sản lượng khai thác, sản lượng
nuôi trồng trong 10 năm trở lại đây)
12,000.0
ư 10,000.0

n 8,000.0
g
(n 6,000.0

n 4,000.0
tấ
2,000.0


Nuôi trồng
Khai thác tự nhiên Tổng sản lượng

0.0

Năm

Nguồn: Dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê
Tham khảo sản lượng thủy sản giai đoạn 2000-2010
(ngàn tấn)

Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Ước 2010*

Tổng sản
lượng
2,250.5
2,434.7
2,647.4

2,859.2
3,142.5
3,465.9
3,720.5
4,197.8
4,602.0
4,847.0
5,300.0

Khai thác
tự nhiên
1,660.9
1,724.8
1,802.6
1,856.1
1,940.0
1,987.9
2,026.6
2,074.5
2,136.4
2,277.7
2,550.0

Nuôi
trồng
589.6
709.9
844.8
1,003.1
1,202.5

1,478.0
1,693.9
2,123.3
2,465.6
2,569.9
2,750.0

Tỷ trọng
khai thác
(%)

Tỷ trọng
nuôi
trồng
(%)

73.8
70.8
68.1
64.9
61.7
57.4
54.5
49.4
46.4
47.0
48.1

26.2
29.2

31.9
35.1
38.3
42.6
45.5
50.6
53.6
53.0
51.9

Nguồn: Dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê
*:Ước tính của tác giả


×