BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
……………/……………
BỘ NỘI VỤ
.....…/….....
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
VŨ THỊ THU HÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
……………/……………
BỘ NỘI VỤ
.....…/….....
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
VŨ THỊ THU HÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60.34.04.03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
Tiến sĩ Nguyễn Văn Phương
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Cơ sở dạy nghề
: CSDN
Người khuyết tật
: NKT
Quản lý nhà nước
: QLNN
Thành phố Hồ Chí Minh : TP.HCM
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 7 năm 2017
Học viên thực hiện luận văn
Vũ Thị Thu Hà
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ................................................ 8
7. Kết cấu của luận văn............................................................................. 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT .................................9
1.1. Những khái niệm cơ bản ...................................................................... 9
1.1.1. Đào tạo nghề .................................................................................. 9
1.1.2. Người khuyết tật........................................................................... 11
1.1.3. Hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật ................................. 14
1.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề cho người
khuyết tật ................................................................................................. 15
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề cho
người khuyết tật .................................................................................. 15
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt
động đào tạo nghề cho người khuyết tật ............................................. 18
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề cho
người khuyết tật .................................................................................. 24
1.2.4. Quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề cho người
khuyết tật ở một số nước trên thế giới và những kinh nghiệm cho Việt
Nam ..................................................................................................... 28
Tiểu kết chương 1 ...................................................................................... 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................................................33
2.1. Hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh.............................................................................................. 33
2.1.1. Các cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh ................................................................................ 33
2.1.2. Thực trạng đào tạo nghề cho người khuyết tật trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh ..................................................................... 36
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề cho
người khuyết tật trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh..................... 41
2.2.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách phát triển đào tạo nghề cho người khuyết tật.................... 42
2.2.2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về đào tạo nghề cho người khuyết tật ................................................. 46
2.2.3. Quy định mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình đào
tạo nghề, tiêu chuẩn giáo viên và cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo nghề
cho người khuyết tật............................................................................ 48
2.2.4. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đào tạo nghề cho
người khuyết tật. ................................................................................. 62
2.2.5. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho người
khuyết tật tại thành phố Hồ Chí Minh ................................................ 64
2.2.6. Huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực để phát triển hoạt
động đào tạo nghề cho người khuyết tật ............................................. 66
2.2.7. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về đào tạo nghề cho người
khuyết tật ............................................................................................. 69
2.3. Nguyên nhân của thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động
đào tạo nghề cho người khuyết tật trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh.......................................................................................................... 71
2.3.1. Nguyên nhân của ưu điểm ........................................................ 71
2.3.2. Nguyên nhân của khuyết điểm.................................................. 72
Tiểu kết chương 2 .................................................................................... 75
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ CHO
NGƯỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...76
3.1. Quan điểm chỉ đạo .............................................................................. 76
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt
động đào tạo nghề cho người khuyết tật trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh .......................................................................................................... 81
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...............................................................93
1. Kết luận ................................................................................................ 93
2. Kiến nghị .............................................................................................. 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 98
Phụ lục 1: Phiếu tham khảo ý kiến dành cho cán bộ quản lý và giáo viên
Phụ lục 2: Phiếu tham khảo ý kiến dành cho học viên khuyết tật
Phụ lục 3: Tổng hợp kết quả phiếu tham khảo ý kiến của cán bộ quản lý, giáo
viên và học viên khuyết tật
Phụ lục 4: Báo cáo công tác đào tạo nghề cho người khuyết tật giai đoạn 2012 –
2016 của Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm người tàn tật TP.HCM
Phụ lục 5: Bảng kinh phí đầu tư thực hiện đề án “Trợ giúp người khuyết tật
về giáo dục, đào tạo và việc làm cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ Dạy nghề và Tạo việc làm người tàn tật TP.HCM giai đoạn 2014 – 2020”.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam hiện có trên 6,7 triệu người khuyết tật (NKT), chiếm 7,8% dân
số; riêng trẻ em khuyết tật chiếm khoảng 1,2 triệu người, 75% sống ở khu vực
nông thôn và có khoảng 21% (1,4 triệu người) trong tổng số NKT còn khả
năng lao động. Tổng số NKT trên địa bàn TP.HCM theo điều tra sơ bộ năm
2015 là 49.972 người, số NKT được cấp giấy chứng nhận khuyết tật là 39.847
người (18.206 người là nữ khuyết tật); trong đó có hơn 20.000 NKT còn khả
năng lao động [26],[30]. Vì vậy, nhu cầu NKT cần được đào tạo nghề, được
nâng cao trình độ văn hóa và có việc làm là rất lớn.
Đa số NKT sống cùng với gia đình và có mức sống thấp hoặc trung bình.
Chính vì vậy, việc tạo điều kiện cho NKT hòa nhập với xã hội là một trong
những chính sách được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm, công tác đào tạo
nghề và tạo việc làm cho NKT cũng được đặc biệt chú trọng.
Việc ban hành Pháp lệnh người tàn tật (năm 1998), Luật Người khuyết tật
(năm 2010) với nhiều quy định bảo vệ NKT đã thể hiện sự nỗ lực và quyết tâm
lớn của Đảng và Nhà nước ta trong việc hỗ trợ, giúp đỡ NKT hòa nhập với
cộng đồng, xã hội. Trong nhiều mối quan tâm lớn đó, việc tạo cơ hội cho NKT
có điều kiện học tập, làm việc và hòa nhập cuộc sống là một trong những yêu
cầu cần thiết.
Hoạt động đào tạo nghề cho NKT càng có ý nghĩa to lớn. Về mặt giáo
dục, đó là việc chuẩn bị việc làm cho NKT theo hướng phân công lao động xã
hội, góp phần vào việc cụ thể hóa các mục tiêu đào tạo. Về mặt kinh tế, hoạt
động đào tạo nghề cho NKT giúp khai thác và sử dụng hợp lý tiềm năng lao
động của lực lượng yếu thế, từ đó giúp nâng cao năng suất lao động. Về mặt xã
hội, hoạt động đào tạo nghề cho NKT có chức năng thực hiện đường lối giáo
1
dục của Đảng và Nhà nước.
Nhìn lại kết quả học nghề của NKT ở Việt Nam trong những năm qua,
chúng ta thừa nhận là đã có một bước tiến bộ hết sức tích cực. Hệ thống các
trung tâm đào tạo nghề cho NKT ngày càng được mở rộng. Chất lượng, hiệu
quả công tác đào tạo nghề của các trung tâm đào tạo nghề cho NKT không
ngừng được nâng cao. Các trung tâm đã góp phần tích cực vào việc tạo ra
nguồn nhân lực đáng kể cho xã hội từ một bộ phận người lao động yếu thế
trong xã hội; góp phần giải quyết một vấn đề xã hội khá bức xúc hiện nay.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế - thương mại lớn nhất cả
nước và giàu tiềm năng phát triển nhiều ngành nghề; đặc biệt là lực lượng lao
động khuyết tật có trình độ tay nghề tốt cũng đã góp phần đáng kể vào sự phát
triển kinh tế của thành phố. Tuy nhiên, để NKT được học nghề, có khả năng
tự tạo việc làm nuôi sống bản thân, gia đình, giảm bớt chi phí cho xã hội đang
là một nhu cầu cấp bách. Bên cạnh kết quả tích cực đạt được thì hoạt động đào
tạo nghề cho NKT vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, hiệu quả chưa cao. Công
tác quản lý nhà nước (QLNN) về hoạt động đào tạo nghề cho NKT còn thiếu
tính hệ thống, khoa học, chưa phù hợp với tính chất, đặc điểm của công tác
đào tạo nghề cho một đối tượng đặc thù, cũng là một trong các nguyên nhân
của những hạn chế, bất cập. Công tác đào tạo nghề cho NKT tại thành phố nói
riêng và cả nước nói chung chưa đáp ứng được nhu cầu cung ứng lao động
cho sự phát triển của thị trường lao động.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với hoạt
động đào tạo nghề cho người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, ở các nước tư bản phát triển như
Đức, Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản đã quan tâm đến vấn đề đào tạo nghề và quản
2
lý hoạt động đào tạo nghề nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội công nghiệp. Do
đặc điểm, yêu cầu về nguồn nhân lực, đội ngũ công nhân kỹ thuật ở mỗi nước
khác nhau nên phương pháp quản lý, hình thức, quy mô đào tạo nghề cũng có
sự khác nhau, song có điểm chung là chú trọng đến sự phát triển kiến thức, kỹ
năng và thái độ nghề nghiệp.
Ở Việt Nam, những vấn đề về đào tạo nghề, quản lý quá trình đào tạo
nghề cũng được quan tâm ngay từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX qua một
số nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp,
tâm lí học lao động như Đặng Danh Ánh, Nguyễn Ngọc Đường, Nguyễn Bá
Dương,.. đã chủ động nghiên cứu những khía cạnh khác nhau về sự hình
thành nghề và công tác đào tạo nghề. Nhưng chỉ đến những năm gần đây, vấn
đề đào tạo nghề mới tiếp tục được quan tâm nghiên cứu trở lại, những nghiên
cứu này đã ít nhiều khái quát hoá và làm rõ được những vấn đề lý luận và đề
xuất những biện pháp quản lý góp phần nâng cao hiệu quả quản lý quá trình
đào tạo nghề nói chung và hoạt động đào tạo nghề cho NKT nói riêng. Tuy
nhiên, đây là vấn đề khó, phức tạp; các đề tài đi sâu nghiên cứu lĩnh vực này
còn ít và với nội dung nghiên cứu khá rộng.
Quán triệt và cụ thể các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về phát triển Giáo dục - Đào tạo đã có nhiều công trình khoa học,
nhiều bài viết về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và đào tạo nghề cho
NKT nói riêng, tiêu biểu như:
Tác giả Phạm Minh Hạc (2008) với nghiên cứu về “Đào tạo nghề góp
phần phát triển nguồn nhân lực của đất nước thế kỷ XXI (Tạp chí Khoa học
Giáo dục, số 5/2008). Từ sự phân tích nhu cầu đào tạo nghề để phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, tác giả đã tập trung làm rõ những hạn chế,
khuyết điểm trong đào tạo nghề ở nước ta hiện nay như: Đào tạo nghề chưa gắn
3
với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, sự phân bố các trường đào tạo nghề
không hợp lý, nội dung chương trình, phương pháp đào tạo nghề lạc hậu, bộ
máy QLNN về đào tạo nghề không ổn định, trang thiết bị cho đào tạo nghề
cần chi phí lớn. Đây là công trình nghiên cứu đề cập đến nhiều nội dung,
trong đó có vấn đề QLNN về đào tạo nghề.
Tác giả Nguyễn Minh Đường (2008) đã nghiên cứu, đề xuất “Hoàn thiện
cơ cấu giáo dục quốc dân và tổ chức quản lý giáo dục nghề” (Tạp chí Khoa
học Giáo dục, số 38/2008). Bài viết đã chỉ ra một số bất cập về quản lý hệ
thống giáo dục nghề nghiệp hiện nay, kiến nghị một số giải pháp như tổ chức
lại hệ thống đào tạo nghề, hoàn thiện hệ thống quản lý đào tạo nghề.
“Những quyền của người khuyết tật” (disability rights) do Justin Healey
chủ biên. Nội dung sách chủ yếu đưa ra các định nghĩa về người khuyết tật,
luật chống phân biệt người khuyết tật và cơ chế khiếu nại vi phạm, hệ thống
chăm sóc cộng đồng, người khuyết tật tại nơi làm việc, doanh nghiệp với vấn
đề tuyển dụng người khuyết tật, tiếp cận bình đẳng về internet cho người
khuyết tật [24].
Vũ Ngọc Bình có cuốn: “Trẻ em tàn tật và quyền của các em”, nội dung
chủ yếu nêu lên các chuẩn mực quốc tế về quyền con người và việc thực hiện
quyền trẻ em tàn tật, giáo dục trẻ em tàn tật – chuyên biệt, hội nhập, khái quát
một số quy định của pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em [1].
“Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam” của nhóm tác giả:
Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng, Lê Hoài Trung. Tác
phẩm trình bày và phân tích vấn đề bảo trợ trong bối cảnh đổi mới đất nước,
các chính sách và chương trình bảo trợ xã hội, trong đó có bảo trợ cho NKT ở
Việt Nam, chỉ ra những điểm yếu, nguyên nhân và kiến nghị nhà nước cần phải
có thêm những chính sách, biện pháp mạnh và hiệu quả hơn để phòng ngừa sự
vi phạm, xóa bỏ rào cản để NKT được hòa nhập, tham dự vào các chương trình
4
phát triển của toàn xã hội [13].
“Dạy học hòa nhập cho trẻ khuyết tật” do Trịnh Đức Duy chủ biên đã đưa
ra giải pháp tích cực nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện cho NKT nói chung cũng như
trẻ em khuyết tật nói riêng được sống, học tập, sinh hoạt và vui chơi bình đẳng
trong xã hội. Bên cạnh đó, trình bày các kỹ năng dạy học hòa nhập cho các loại
trẻ khuyết tật như trẻ chậm phát triển tinh thần, khó khăn vận động, khuyết tật
thính giác, trẻ khiếm thị, khuyết tật ngôn ngữ [12].
“Sổ tay giáo dục trẻ em khuyết tật ở Việt Nam” do Trịnh Đức Duy chủ
biên, trình bày những phương pháp chuyên môn, hướng dẫn việc chăm sóc
giáo dục và phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật, đồng thời nhấn mạnh trách
nhiệm và bổn phận của gia đình, thầy cô giáo và của toàn xã hội đối với tương
lai của các em. Trong đó, có đề cập đến học nghề và việc làm của NKT [11].
“Giáo trình Luật Người khuyết tật”, Nguyễn Hữu Chí chủ biên, đã giúp
người đọc hiểu rõ hơn về tính chất của pháp luật cho NKT, về đào tạo nghề
cho NKT như chính sách, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến
hoạt động này [7].
Các công trình nghiên cứu khoa học trên, với những hướng tiếp cận khác
nhau đã đề cập đến những khó khăn, thuận lợi và sự chuyển biến tích cực của
công tác đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho NKT nói riêng trong
những năm qua. Nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của toàn
ngành Dạy nghề, sự nghiệp đào tạo nghề đã được phục hồi và đang tiếp tục
phát triển mạnh, đạt được một số thành tựu đáng khích lệ: Mạng lưới cơ sở dạy
nghề (CSDN) từng bước được phát triển theo quy hoạch, nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, trang
thiết bị cho dạy và học nghề đã được đầu tư, nâng cấp; phong trào thi đua “Dạy
tốt, học tốt” trong toàn ngành dạy nghề đã được đẩy mạnh; các hoạt động như
hội thi học viên giỏi nghề, hội thi thiết bị đào tạo nghề tự làm… đã trở thành
5
hoạt động thường xuyên từ các CSDN và mang lại hiệu quả thiết thực.
Bên cạnh những công trình nêu trên còn có một số bài viết ngắn trên các
báo, tạp chí phản ánh về những khó khăn, thuận lợi của NKT trên đường hòa
nhập cộng đồng, về cuộc sống, sinh hoạt vui chơi, tinh thần vượt khó vươn lên
trong học tập của những NKT điển hình đã đạt thành tựu cao trong công việc
khiến nhiều người phải học hỏi, là tấm gương của bao NKT khác noi theo.
Mặc dù các công trình nghiên cứu, bài viết trên chưa đề cập trực tiếp đến
vấn đề QLNN về hoạt động đào tạo nghề cho NKT tại TP.HCM nhưng đó là
nguồn tài liệu để tác giả nghiên cứu, thiết thực góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý
luận của đề tài, nhất là việc làm rõ các khái niệm, phạm trù cơ bản.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và phương pháp,nhiệm vụ của QLNN đối với
hoạt động đào tạo nghề cho NKT nhằm đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề cho NKT trên địa bàn TP.HCM.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề cho NKT;
- Đánh giá thực trạng QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề cho NKT
trên địa bàn TP.HCM;
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động
đào tạo nghề cho NKT trên địa bàn TP.HCM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề cho NKT.
Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về không gian: Đề tài nghiên cứu QLNN đối với hoạt động
đào tạo nghề cho NKT trên địa bàn TP.HCM; khảo sát thực trạng QLNN đối
6
với hoạt động đào tạo nghề tại Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm
người tàn tật TP.HCM (thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội
TP.HCM).
- Giới hạn về thời gian: Đề tài phân tích các số liệu về thực trạng QLNN
đối với hoạt động đào tạo nghề đối với NKT tại Trung tâm Bảo trợ - Dạy
nghề và Tạo việc làm người tàn tật TP.HCM từ năm 2012 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về quản lý hành chính, cụ thể là đào tạo và quản lý đào tạo nghề.
Nghiên cứu các văn kiện, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về giáo dục chuyên nghiệp; nghiên cứu hệ thống quy trình, nội dung QLNN
về đào tạo nghề cho NKT bao gồm các chính sách, chiến lược, kế hoạch, quy
hoạch mạng lưới CSDN; tổ chức bộ máy quản lý, đào tạo đội ngũ giáo viên;
phương pháp và chương trình đào tạo; đầu tư cơ sở vật chất; thanh tra, kiểm
định, hợp tác quốc tế về đào tạo nghề.
Nghiên cứu sách, báo, tạp chí và các tài liệu khác có liên quan về đào tạo
nghề nói chung và đào tạo nghề cho NKT nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu sơ cấp
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Điều tra các khách thể là học viên
đang học nghề, giáo viên và cán bộ quản lý đang làm việc tại Trung tâm Bảo
trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm người tàn tật TP.HCM (thuộc Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội TP.HCM). Số lượng mẫu được thống kê, phân tích số
liệu, kết hợp phần mềm SPSS để phân tích kết quả điều tra khảo sát.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu các báo cáo hàng năm của
Tổng cục Dạy nghề, Sở LĐ-TB&XH TP.HCM, các CSDN cho NKT tại
7
TP.HCM. Từ những vấn đề đã và đang diễn ra nhằm đúc kết thành những
kinh nghiệm về QLNN đối với các CSDN cho NKT.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về QLNN đối với hoạt động đào tạo
nghề cho NKT. Đây là nguồn tài liệu tham khảo cho công tác đào tạo nghề
đối với các CSDN cho NKT tại TP.HCM.
Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với các
CSDN cho NKT tại TP.HCM, đáp ứng mục tiêu phát triển đào tạo nghề, giới
thiệu việc làm không thu phí cho nhóm đối tượng yếu thế này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và kiến nghị, đề tài được kết cấu gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề cho người
khuyết tật;
Chương 2: Thực trạng QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề cho người
khuyết tật trên địa bàn TP.HCM;
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề
cho người khuyết tật trên địa bàn TP.HCM.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Đào tạo nghề
Đào tạo là sự phát triển có hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cho mỗi cá
nhân để họ thực hiện một nghề hoặc một nhiệm vụ cụ thể một cách tốt nhất.
Đào tạo được thực hiện bởi các loại hình tổ chức chuyên ngành nhằm thay đổi
hành vi và thái độ làm việc của con người, tạo cho họ khả năng đáp ứng được
tiêu chuẩn và hiệu quả của công việc chuyên môn.
Nghề là một hình thức phân công lao động xã hội, đòi hỏi phải có kiến
thức lý thuyết tổng hợp và năng lực thực hành phù hợp để hoàn thành những
công việc nhất định như: nghề may, nghề sửa chữa máy tính, nghề làm bánh,
nghề nấu ăn, …
“Bách khoa toàn thư Việt Nam”, khái niệm đào tạo nói chung là quá
trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm
vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… một cách có hệ thống để chuẩn bị cho
người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận sự phân công lao động
nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển
nền văn minh của con người.
Theo từ điển Tiếng Việt (2007): Đào tạo là “làm cho người học trở thành
người có năng lực, có khả năng làm việc theo những tiêu chuẩn nhất định”.
Đào tạo là khái niệm có nội hàm rộng, đó chính là huấn luyện, bồi
dưỡng, rèn luyện cho một người từ chưa hiểu biết thành hiểu biết, từ chưa có
năng lực làm việc thành có năng lực, từ người năng lực chưa hoàn chỉnh
thành người phát triển đầy đủ năng lực, phẩm chất để làm việc. Khái niệm
9
“đào tạo” nghiên cứu trong luận văn này được hiểu theo phạm vi hẹp hơn, đó
là “đào tạo nghề” hay còn gọi là “dạy nghề” và được quy định tại Luật Giáo
dục và Luật Dạy nghề.
Theo Luật Giáo dục: “Đào tạo nghề là một bậc học trong hệ thống giáo
dục quốc dân, đào tạo nghề là một khái niệm mà phạm trù của nó nằm trong
khái niệm đào tạo; đào tạo nghề nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp
trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ
đào tạo” [21].
Theo Điều 5, Chương I, Luật Dạy nghề 2006: “Đào tạo nghề là hoạt động
dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết
cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi
hoàn thành khóa học” [20].
Như vậy, đào tạo nghề là hoạt động nhằm mục đích nâng cao tay nghề
hay kỹ năng, kỹ xảo của mỗi cá nhân đối với công việc hiện tại và trong tương
lai. Đào tạo nghề là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý
thuyết và thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự
khéo léo, thuần thục nhất định về nghề nghiệp; học nghề là quá trình tiếp thu
những kiến thức về lý thuyết và thực hành của người lao động để đạt được một
trình độ nghề nghiệp nhất định.
Đào tạo nghề là một quá trình tác động có mục đích, có ý thức của con
người nhằm phát triển tay nghề và đạo đức, văn hóa nghề nghiệp (thể hiện trên
hai mặt: kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ nghề nghiệp), phù hợp với yêu
cầu của thị trường lao động và phát triển nguồn lực quốc gia.
Nói cách khác, đào tạo nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động, được
đào tạo mà con người có được những tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết
để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những
nhu cầu của xã hội. Nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố định,
10
cứng nhắc, mà nó cũng có một quá trình hình thành, phát triển và tiêu vong. Vì
thế, bên cạnh việc được lĩnh hội những kỹ năng, kỹ xảo trong quá trình đào tạo
mà người học còn cần phải nắm vững, trau dồi và phát triển những kỹ năng, kỹ
xảo đã được học trong khi làm việc thực tế.
1.1.2. Người khuyết tật
Mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa và tư tưởng khác nhau sẽ có những định
nghĩa khác nhau về NKT. Các thuật ngữ để chỉ tình trạng khuyết tật cũng rất
nhiều như: Tàn tật, tật nguyền, tàn phế, khuyết tật, thiểu năng trí tuệ, dị dạng,
… Nhưng chỉ có các thuật ngữ tàn tật và khuyết tật được sử dụng một cách
chính thức trong văn kiện, văn bản pháp luật, sách báo, phương tiện thông tin
đại chúng; các thuật ngữ còn lại thường được sử dụng trong giao tiếp văn nói
hàng ngày. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự phát triển của đời sống
kinh tế xã hội, người ta đã có sự quan tâm hơn, những nghiên cứu sâu rộng hơn
về NKT, thì thuật ngữ “người khuyết tật” đã được thay thế thuật ngữ “người
tàn tật” trong các văn kiện, tài liệu. Điều này thể hiện sự tôn trọng, tính nhân
văn và cách nhìn tiến bộ hơn đối với NKT.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã chia ra thành các thuật ngữ và định nghĩa
sau: “khuyết tật” là sự khiếm khuyết, giảm sút hoặc rối loạn cơ cấu tổ chức hay
một chức năng tâm lý, sinh lý, giải phẫu; “tàn tật” hay “mất khả năng” là bất
kỳ một sự hạn chế hay thiếu hụt (do khuyết tật) khả năng thực hiện một hoạt
động theo chức năng hay trong phạm vi được coi là bình thường của con
người; “tàn phế” là sự mất mát, thiệt thòi cho một cá nhân do khuyết tật hoặc
do tàn tật, khiến cho người đó không thực hiện được một phần hay toàn bộ
công việc được coi là bình thường (theo tuổi tác, giới tính, các yếu tố kinh tế,
văn hóa, xã hội…). Điều 2 của Pháp luật nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
về bảo vệ người khuyết tật năm 1990: “người khuyết tật là một trong những
người bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm
11
lý hay sinh lý, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ
hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thường”
[24].
Bộ luật Xã hội của Cộng hòa Liên Bang Đức (sách số chín) định nghĩa:
“người khuyết tật là người có các chức năng về thể lực, trí lực, hoặc tâm lý tiến
triển không bình thường so với người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6
tháng và sự không bình thường này là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế
tham gia vào đời sống xã hội”[7].
Theo Điều 2, Luật Người khuyết tật của Việt Nam: “người khuyết tật là
người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức
năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp
khó khăn” [22].
Phân loại khuyết tật
Phân loại NKT có ý nghĩa rất lớn trong quá trình đánh giá và hỗ trợ cho
NKT. Theo điều 3, Luật Người khuyết tật Việt Nam thì khuyết tật được phân
loại như sau:
(1). Khuyết tật vận động;
(2). Khuyết tật nghe, nói;
(3). Khuyết tật nhìn;
(4). Khuyết tật thần kinh, tâm thần;
(5). Khuyết tật trí tuệ;
(6). Khuyết tật khác. [22].
Theo Nghị định số 28/2012/NĐ-CP, ngày 10-4-2012 của Chính phủ có
phân loại và định nghĩa như sau:
(1). Khuyết tật vận động là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động
đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển.
(2). Khuyết tật nghe, nói là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói
12
hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong
giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói.
(3). Khuyết tật nhìn là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm
nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi
trường bình thường.
(4). Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ,
cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành
động bất thường.
(5). Khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư
duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật,
hiện tượng, giải quyết sự việc.
(6). Khuyết tật khác là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể
khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc
các trường hợp nêu trên [8].
Tâm lý người khuyết tật
Người khuyết tật có một số biểu hiện tâm lý:
Về mặt sinh học, NKT là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận
cơ thể, hoặc có những rối loạn về tâm sinh lý hay một chức năng nào đó của
con người do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chính sự khiếm khuyết đó đã
làm cho NKT bị hạn chế về sức khỏe, kém khả năng chống lại các dịch bệnh
và gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp, vận động. Cũng vì những điều đó nên
NKT gặp khó khăn trong nhận thức môi trường xung quanh, đồng thời phản
ứng của môi trường xung quanh ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của NKT. Mối
liên hệ này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển về thể chất, tâm lý và
khả năng học nghề của NKT. Đa số NKT sống trong nghèo khổ, ít có điều
kiện và khả năng tự bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bản thân, cho nên, NKT là
những người cần có sự quan tâm chăm sóc của các tổ chức y tế để phục hồi
13
sức khỏe, vượt qua bệnh tật.
Đối với NKT, yếu tố tâm lý còn có một ý nghĩa to lớn góp phần thúc đẩy
NKT vượt qua trở ngại của bản thân và vươn lên tự khẳng định mình trong
cuộc sống nếu được sự trợ giúp kịp thời từ người thân và xã hội vì họ luôn
mang tâm lý như: Tự ti, phó mặc, chấp nhận cuộc sống khép kín, nóng giận,
trách đời, trách mình từ đó dẫn đến hành động gây hại cho người khác hoặc
gây hại cho chính bản thân mình; luôn có nhu cầu hoạt động và tâm lý sẽ thay
đổi để phù hợp với thực trạng mà họ đang tiếp xúc; có khi chức năng của một
cơ quan bị suy giảm hay bị mất hoàn toàn thì lập tức có sự gia tăng điều chỉnh
của các giác quan khác để hỗ trợ hoặc thay thế chức năng bị thiếu hụt hay bị
mất. (Ví dụ như người khiếm thính, họ bị khó khăn trong hình thành ngôn ngữ,
nhưng bù lại họ lại để ý những chi tiết về hình ảnh nhiều hơn người bình
thường, đây là cơ sở để tư vấn nghề nghiệp cho người khiếm thính).
1.1.3. Hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật
Theo Điều 68, Luật Dạy nghề: “Đào tạo nghề cho người khuyết tật nhằm
giúp họ có năng lực thực hành nghề phù hợp với khả năng lao động của mình
để tự tạo việc làm hoặc tìm được việc làm ổn định đời sống, hòa nhập cộng
đồng” [20]:
- Hoạt động đào tạo nghề cho NKT diễn ra trong mối quan hệ giữa hoạt
động dạy và học;
- Mục đích của hoạt động đào tạo nghề cho NKT là trang bị cho NKT
những điều kiện để họ thực hiện một nghề theo sự phân công lao động xã hội.
Đó là hệ thống các kiến thức nghề nghiệp (gồm kiến thức chung và kiến thức
chuyên biệt); các kỹ năng, kỹ xảo hoạt động nghề nghiệp và thái độ đối với
nghề nghiệp (say mê, yêu nghề, tâm huyết với công việc,…);
- Việc đào tạo nghề cho NKT phải phù hợp với đặc điểm của đối tượng
đào tạo là NKT.
14
Khoản 1, điều 5, Luật Dạy nghề 2006 quy định: “Đào tạo nghề là hoạt
động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần
thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau
khi hoàn thành khóa học” [20]. Đào tạo nghề giúp cho người học nghề nắm bắt
được những kiến thức chuyên sâu về ngành nghề mình đang học, tạo điều kiện
cho người học nghề tiếp cận những kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại. Khi
NKT được tham gia học nghề và làm việc, họ sẽ trở nên tự tin hơn, thấy cuộc
sống có ý nghĩa hơn và điều quan trọng nhất là họ tự mình làm việc, có thu
nhập để trang trải trong cuộc sống. Để NKT có cơ hội hòa nhập với cộng đồng
thì không gì thiết thực hơn là tạo điều kiện cho họ tự lực, cho dù họ có khuyết
tật gì trên thân thể thì họ vẫn có thể làm được những công việc phù hợp với
khả năng và sức khỏe, thậm chí có nhiều NKT còn đạt được những thành tích
xuất sắc và có vị trí cao trong xã hội.
Việc đào tạo nghề cho NKT không chỉ là cố gắng từ phía cơ quan QLNN
mà còn là sự nỗ lực của chính NKT và cộng đồng xã hội. Như vậy, có thể khái
quát đầy đủ: Đào tạo nghề cho NKT là hoạt động dạy và học nhằm trang bị cho
NKT kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ nghề nghiệp cần thiết, phù hợp với
tình trạng khuyết tật và sức khỏe của NKT, tạo điều kiện để họ có thể tìm được
việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học.
1.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề cho người
khuyết tật
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề
cho người khuyết tật
Quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề cho NKT là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch và hợp quy luật của chủ thể quản lý
đến toàn bộ các nhân tố của hoạt động đào tạo nghề cho NKT ở các cơ sở có
chức năng đào tạo nghề cho NKT, nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đào
15
tạo mà cơ sở được giao [20],[22].
Bên cạnh việc thực hiện đúng nội dung QLNN đối với hoạt động đào tạo
nghề thì QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề cho NKT còn có những điểm lưu ý
riêng do tính chất đào tạo nghề dành cho đối tượng đặc thù:
Về chủ thể quản lý:
Chủ thể quản lý hoạt động đào tạo nghề cho NKT là những tổ chức, cá
nhân được Đảng, Nhà nước, ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, trực
tiếp là cấp ủy, chính quyền các địa phương giao nhiệm vụ đứng ra xây dựng,
quản lý, điều hành CSDN, thì đồng thời có trách nhiệm quản lý toàn bộ mọi
khâu, mọi bước của hoạt động đào tạo nghề cho NKT, bảo đảm đúng quan
điểm, đường lối, chính sách, pháp luật và các quy định về đào tạo nghề cho
NKT và đạt hiệu quả cao.
Theo đó, chủ thể quản lý hoạt động đào tạo nghề cho NKT bao gồm:
Đảng ủy, Ban Giám đốc, các khoa, bộ môn đào tạo nghề, các phòng, ban chức
năng thuộc CSDN; trong đó, mỗi thành viên của các tổ chức đó đều được quy
định nhiệm vụ quản lý cụ thể theo chức trách, nhiệm vụ được giao và có sự
phân cấp quản lý phù hợp.
Về khách thể quản lý:
Là toàn bộ các nhân tố của hoạt động đào tạo nghề cho NKT của cơ sở
đào tạo, bao gồm:
- Mục tiêu đào tạo nghề là kết quả dự kiến của CSDN cho NKT về đối
tượng đào tạo nghề sau khi hoàn thành các khóa học.
- Nhà giáo dục (giáo viên, giám thị và cán bộ quản lý nhà trường từ trên
xuống đến các lớp học và cán bộ các phòng, ban chức năng của nhà trường),
vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quản lý.
- Chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức đào tạo nghề
cho NKT.
16
- Cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật dạy học.
- Môi trường sư phạm và đời sống vật chất – tinh thần của cán bộ, giáo
viên, học viên khuyết tật.
Về mục đích quản lý:
Mục đích của quản lý hoạt động đào tạo nghề cho NKT là thông qua tác
động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt tới sự vận hành
thông suốt, có hiệu quả cao, phát huy mọi nguồn lực, sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống; đồng thời, hạn chế những yếu kém của CSDN cho NKT; thiết
thực góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề của CSDN
cho NKT.
Về phương pháp quản lý:
Để quản lý có hiệu quả, chủ thể quản lý phải nắm vững và vận dụng thuần
thục các chức năng quản lý, bao gồm: kế hoạch hóa hoạt động đào tạo nghề
(xác định nội dung, chỉ tiêu, thời gian, biện pháp thực hiện,…); tổ chức hoạt
động đào tạo nghề (vận hành các mối quan hệ giữa các thành viên, các bộ phận
để tác động đến đối tượng quản lý một cách có hiệu quả bằng cách điều phối
các nguồn lực của tổ chức như: nhân lực, vật lực và tài lực); chỉ đạo hoạt động
đào tạo nghề (điều hành tổ chức hay nhân lực đã có của đơn vị để vận hành
theo đúng kế hoạch đã vạch ra) và kiểm tra hoạt động đào tạo nghề (thông qua
một cá nhân, nhóm hay tổ chức để xem xét thực tế, đánh giá, giám sát thành
quả hoạt động, đồng thời uốn nắn, điều chỉnh các sai sót, lệch lạc nhằm thúc
đẩy hệ thống đào tạo nghề sớm đạt được mục tiêu đã định). Ngoài ra, trong
thời đại bùng nổ của thông tin hiện nay, chủ thể quản lý cần thực hiện tốt chức
năng nắm thông tin về hoạt động đào tạo nghề cho NKT; trên cơ sở đó có biện
pháp điều chỉnh các chức năng trên một cách kịp thời và hiệu quả.
Để thực hiện tốt các chức năng quản lý, chủ thể quản lý phải sử dụng có
hiệu quả các công cụ quản lý. Bao gồm: các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn,
17
thông tư,… của cấp trên (Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền địa phương,…)
và chỉ thị, nghị quyết, văn bản hành chính của cấp mình; các chương trình, kế
hoạch, đề án về giáo dục – đào tạo và đào tạo nghề cho NKT; nhân lực, tài lực,
vật lực,… có trong biên chế của cơ sở đào tạo.
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt
động đào tạo nghề cho người khuyết tật
Giáo viên và cán bộ quản lý
Năng lực giáo viên là điều kiện quan trọng góp phần đảm bảo công tác
đào tạo cho một cơ sở đào tạo. Giáo viên có kiến thức chuyên môn sâu rộng,
tay nghề cao, khả năng sư phạm tốt và có tư duy khoa học sáng tạo sẽ hình
thành ở học viên kiến thức vững vàng, năng lực tự học và khả năng thích ứng
tốt với công việc. Bên cạnh chuyên môn nghiệp vụ phải đạt trình độ chuẩn do
Bộ Giáo dục – Đào tạo và Bộ LĐ – TB & XH quy định thì giáo viên đào tạo
nghề cho NKT cần phải có kiến thức cơ bản về tâm lý giáo dục, khả năng giao
tiếp đa dạng như ngôn ngữ giao tiếp bình thường, phi ngôn ngữ (ngôn ngữ ký
hiệu, ngôn ngữ cơ thể).
Số lượng giáo viên trên tổng số học viên cũng ảnh hưởng rất lớn đến công
tác đào tạo, để quá trình đào tạo đạt chất lượng cao nhất phải đảm bảo tỷ lệ
giáo viên và học viên, đảm bảo số giờ dạy chuẩn của giáo viên và tổ chức tốt
quá trình nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ giáo viên. Một cơ sở đào tạo
có đội ngũ giáo viên chuẩn sẽ là tài sản vô giá giúp cho sự tồn tại và phát triển
bền vững của đơn vị.
Bên cạnh đó, một ngôi trường hoạt động hiệu quả không thể thiếu người
đứng đầu, vì vậy năng lực của người cán bộ quản lý có vai trò rất quan trọng
trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường. Người quản lý biết tổ
chức xây dựng một chương trình đào tạo hợp lý, phát huy tối đa khả năng của
giáo viên, có sự đầu tư về cơ sở vật chất, nắm được thực lực của đơn vị để
18