Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.2 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

QUẢNG QUỐC HUY

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ,
TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

QUẢNG QUỐC HUY

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC


VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ,
TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành:
Mã số
:

Quản lý công
60 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH THANH HÀ

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ Quản lý công với đề tài “Quản lý nhà
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố Rạch Giá”
là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Trịnh Thanh Hà và hoàn thành vào năm 2017 tại Học viện
hành chính quốc gia.
Học viên

Quảng Quốc Huy


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài "Quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội

phạm trên địa bàn thành phố Rạch Giá", bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên, hướng dẫn tận tình của các thầy cô,
bạn bè, đồng nghiệp và gia đình trong suốt khóa học cũng như thời gian nghiên
cứu để làm luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trịnh Thanh Hà, người thầy đã
tận tình hướng dẫn khoa học và giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, viết luận
văn.
Tôi xin gởi lời cảm ơn đến các cơ quan, ban ngành của thành phố Rạch
Giá, bạn bè, đồng nghiệp...đã cung cấp tài liệu để tôi nghiên cứu và viết luận
văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô trong Hội đồng bảo vệ luận văn đã
cho tôi những lời nhận xét, góp ý quý báu, giúp tôi hoàn thiện luận văn này.
Đề tài "Quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa
bàn thành phố Rạch Giá" có phạm vi rất rộng và phức tạp. Vì vậy, luận văn
không thể tránh khỏi thiếu sót và hạn chế nhất định. Tôi rất mong tiếp tục nhận
được ý kiến đóng góp của thầy cô và những ai quan tâm đến đề tài này để luận
văn được hoàn thiện hơn nữa.
Xin chân thành cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2017


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ANCT

An ninh chính trị

ANQG

An ninh quốc gia


ANTT

An ninh trật tự

BCA

Bộ Công an

CSND

Cảnh sát nhân dân

MTTQVN

Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

QLNN

Quản lý nhà nước

TNCSHCM


Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

TTXH

Trật tự xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
Lời cam đoan..........................................................................................................i
Lời cảm ơn............................................................................................................ii
Danh mục các từ viết tắt………...........................................................................iii
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn......................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài........................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.............................................................6
7. Cấu trúc của luận văn.......................................................................................6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤU
TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MA TÚY.......................................7

1.1. Tội phạm ma túy và đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy.............7
1.1.1. Tội phạm ma túy....................................................................................7
1.1.2. Đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy...........................................10
1.2. Quản lý Nhà nƣớc về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy...........13
1.2.1. Khái niệm.............................................................................................13
1.2.2. Mục đích, nguyên tắc

quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng,

chống tội phạm ma túy..................................................................................15
1.2.2.1. Mục đích.....................................................................................15
1.2.2.2. Nguyên tắc..................................................................................16
1.2.3. Nội dung quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma
túy..................................................................................................................18
1.2.4. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước về phòng, chống tội
phạm ma túy..................................................................................................20


1.2.4.1. Trung ương................................................................................20
1.2.4.2. Chính quyền địa phương...........................................................23
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về phòng, chống tội phạm
ma túy.................................................................................................................23
1.3.1. Sự tác động của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế...............23
1.3.2. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước........................................24
1.3.3. Hệ thống pháp luật ........................................................................25
1.3.4. Năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức và ý thức của
nhân dân......................................................................................................26
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤU TRANH
PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MA TÚY TẠI THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ,
TỈNH KIÊN GIANG.........................................................................................30

2.1. Tình hình tội phạm ma túy ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên
Giang…………………………………………………………………...……....30
2.2. Hiện trạng quản lý Nhà nƣớc về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma
túy tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.................................................34
2.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm
ma

túy



thành

phố

Rạch

Giá,

tỉnh

Kiên

Giang.............................................................................................................34
2.2.2. Ban hành văn bản quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội
phạm ma túy của cơ quan nhà nước có thẩm quyền......................................37
2.2.3. Tổ chức thực hiện các văn bản quản lý nhà nước về đấu tranh phòng,
chống tội phạm ma túy ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang…………40
2.2.4. Đào tạo, bồi dưỡng công chức quản lý nhà nước về đấu tranh phòng,
chống tội phạm ma túy..................................................................................45

2.2.5. Hợp tác quốc tế trong quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội
phạm ma túy..................................................................................................49
2.2.6. Công tác thanh tra, kiểm tra.................................................................50


2.3. Đánh giá quản lý nhà nƣớc về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy
ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang..................................................50
2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân..................................................50
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân................................................................54
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤU
TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MA TÚY TẠI .THÀNH PHỐ
RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG.............................................................61
3.1. Dự báo tình hình và những yếu tố tác động đến hoạt động đấu tranh
phòng, chống tội phạm ma túy tại thành phố Rạch Giá...........................61
3.1.1. Tình hình buôn bán và sử dụng ma túy trong thời gian tới............61
3.1.2. Những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm ma túy...............................................................62
3.1.3. Những yếu tố tích cực tác động đến quản lý nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm ma túy................................................................64
3.2. Quan điểm, mục tiêu và định hƣớng chỉ đạo của thành phố Rạch
Giá.................................................................................................................65
3.2.1. Quan điểm và phương hướng chỉ đạo............................................65
3.2.2. Những mục tiêu, định hướng và nhiệm vụ.....................................67
3.3.

Giải pháp bảo đảm quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động đấu tranh

phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên
Giang........................................................................ ...................................70
3.3.1. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp

trong quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma
túy………………………………………………………………………70
3.3.2. Hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế quản lý.................................71
3.3.3. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức........................73
3.3.4. Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục...............................................76


3.3.5. Nhân rộng mô hình đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người sau
cai nghiện......................................................................................................83
3.3.6. Tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm ma túy......................................................................87
KẾT LUẬN........................................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................91


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn định của đất nước, đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch và các
loại tội phạm khác; giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc những thành
quả cách mạng, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới là một nhiệm vụ trọng yếu
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Do vậy, Quản lý Nhà nước về an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội là
một hoạt động quan trọng, được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt. Chúng ta
biết rằng, lực lượng Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt giữ vai trò hết sức
quan trọng trong việc Quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thực tế những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo về nghiệp vụ
của lực lượng Công an các cấp, cán bộ, chiến sĩ Công an thành phố Rạch Giá đã
làm tốt công tác quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa
bàn thành phố: Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội

được đảm bảo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn còn có những thiếu sót, bộc lộ những
bất cập đã làm hạn chế chất lượng cũng như hiệu quả của công tác quản lý Nhà
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm tại thành phố: công tác giữ gìn an ninh
trật tự chưa được thực hiện đồng bộ, sự quản lý về đấu tranh phòng, chống tội
phạm chưa đạt được sự thống nhất, đồng thuận thực sự giữa các bộ phận, ban,
ngành liên quan, nên tình hình tội phạm có nhiều diễn biến phức tạp, chưa được
đấu tranh phòng, chống hiệu quả làm mất lòng tin của nhân dân. Có những đồng
chí nhận thức về công tác này chưa đầy đủ, chưa đúng tầm.., nên khi thực hiện
các biện pháp công tác còn đơn thuần, mang nặng tính chất hành chính, do đó
công tác xử lý chưa kiên quyết, triệt để, công minh với những trường hợp vi
phạm pháp luật trên địa bàn thành phố. Mặt khác, Công an thành phố cũng chưa
huy động được đông đảo và phát huy tối đa vai trò của quần chúng nhân dân
1


tham gia công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, mối quan hệ phối hợp với
các cơ quan chức năng có liên quan đến an ninh trật tự chưa được tiến hành một
cách đồng bộ nên đã làm hạn chế đến hiệu quả, hiệu lực Quản lý Nhà nước về
đấu tranh phòng, chống tội phạm tại địa bàn thành phố Rạch Giá. Với những đặc
điểm tình hình cụ thể tại thành phố Rạch Giá, tác giả chọn đề tài “Quản lý Nhà
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn thành phố Rạch Giá”
làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm là một trong
những nội dung chủ yếu của quản lý Nhà nước đã được các nhà nghiên cứu lý
luận quản lý Nhà nước và các nhà quản lý thực tế nghiên cứu và trao đổi nhiều.
Đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến vấn đề này, trong đó có thể chỉ ra các nghiên
cứu chủ yếu như:
- Tác giả Đinh Trọng Hoàn: Kỹ năng giao tiếp của Cảnh sát quản lý hành

chính về trật tự xã hội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009 tập trung vào việc
phân tích các đặc điểm trong hoạt động của lực lượng Công an nói chung và lực
lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự, an toàn xã hội nói riêng, qua đó
xác định các kỹ năng mà người chiến sĩ Cảnh sát làm nhiệm vụ duy trì, bảo vệ
trật tự xã hội cần có như giao tiếp công vụ, giải quyết xung đột, xử lý vi phạm
hành chính,...và phương pháp rèn luyện các kỹ năng này để thực hiện tốt hơn
công vụ của mình.
- Trần Viết Long và tập thể tác giả Học viện Cảnh sát nhân dân trong tác
phẩm "Quản lý Nhà nước về an ninh trật tự". (Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2007) đã đề cập tới những vấn đề lý luận chung về quản lý an ninh, trật tự và các
nội dung quan trọng quản lý an ninh, trật tự; xác định vai trò của lực lượng công
an nhân dân là nòng cốt trong việc bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn
xã hội trong mối liên hệ với các tổ chức khác. Các tác giả cũng đã phần nào chỉ
ra những đặc điểm của bối cảnh hiện nay có ảnh hưởng tới an ninh chính trị và
trật tự, an toàn xã hội và đề xuất được một số phương hướng chủ yếu để bảo
đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội hiện nay.
2


- Vũ Văn Hiền (Chủ biên) với nghiên cứu “Một số lý luận cơ bản về hoạt
động nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính” (Học viện Cảnh sát
nhân dân, Hà Nội, 2003) đã đề cập tới cơ sở lý luận về công tác an ninh, trật tự
xã hội và vai trò của lực lượng Công an nhân dân, nhất là lực lượng Cảnh sát
quản lý hành chính trong việc duy trì, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an
toàn xã hội. Tác phẩm cũng đề cập tới những kỹ năng cần thiết của lực lượng
Cảnh sát quản lý hành chính trong quá trình thực hiện hoạt động nghiệp vụ quản
lý an ninh trật tự.
- Nguyễn Xuân Yêm: "Một số vấn đề quản lý Nhà nước về an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội" (Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, 1998):
trong tác phẩm này tác giả đã đề cập tương đối cụ thể về khung lý luận về quản

lý Nhà nước về an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Tác giả cũng đã đồng
thời xem xét đánh giá được một số khía cạnh của việc bảo vệ an ninh quốc gia
và trật tự, an toàn xã hội;
- Trần Minh Tơn: "Quan điểm và giải pháp chiến lược phòng, chống tội
phạm thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" (Nhà xuất bản
Công an Nhân dân, Hà Nội, 2011): đã đề cập đến quan điểm chỉ đạo của Đảng,
Nhà nước ta về phòng, chống tội phạm. Đồng thời tác giả cũng đưa ra các giải
pháp phòng chống tội phạm trong tình hình mới, nhất là tội phạm phi truyền
thống;
- Lê Bá Tịnh: "Đẩy mạnh công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh
sát hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm" (Nhà xuất bản Công an
Nhân dân, Hà Nội, 2015): tác giả đã đưa ra các ưu điểm và hạn chế công tác
nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát hình sự thời gian qua và đưa ra các giải
pháp tăng cường công tác điều tra cơ bản, nghiệp vụ cơ bản để phục vụ công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm thời gian tới.
Trong phạm vi các khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ
trước đây, cũng đã có nhiều nghiên cứu của các tác giả khác nhau liên quan đến
Quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, có thể nói
rằng, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ
3


thống về “Quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa
bàn thành phố Rạch Giá”
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà nước về
đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố, góp phần vào
việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội ở địa phương.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng,
chống tội phạm ma túy;
- Đánh giá thực trạng Quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội
phạm ma túy tại thành phố Rạch Giá. Rút ra những ưu điểm, hạn chế, xác định
rõ nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế, thiếu sót đang đặt ra đối với
công tác này trên địa bàn thành phố Rạch Giá.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý
Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố
Rạch Giá.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Lĩnh vực Quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm là rất
rộng, vì vậy tác giả luận văn xin được giới hạn trong phạm vi, khuôn khổ Quản
lý Nhà nước về phòng chống tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Rạch Giá.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2016.
- Không gian: Địa bàn thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
4


Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
5.2. Các phương pháp khác
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để nghiên cứu các công
trình khoa học đã được công bố, sách, giáo trình liên quan đến Quản lý Nhà
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thu thập những tài liệu, báo cáo tổng
kết và khảo sát thực tế về tình hình đấu tranh phòng, chống tội phạm và công tác

quản lý Nhà nước trên lĩnh vực này tại địa bàn thành phố Rạch Giá.
- Phương pháp thống kê được sử dụng trong thu thập và xử lý dữ liệu phục
vụ nghiên cứu định lượng, đồng thời sử dụng phương pháp thống kê để tóm tắt
thông tin nhằm hỗ trợ cho việc tìm hiểu rõ vấn đề nghiên cứu. Từ đó đưa ra kết
luận về nội dung nghiên cứu dựa trên các số liệu và giúp cho việc dự báo xu
hướng diễn biến của vấn đề cần nghiên cứu trong thời gian tới. Cụ thể là thống
kê những số liệu liên quan đến hoạt động quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng,
chống tội phạm để từ đó phân tích, đánh giá một số hoạt động trên địa bàn Rạch
Giá.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng xuyên suốt luận văn này.
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp để tìm hiểu, xem xét những
nghiên cứu trước đây về nội dung liên quan đến đề tài đã được tiến hành như thế
nào, kết quả ra sao, còn vấn đề gì chưa đề cập hoặc những hạn chế trong nghiên
cứu trước đó để rút ra những nội dung cần được bổ sung, làm sáng tỏ trong đề
tài này. Luận văn sẽ tổng hợp, phân tích những số liệu quản lý Nhà nước về đấu
tranh phòng, chống tội phạm...để thấy rõ thực trạng hoạt động đó, rút ra những
nhận xét về ưu điểm và hạn chế cũng như đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn thành
phố Rạch Giá.
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Dựa
vào phương pháp này, tác giả tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau của
những vấn đề cần nghiên cứu, qua đó giúp cho việc nhận xét, đánh giá vấn đề
5


một cách toàn diện, khoa học và chính xác hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn hệ thống hóa những lý luận liên quan quản lý Nhà nước về đấu
tranh phòng, chống tội phạm ma túy, từ đó góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề
có tính lý luận liên quan đến QLNN về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy.

Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài giúp tác giả củng cố thêm hệ thống lý luận
nghiệp vụ quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy, nâng
cao trình độ lý luận và khả năng ứng dụng vào thực tiễn công tác, đáp ứng được
yêu cầu và đòi hỏi của xã hội trong thời kỳ mới.
Kết quả nghiên cứu của đề tài của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
cho công tác giảng day, học tập của giảng viên và sinh viên Học viện Hành
chính Quốc gia; giúp cho cán bộ chiến sỹ Công an tỉnh Kiên Giang nói chung và
Công an thành phố Rạch Giá nói riêng rút ra được những kinh nghiệm trong khi
thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn mình quản lý, trên cơ sở đó có những giải pháp
phù hợp để tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống
tội phạm ma túy ở địa phương. Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo hữu
ích cho những người nghiên cứu về lĩnh vực này.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần nội
dung được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống
tội phạm ma túy.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội
phạm ma túy tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Chương 3. Giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về đấu tranh phòng,
chống tội phạm ma túy tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

6


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐẤU TRANH
PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MA TÚY
1.1. Tội phạm ma túy và đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy
1.1.1. Tội phạm ma túy

Ma tuý, theo gốc Hán – Việt, có nghĩa là “làm mê mẩn”. Chất ma tuý lúc
đầu dùng để chỉ các chất có tác dụng gây ngủ, gây mê; sau này khi khoa học
phát triển con người tổng hợp được các chất tự nhiên có khả năng gây nghiện,
thì chất ma tuý được hiểu là những chất có tính chất gây nghiện, có khả năng bị
lạm dụng.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
ma tuý và chất ma tuý tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu. Có trường hợp người
ta không cần đưa ra một định nghĩa về ma tuý, mà liệt kê ngay các chất ma tuý
gồm: Các chất đã được xác định và có tên gọi riêng trong khoa học. Danh mục
các chất ma tuý, tiền chất và các chất hoá học dùng để điều chế các chất ma tuý
(bao gồm danh mục quy định tại Công ước quốc tế 1961, 1971, 1981) được ban
hành theo Nghị định của Chính phủ Số 67/2001/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm
2001.
Như vậy, ma túy là tên gọi chung chỉ những chất kích thích khi dùng một
lần có thể gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo. Những chất này khi
đưa vào cơ thể sống sẽ làm thay đổi trạng thái nhận thức và sinh lý. Theo khái
niệm khoa học: Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên (morphin...); bán tổng
hợp (heroin được bán tổng hợp từ morphin) hay tổng hợp (amphetamine) có tác
dụng lên thần kinh trung ương gây cảm giác như giảm đau, hưng phấn hay cảm
thấy dễ chịu... mà khi dùng nhiều lần thì sẽ phải sử dụng lại nó nếu không sẽ rất
khó chịu. Theo cách hiểu thông thường trong xã hội Việt Nam hiện nay, ma túy
thường được hiểu đó là heroin, bạch phiến. Một người bị nghiện ma túy sẽ bị
mọi người hiểu là nghiện heroin hay ngược lại mà không có sự phân biệt về chất
người đó lệ thuộc. Ma túy được sử dụng rộng rãi như một thuật ngữ mang màu
sắc tiêu cực để chỉ từ những chất có khả năng gây nghiện và tàn phá cơ thể
7


người dùng cao (Heroin, Crystal Meth...) cho đến những chất có thể dùng trong
y tế với liều lượng nhỏ.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Phòng chống ma túy năm 2000
(sửa đổi, bổ sung năm 2008), thì:
a) Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định
trong các danh mục do Chính phủ ban hành;
b) Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình
trạng nghiện đối với người sử dụng;
c) Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác,
nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng;
d) Tiền chất là các hóa chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế,
sản xuất chất ma túy, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành;
đ) Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được
quy định trong các danh mục do Bộ Y tế ban hành, có chứa các chất quy định tại
khoản 2 và khoản 3 Điều này;
e) Cây có chứa chất ma tuý bao gồm cây thuốc phiện (cây anh túc), cây
côca, cây cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma tuý do Chính phủ quy định.
Là tội phạm, nên tội phạm về ma tuý cũng có những đặc điểm chung như
các tội phạm khác bao gồm: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật, tính
có lỗi và tính chịu hình phạt. Tuy nhiên, đối với tội phạm về ma tuý có những
đặc điểm riêng mà các tội phạm khác không có. Đó là tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm về ma tuý cao hơn so với các tội phạm khác được quy định trong
Bộ luật hình sự (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia). Cũng chính do đặc
điểm này, mà trong thực tiễn xét xử thời gian qua, luôn áp dụng hình phạt
nghiêm khắc đối với người phạm các tội về ma tuý. Đối với các vụ án mua bán,
vận chuyển chất ma tuý với quy mô lớn, thường được người phạm tội tổ chức rất
chặt chẽ thành những đường dây xuyên quốc gia, thậm chí từ nước ngoài vào
Việt Nam nhưng lại không được tổ chức như các vụ án có tổ chức khác, không
có người cầm đầu, chỉ huy mọi hoạt động của các đồng phạm khác, có vụ có rất
đông người tham gia vào đường dây vận chuyển, mua bán ma tuý nhưng thông
8



thường chỉ người thứ nhất biết ngươi thứ hai chứ không biết người thứ ba. Cũng
chính vì đặc điểm này mà việc điều tra, khám phá các đường dây ma tuý rất khó
khăn, không ít những vụ án sau khi xét xử mới phát hiện trong đường dây vận
chuyển, mua bán ma tuý còn có nhiều người phạm tội khác, cá biệt có trường
hợp trước khi thi hành án tử hình người bị kết án tử hình mới khai ra đồng
phạm. Một đặc điểm thường thấy trong các vụ án ma tuý lớn, người phạm tội
thường móc nối với một số cán bộ trong các lực lượng chống ma tuý để vận
chuyển, mua bán ma tuý trót lọt khó bị phát hiện và nếu có bị phát hiện thì
chúng hy vọng sự bao che của các lực lượng này. Đối với những hành vi mua
bán có tính chất tiêu thụ, người phạm tội thường chia ma tuý thành những gói
nhỏ (tép, chỉ...) mỗi gói là một liều để bán cho các con nghiện. Việc tổ chức tiêu
thụ ma tuý cũng rất tinh vi, chúng thường sử dụng những địa điểm thuận lợi, có
phân công người canh gác, khi các lực lượng chống ma tuý phát hiện thì chúng
tẩu thoát dễ dàng. Đối với hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, người
phạm tội chủ yếu là những con nghiện rủ nhau, góp tiền, góp tài sản để mua để
trao đổi lấy chất ma tuý sử dụng chung, ít có trường hợp người phạm tội đứng ra
tổ chức như kiểu tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Đây cũng là đặc điểm mà thực
tiễn xét xử có nhiều trường hợp rất khó phân biệt giữa hành vi tổ chức sử dụng
trái phép chất ma tuý với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Không ít trường
hợp có nhiều người cùng sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng người này thì
phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý còn người khác chỉ phạm tội sử
dụng trái phép chất ma tuý.
Tội phạm về ma túy là tội phạm bao gồm hành vi vi phạm quy định về
quản lí, sử dụng các chất ma túy do Bộ luật hình sự quy định. Tội phạm về ma
túy bao gồm nhiều loại hành vi phạm tội khác nhau nhưng đều có chung hai đặc
điểm cơ bản: tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm về ma túy thể hiện ở sự đe
dọa nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển bình thường của con người cũng
như đến hạnh phúc gia đình và trật tự công cộng nói chung; các tội phạm về ma
túy đều có chung đối tượng là các chất ma túy hoặc các chất liên quan tới các

chất ma túy.
9


Bộ Luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định tội
phạm ma túy bao gồm: Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có
chứa chất ma tuý (đ. 192), tội sản xuất trái phép chất ma túy (đ.193), tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (đ.194), tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái
phép chất ma túy (đ.195), tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các
phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy
(đ.196), tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý (đ. 197), tội chứa chấp việc sử
dụng trái phép chất ma tuý (đ. 198), tội sử dụng trái phép chất ma tuý (đ. 199),
tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (đ.200), tội vi
phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác
(đ.201)
1.1.2. Đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy
Trong xã hội, nếu thừa nhận tội phạm là hiện tượng tiêu cực của xã hội thì
cuộc đấu tranh chống tội phạm được coi là một điều tất yếu khách quan không
thể thiếu được của mọi chế độ xã hội. Cho nên trong bất kỳ Nhà nước nào cũng
đều phải tiến hành đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phòng, chống tội phạm có
hai nội dung cơ bản:
Thứ nhất, phòng ngừa tội phạm là bằng mọi biện pháp ngăn chặn không
để cho tội phạm xảy ra; không để một thành viên của xã hội phải chịu hình phạt
của pháp luật; xã hội không phải gánh chịu hậu quả của tội phạm; các cơ quan
bảo vệ pháp luật không phải tốn kém những khoản chi phí cho việc điều tra,
khám phá, xử lý người phạm tội và điều quan trọng hơn là đảm bảo cuộc sống
bình thường cho mọi công dân trong xã hội, để từ đó làm cơ sở cho mọi công
dân có thể cống hiến sức lực của mình vào sự nghiệp xây dựng và phát triển xã
hội.

Thứ hai, đấu tranh chống tội phạm có nghĩa phải phát hiện, điều tra khám
phá kịp thời, nhanh chóng và có hiệu quả mỗi khi tội phạm xảy ra, nhằm đảm
bảo tội phạm không thể không bị phát hiện và điều tra xử lý, không một người
phạm tội nào có thể tránh khỏi hình phạt của pháp luật.
10


Để có thể phòng, chống tội phạm có hiệu quả thì phải có sự tham gia của
toàn xã hội nói chung, trong đó có các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và
tất cả công dân cũng phải tiến hành áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp khác nhau
hướng vào việc thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội, phát hiện nhanh
chóng, kịp thời mỗi khi tội phạm xảy ra nhằm từng bước, ngăn chặn, hạn chế,
đẩy lùi và tiến tới loại bỏ chúng ra khỏi cuộc sống xã hội. Chỉ có thực hiện được
như thế thì mới có thể giải quyết được tình hình tội phạm trong xã hội. Chính vì
vậy, khi tiến hành thực hiện các biện pháp phòng ngừa phải thực hiện nguyên
tắc đảm bảo sự tham gia, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội và mọi công dân trong hoạt động phòng, chống tội phạm [31,
tr.50-51].
Hoạt động phòng ngừa tội phạm về cơ bản được phân thành hai nhóm:
- Các biện pháp phòng ngừa xã hội đối với tội phạm (còn gọi là biện pháp
phòng ngừa chung). Đây là các biện pháp của các cơ quan, tổ chức xã hội và
Nhà nước (với tư cách chủ thể quản lý xã hội, quản lý Nhà nước) tiến hành. Các
biện pháp phòng ngừa chung là hệ thống các biện pháp kinh tế - xã hội, chính
trị, văn hoá - xã hội, giáo dục và pháp luật nhằm phát triển xã hội, góp phần hạn
ché hoặc loại trừ những yếu tố có thể trở thành nguyên nhân và điều kiện thực
hiện tội phạm.
- Các biện pháp phòng ngừa riêng (còn gọi là phòng ngừa nghiệp vụ) là
các biện pháp do các cơ quan pháp luật (thuộc bộ máy bạo lực, trấn áp) được
giao nhiệm vụ chuyên trách trong lĩnh vực này tiến hành. Phòng ngừa riêng là
hệ thống các biện pháp pháp luật - nghiệp vụ do các cơ quan bảo vệ pháp luật

(Công an, Viện Kiểm sát, Toà án) tiến hành nhằm mục đích phát hiện, ngăn
chặn và loại trừ những nguyên nhân và điều kiện tội phạm. Thuộc về các biện
pháp này, trước tiên là sự hạn chế và loại trừ các nguyên nhân điều kiện tạo điều
kiện cho tội phạm xảy ra, các biện pháp cưỡng bức mang tính chất giáo dục, lên
án hành vi của kẻ phạm tội trước, tập thể, công tác vận động nhân dân của cán
bộ Công an, Viện Kiểm sát, Toà án.

11


Các biện pháp phòng ngừa tội phạm cần được tiến hành một cách tổng
thể, liên tục và hợp lý. Việc đấu tranh đúng lúc và có hiệu quả có thể loại trừ
hoàn toàn tội phạm ở các xí nghiệp, cơ quan và ngoài xã hội.
Đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy rất phức tạp, đầy khó khăn do:
Thứ nhất, tội phạm ma túy đa dạng và phức tạp. Các tội về ma túy quy
định trong BLHS đều xảy ra trong thực tế, nhưng phần lớn là các tội như: Mua
bán trái phép chất ma túy; tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy; Tổ chức
sử dụng trái phép chất ma túy. Tội phạm xảy ra ở hầu khắp các tỉnh, thành phố
trong cả nước, không phân biệt người già, thanh thiếu niên, không phân biệt
nam nữ, không phân biệt người dân tộc đa số hay thiểu số. Chẳng hạn, tội trồng
cây có chứa chất ma túy. Người phạm tội này không nhiều, nhưng khó xóa bỏ
được triệt để, nhất là cây thuốc phiện ở các vùng núi cao nơi đồng bào dân tộc ít
người sinh sống. Cứ xóa bỏ chỗ này, người dân lại trồng chỗ khác. Về quy mô
không lớn, chủ yếu trồng rải rác trên sườn núi cao. Cây cần sa người dân lén lút
trồng xem kẽ với các loại cây trồng khác nên rất khó kiểm soát.
Thứ hai, tội phạm có tính chất quốc tế. Đối với các vụ án mua bán, vận
chuyển chất ma tuý với quy mô lớn, thường được người phạm tội tổ chức rất
chặt chẽ thành những đường dây xuyên quốc gia, từ nước ngoài vào Việt Nam
nhưng lại không được tổ chức như các vụ án có tổ chức khác, không có người
cầm đầu, chỉ huy mọi hoạt động của các đồng phạm khác. Tội mua bán trái

phép chất ma túy xảy ra nhiều nhưng việc phát hiện bắt giữ là rất khó khăn, vì
chúng hoạt động rất tinh vi.
Trước thực trạng trên, bên cạnh việc đẩy mạnh chống tội phạm ma tuý
trong nước, Chính phủ Việt Nam đã không ngừng tăng cường mở rộng quan hệ
phối hợp với các tổ chức quốc tế, đặc biệt là UNODC, Interpol... hợp tác với
nhiều quốc gia trên thế giới, khu vực thông qua việc ký kết các hiệp định, thoả
thuận, bản ghi nhớ như: Bản ghi nhớ hợp tác tiểu vùng sông MêKông (MOU);
các bản hiệp định, thoả thuận hợp tác với Chính phủ Liên bang Myanma, Cộng
hoà Hungary, Lào, Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc… Đảng và Nhà nước ta
đã xác định tội phạm về ma túy đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát
12


triển kinh tế, xã hội và an ninh trật tự. Để làm tốt công tác phòng ngừa, ngăn
chặn và đấu tranh có hiệu quả với tội phạm về ma túy thì vấn đề rất quan trọng
là phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo hành lang pháp lý để các cơ quan
bảo vệ pháp luật hoạt động có hiệu quả cao, phát hiện và xử lý nghiêm khắc tội
phạm.
1.2. Quản lý Nhà nƣớc về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy
1.2.1. Khái niệm
Quản lý là một hoạt động có từ lâu đời trong xã hội. Nói đến hoạt động
quản lý trong xã hội là trực tiếp đề cập đến sự tác động, chỉ huy, điểu khiển các
quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phát triển phù hợp với quy
luật, đạt tới mục đích đề ra và đúng với ý chí của chủ thể quản lý. Quản lý là sự
tác động có mục đích của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý bằng các
phương pháp nhất định nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra của nhà quản lý. Chủ
thể quản lý là những cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; đối tượng quản
lý là các quá trình xã hội và hành vi của con người có liên quan[1, tr.16].
Trong hoạt động quản lý xã hội, có rất nhiều chủ thể tham gia: các đảng
phái chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề

nghiệp,...trong đó nhà nước giữ vai trò quan trọng. Nhà nước là trung tâm của hệ
thống chính trị, là công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội, bảo đảm trật tự xã
hội và thúc đẩy xã hội phát triển.
Quản lý Nhà nước là một dạng của quản lý xã hội nhưng là dạng quản lý
xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nhà
nước. Đó chính là hoạt động quản lý gắn liền với hệ thống các cơ quan thực thi
quyền lực nhà nước - bộ phận quan trọng của quyền lực chính trị trong xã hội,
có tính chất cưỡng chế đơn phương đối với xã hội. Trong hoạt động quản lý xã
hội, có rất nhiều chủ thể tham gia: Đảng phái chính trị, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp...trong đó Nhà nước giữ vai trò quan
trọng. Quản lý Nhà nước được hiểu trước hết là hoạt động của các cơ quan nhà
nước thực thi quyền lực nhà nước.

13


Quản lý Nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền
lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người
để duy trì trật tự và đảm bảo sự phát triển của xã hội theo một định hướng thống
nhất [1, tr.27].
Quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy là hoạt
động chấp hành và điều hành của các cơ quan Nhà nước hoặc các tổ chức xã hội
do Nhà nước ủy quyền, được tiến hành trên cơ sở pháp luật, để thi hành pháp
luật nhằm thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực phòng,
chống tội phạm ma túy. Quản lý Nhà nước về phòng, chống tội phạm ma túy là
một nhiệm vụ trọng yếu trong quản lý Nhà nước về trật tự an toàn xã hội.
Quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy, như đã
phân tích, là một bộ phận trong quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự, vì vậy,
mục đích của công tác này cũng phải được định hướng và nhằm góp phần thực
hiện mục đích chung. Theo đó, mục đích cuối cùng của quản lý Nhà nước về

đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy là bảo vệ vững chắc nền an ninh trật tự
của Tổ quốc, bảo đảm sự ổn định và bình yên của xã hội, thực hiện thắng lợi
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu cụ thể của quản lý Nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm ma túy là nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ bảo vệ an
toàn các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật và các kỷ
cương xã hội, đấu tranh có hiệu quả đối với tình trạng phạm tội, với các vi phạm
pháp luật và các loại tệ nạn xã hội, giữ cho xã hội luôn luôn ở trong trạng thái
bình yên, trật tự, nền nếp, kỷ cương...
Thực tiễn chứng minh rằng, nếu như quản lý trên lĩnh vực an ninh chính
trị nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam, bảo
vệ chế độ chính trị, bảo vệ Nhà nước XHCN, kịp thời phát hiện và dập tắt mọi
âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch chống phá CNXH, chống phá cách
mạng Việt Nam, thì quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo
đảm trật tự an toàn xã hội giành ưu tiên cho mục tiêu đảm bảo cho các quá trình
xã hội, các hoạt động trong đời sống xã hội, đời sống cá nhân trong cộng đồng...
14


được diễn ra một cách bình thường, an toàn... trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ
các quy định của pháp luật và các quy tắc của lối sống, đạo đức XHCN. Giữa an
ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với
nhau. An ninh quốc gia được bảo vệ vững chắc mới tạo điều kiện cơ bản thuận
lợi để bảo vệ tốt trật tự an toàn xã hội. Ngược lại, trật tự an toàn xã hội được giữ
vững sẽ góp phần tích cực vào việc bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, tăng
cường lòng tin của quần chúng vào Đảng, Nhà nước, vào chế độ XHCN. Cần
nhấn mạnh rằng: Nếu tình hình trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp, nghiêm
trọng kéo dài, không kiểm soát được sẽ gây ảnh hưởng rất xấu, thậm chí chuyển
hóa thành vấn đề chống đối chính trị, điều đó rõ ràng tác động tiêu cực đến an
ninh quốc gia. Do đó, vai trò quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội

phạm ma túy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đảm bảo an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự an toàn xã hội của đất nước.
1.2.2. Mục đích, nguyên tắc quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng,
chống tội phạm ma túy
1.2.2.1. Mục đích
Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối
sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội, vì vậy, Nghị
quyết của Đảng là định hướng cho việc xác định mục đích công tác Quản lý Nhà
nước trên mọi lĩnh vực trong giai đoạn hiện nay, trong đó có quản lý Nhà nước
về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói riêng.
Cụ thể, trong các lĩnh vực chủ yếu của đời sống, công tác quản lý Nhà
nước về đấu tranh phòng, chống ma túy hiện nay có mục đích như sau:
Về chính trị: Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự
vững chắc của chế độ chính trị XHCN và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà
nước đối với lĩnh vực đấu tranh phòng, chống ma túy;
Về kinh tế - xã hội: Đảm bảo sự ổn định và phát triển các thành phần kinh
tế - xã hội theo định hướng XHCN, phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với
những hoạt động tội phạm và những vi phạm pháp luật trên lĩnh vực kinh tế.
15


Về tư tưởng văn hóa: Bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng những giá trị trong truyền thống và bản sắc dân tộc, phát hiện kịp
thời và có những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh với hoạt động tội
phạm, tệ nạn xã hội và những vi phạm pháp luật trên lĩnh vực này.
Về đối ngoại: Góp phần tích cực trong thực hiện chính sách đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế, tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
bình đẳng, cùng có lợi của Đảng, củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam trên

thế giới.
Về an ninh, quốc phòng: Xây dựng vững chắc nền an ninh nhân dân và
thế trận an ninh nhân dân gắn với nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc
phòng toàn dân. Xây dựng lực lượng CAND và Quân đội nhân dân cách mạng,
chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hóa một số quân
chủng, binh chủng, lực lượng; đảm bảo số lượng hợp lý, có sức chiến đấu cao,
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
1.2.2.2. Nguyên tắc
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, quan trọng nhất, chủ đạo và chi phối các
nguyên tắc khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, đấu tranh bảo vệ an ninh
trật tự là nhiệm vụ nặng nề, gian khổ, âm thầm, nhưng rất quan trọng, quan hệ
trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân, đến sự mất còn của dân tộc. Một sự nghiệp
như vậy phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Nếu
thoát ly đường lối chính trị của Đảng thì không đạt được kết quả. Trong Báo cáo
Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “ Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội

16


×