Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

LUẬN VĂN: Quản lý nhà nước đối với thị trường bất động sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.38 KB, 105 trang )






LUẬN VĂN:

Quản lý nhà nước đối với thị trường bất động
sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh







Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi nền kinh tế của nước ta bước vào công cuộc đổi mới, nhiều loại thị trường
đã hình thành và phát triển, chúng đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội có những tiến bộ
rõ rệt cả về mặt chất và lượng.
Thị trường bất động sản (TTBĐS) là một trong những loại thị trường đó. Tuy
mới hình thành nhưng TTBĐS đã từng bước góp phần tăng cường hiệu quả đầu tư kinh
doanh và sử dụng đất đai, nhà xưởng và cải thiện điều kiện sống của nhân dân, Chính
thị trường này đã bước đầu biến bất động sản (BĐS) trở thành nguồn lực quan trọng
trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Tuy nhiên, cho đến nay TTBĐS ở nước ta vẫn trong giai đoạn đầu, sơ khai nên
còn tồn tại nhiều hạn chế và khiếm khuyết cả về hoạt động của thị trường lẫn công tác
quản lý của Nhà nước. Thực tế hiện nay cho thấy, bên cạnh thị trường chính quy, hoạt


động của thị trường phi chính quy đã và đang "nổi lên" như một thách thức đối với công
tác quản lý nhà nước (QLNN) về lĩnh vực này và đối với toàn xã hội; chính thị trường phi
chính thức này là một trong những nguyên nhân làm phân hóa giàu nghèo mạnh mẽ và mất
công bằng xã hội, cùng một loạt các hiện tượng tiêu cực như tham nhũng, rửa tiền… Hơn
nữa, nền kinh tế nước ta đang hướng tới tăng trưởng, xóa đói, giảm nghèo và công bằng
xã hội. Do đó, việc tăng cường QLNN để hạn chế các tiêu cực, đưa TTBĐS phát triển
đúng hướng đã xuất hiện như là một đòi hỏi bức thiết.
Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) là một thành phố có quy mô lớn nhất cả
nước với tổng diện tích 2095,01 km
2
, có 24 quận, huyện và dân số trung bình là
5.630.192 người [13, tr. 24-27]. TP.HCM luôn giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế của khu vực Nam Bộ cũng như cả nước và được xem là "hạt nhân" kinh tế

của vùng kinh tế động lực, trọng điểm Đông Nam Bộ, lớn nhất cả nước.
Hiện nay, tại TP.HCM, trước những sức ép của phát triển kinh tế, mở cửa và hội
nhập, đã xuất hiện nhiều vấn đề về gia tăng dân số cơ học, việc làm, nhà ở, đây là các "tác
nhân" làm cho TTBĐS từng bước được hình thành và phát triển. Thật vậy, khi dân cư đô thị
tăng lên, có nhiều việc làm, thu nhập cao, nhu cầu nhà ở, đất ở tất yếu sẽ tăng tạo điều kiện
cho TTBĐS phát triển. Tuy nhiên, công tác quản lý và sử dụng đất đai cũng như hoạt động
của TTBĐS chính thức còn nhiều yếu kém. Các văn bản pháp lý chồng chéo, lạc hậu, thiếu
đồng bộ. Hệ thống cơ quan QLNN về lĩnh vực này còn nhiều bất cập. Khi thực hiện giao
dịch BĐS chính thức còn gặp nhiều khó khăn do thủ tục rườm rà và chi phí cao. Thông tin thị
trường bất đối xứng nên thường gây ra "cơn sốt" về nhà, đất. Các đơn vị đầu tư kinh doanh
nhà, đất, BĐS trên địa bàn TP.HCM còn ít và yếu. Tất cả các tồn tại trên cho thấy cần có bàn
tay "hữu hình" của Nhà nước để "nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế", "Hình thành và phát
triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật"
như Văn kiện Đại hội Đảng IX đã chỉ rõ [20, tr. 32; 101], từ đó tạo điều kiện cho TTBĐS
cũng như kinh tế thị trường TP.HCM phát triển bền vững. Với lý do đó, tác giả chọn đề
tài: " Quản lý nhà nước đối với thị trường bất động sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh " để làm luận văn Thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi kinh tế thị trường được hình thành và phát triển ở nước ta, Đảng và Nhà
nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về vấn đề đất đai, BĐS, đồng thời cũng có nhiều
nhà khoa học và các cơ QLNN nghiên cứu về TTBĐS. Trong đó, một số công trình tiêu
biểu liên quan tới đề tài như:
- Sách chuyên khảo: "Thị trường bất động sản những vấn đề lý luận và thực tiễn
ở Việt Nam" của PGS.TS Thái Bá Cẩn, ThS. Trần Nguyên Nam,
Nxb Tài chính, Hà Nội, năm 2003.
- Đề án: "Hình thành và phát triển thị trường bất động sản Việt Nam" của Viện
Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, năm 2001.

- Đề tài cấp bộ: "Cơ sở khoa học và giải pháp hình thành thị trường bất động sản
ở Việt Nam", Cục Công sản, Bộ Tài chính, năm 2000.
Nhìn chung, các công trình trên đã tập trung giải quyết các vấn đề chủ trương,
chính sách ở tầm vĩ mô về lĩnh vực BĐS trên phạm vi toàn quốc. Thêm vào đó, những
công trình này chủ yếu nghiên cứu về TTBĐS, chứ chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ
thống về QLNN đối với loại thị trường quan trọng này. Đối với TP.HCM, hiện chưa có
công trình nào trực tiếp nghiên cứu về sự tác động của QLNN đối với sự hình thành, hoạt
động và phát triển của TTBĐS một cách đầy đủ, có hệ thống từ lý luận đến thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn của TTBĐS cũng như công tác QLNN đối với TTBĐS để từ đó tìm ra một số
giải pháp đổi mới, hoàn thiện công tác QLNN đối với thị trường này, nhằm thúc đẩy
TTBĐS phát triển lành mạnh, ổn định và góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội ở
TP.HCM. Ngoài ra, luận văn cũng góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của TTBĐS
và mối quan hệ giữa công tác QLNN với sự hình thành, phát triển TTBĐS trong nền kinh
tế thị trường.
Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là:
- Luận giải, làm rõ cơ sở lý luận về TTBĐS và QLNN đối với TTBĐS trong nền

kinh tế thị trường. Phân tích vai trò, chức năng và các nội dung QLNN đối với TTBĐS.
- Đánh giá đúng thực trạng QLNN đối với TTBĐS trên địa bàn TP.HCM.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp phù hợp nhằm đổi mới, hoàn thiện
công tác QLNN đối với TTBĐS tại TP.HCM trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là QLNN đối với TTBĐS, bao gồm từ thể chế,
chính sách, tổ chức quản lý, phương thức tác động của Nhà nước đối với TTBĐS. Đề tài
của luận văn là vấn đề mới, rất rộng và phức tạp; do khuôn khổ có hạn nên luận văn chỉ

tập trung làm rõ những nội dung cơ bản về TTBĐS đô thị, QLNN đối với TTBĐS trên
địa bàn TP.HCM và một số phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới, hoàn thiện công tác
này. Trong đó, luận văn chủ yếu nghiên cứu một số yếu tố BĐS đô thị gồm: nhà ở, đất ở,
chuyển quyền sử dụng đất, trong hai thị trường nhánh là thị trường nhà ở và thị trường
đất ở của TP.HCM.
Việc phân tích, đánh giá TTBĐS và QLNN đối với TTBĐS tại TP.HCM chủ yếu
tập trung vào giai đoạn sau khi thực hiện Luật Đất đai sửa đổi năm 1993 đến nay; từ đó
đề xuất một số giải pháp đổi mới trong lĩnh vực này tới năm 2010 ở TP.HCM.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước về vấn đề đất đai, BĐS, TTBĐS.
Trên cơ sở đó, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như tổng hợp, phân
tích; so sánh; kết hợp nghiên cứu lý luận với khảo sát thực tiễn; phương pháp lấy ý kiến
chuyên gia
6. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan tới hàng hóa bất động sản (HHBĐS),
TTBĐS và QLNN đối với thị trường này.
- Đánh giá đúng thực trạng TTBĐS và QLNN đối với TTBĐS trên địa bàn
TP.HCM.
- Trên cơ sở đó chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân, để từ đó đề xuất

một số phương hướng và giải pháp phù hợp nhằm tiếp tục đổi mới công tác QLNN đối
với TTBĐS TP.HCM những năm tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà
hoạch định, quản lý và điều hành chính sách của thành phố, các nhà nghiên cứu và những
người quan tâm tới TTBĐS cũng như công tác QLNN đối với thị trường này.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.

Chương 1
CƠ Sở Lý Luận Của Quản Lý Nhà Nước
Đối Với Thị Trường Bất Động Sản
TRONG CƠ Chế Thị Trường ở Việt NAM

1.1. Bất Động Sản Và Thị Trường Bất Động Sản
1.1.1. Bất động sản, hàng hóa bất động sản - đặc trưng cơ bản
a) Khái niệm bất động sản
Trong bất kỳ xã hội hay quốc gia nào, nguồn tài sản đều bao gồm các tài sản do
thiên nhiên "ban tặng" và tài sản do con người tạo ra qua các thế hệ. Các tài sản này là
một trong những đầu vào cơ bản của nền sản xuất hàng hóa. Trong quá trình sử dụng,
quản lý nguồn tài sản này người ta có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, tùy
theo nhu cầu sử dụng và quản lý. Hiện nay, ở hầu hết các quốc gia, người ta phân chia tài
sản thành hai loại: bất động sản và động sản. Động sản là những tài sản có thể di chuyển
dễ dàng còn BĐS được hiểu là loại tài sản không di dời được, hoặc rất khó di dời; đây là
bộ phận chủ yếu cấu thành tài sản cố định.
BĐS là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất xã hội, nó hình thành và
phát sinh trong quá trình tính toán chi phí sản xuất, hạch toán kinh tế nói chung. Như vậy,
tuy đây là phạm trù kinh tế xuất hiện từ lâu nhưng khái niệm về BĐS mới được sử dụng
chưa lâu và luôn phát triển, hoàn thiện, đặc biệt là ở Việt Nam. Theo Điều 181, Bộ luật

Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 thì BĐS là các tài sản
không di, dời được, bao gồm:
- Đất đai;
- Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với
nhà ở, công trình xây dựng đó;
- Các tài sản khác gắn liền với đất đai;

- Các tài sản khác do pháp luật quy định.
Trong đời sống xã hội, mục đích sử dụng BĐS sẽ thay đổi theo sự biến đổi về
nhu cầu sử dụng của các chủ thể. Sự thay đổi này diễn ra thông qua hoạt động đầu tư của
chủ sở hữu, chủ sử dụng BĐS hoặc do hoạt động đầu tư của chủ thể đã được sang
nhượng lại quyền sử dụng, sở hữu BĐS. Hoạt động ấy đã biến đặc trưng "tĩnh" của BĐS
thành hàng hóa để có thể vận động trao đổi, giao dịch trên thị trường và hình thành đặc
trưng "động" của tài sản BĐS. Nó được biểu hiện qua việc chuyển đổi quyền sở hữu hay
quyền sử dụng giữa các chủ thể tham gia một thị trường đặc biệt: TTBĐS.
b) Hàng hóa bất động sản và những đặc trưng cơ bản
Không phải mọi BĐS đều có thể trở thành hàng hóa bất động sản (HHBĐS). Do
vậy, chỉ một số BĐS có thể trở thành hàng hóa và điều kiện trở thành hàng hóa là BĐS
phải có khả năng giao dịch trên thị trường và không bị pháp luật cấm. ở nước ta, HHBĐS
gồm quyền sử dụng đất, nhà ở, các công trình kiến trúc và các tài sản khác theo luật định.
Tuy nhiên, luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu hai loại HHBĐS ở đô thị là quyền sử dụng đất ở
và nhà ở và hai loại thị trường mà chúng tạo ra là thị trường quyền sử dụng đất và thị
trường nhà ở đô thị.
Hàng hóa bất động sản có những đặc trưng sau:
Một là, HHBĐS không thể di dời được hoặc rất khó di dời. Đặc điểm này là do
BĐS luôn gắn liền với đất đai, với một điểm cố định trong không gian và với địa kinh tế,
địa chính trị xác định. Mặt khác, đất đai là nguồn tài nguyên bị giới hạn về không gian,
diện tích đất của một quốc gia thường rất khó thay đổi nên nguồn cung HHBĐS bị hạn
chế. Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn tới cung, cầu, giao dịch và giá cả của TTBĐS. Giá trị
của HHBĐS xây dựng trên đất trước hết là giá trị sử dụng của các công trình xây dựng đó.

Song, do giá trị sử dụng và giá trị các công trình nhà ở, nhà làm việc, vật kiến trúc trong
kinh tế thị trường còn phụ thuộc vào các lợi thế về vị trí địa kinh tế, địa chính trị của thửa
đất xây dựng công trình đó, cho nên xuất hiện tình trạng cùng những công trình như nhau
nhưng giá trị của các HHBĐS này lại có sự chênh lệch rất lớn nếu có vị trí địa lý thuận
lợi khác nhau. Đây là điều thể hiện tính vị trí, tính cá biệt và tính khan hiếm của BĐS mà

cả người mua, người bán loại hàng hóa này đều chấp nhận trong giá cả giao dịch. Ngoài
ra, HHBĐS do không di dời được nên khi giao dịch trên thị trường nó thường được thể
hiện qua các bộ hồ sơ hiện trạng. Bộ hồ sơ này mô tả vị trí, diện tích, biểu hiện sự thay
đổi chủ sử dụng, sự biến động về diện tích, biểu hiện nghĩa vụ đóng thuế, lệ phí , đây có
thể nói là đối tượng giao dịch của TTBĐS, "thay mặt" cho HHBĐS. Tuy nhiên, không
phải HHBĐS nào cũng có đầy đủ giấy tờ hợp lệ, nhưng do nhu cầu người ta vẫn mua bán
nên dễ tạo thành TTBĐS phi chính quy đầy phức tạp và bất trắc.
Hai là, HHBĐS thường có giá trị lớn và ít mất giá. HHBĐS giao dịch ở nước ta
hiện nay chủ yếu là đất đai, nhà ở. Những loại hàng hóa này có giá trị lớn và rất ít mất giá
do chúng là một loại tài sản hữu hạn, rất hữu ích nên mọi người thường có xu hướng tích
trữ và đầu cơ BĐS. Do đó, TTBĐS dễ bị méo mó và biến động bất thường tác động tới
các giao dịch trên TTBĐS. Đặc điểm này làm cho TTBĐS có tính kinh tế - xã hội sâu
sắc, có thể gây khủng hoảng kinh tế, bất ổn chính trị và rối ren xã hội.
Ba là, HHBĐS chịu sự chi phối mạnh mẽ của pháp luật và cơ chế, chính sách của
Nhà nước. HHBĐS được hình thành từ tài nguyên đất - là hàng hóa đặc biệt và là nguồn
lực lớn để phát triển đất nước, mà Nhà nước lại can thiệp rất nhiều vào các khâu như:
công tác quy hoạch, kế hoạch (sử dụng đất, phát triển đô thị, phát triển cơ sở hạ tầng kinh
tế - kỹ thuật, khu dân cư, khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX), khu công nghệ
cao (KCNC)…), trong việc xác lập quyền và bảo vệ quyền sở hữu tài sản BĐS… Những
tác động này làm cho TTBĐS là một trong những thị trường "không hoàn hảo" khá điển
hình.
Bốn là, HHBĐS chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố tập quán, thị hiếu, tâm lý xã hội
và của các BĐS liên quan. Các yếu tố này thường ảnh hưởng mạnh đến HHBĐS, TTBĐS
hơn là các hàng hóa và thị trường thông thường khác. Thật vậy, nhu cầu và các quan hệ

mua bán BĐS chịu tác động lớn từ các yếu tố thị hiếu, tập quán sinh sống (nếu người dân
kiếm sống bằng buôn bán nhỏ thì đất đai, nhà cửa mặt đường sẽ có giá, nếu họ sống theo
lối sống công nghiệp thì các căn hộ hiện đại, các biệt thự, ngôi nhà tiện nghi sẽ có ưu
thế…), các yếu tố tâm lý xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo cũng chi phối mạnh mẽ lĩnh vực

này. Các yếu tố này làm cho TTBĐS dễ bị phân khúc; điều này làm cho hiệu quả của
TTBĐS giảm đi. Thêm nữa, các BĐS chịu sự ảnh hưởng lẫn nhau rất lớn, giá cả của
HHBĐS bị chi phối bởi BĐS khác. Điều này có thể minh chứng qua việc giá cả BĐS
tăng vọt khi Nhà nước hoặc các nhà đầu tư khác xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật
(đường sá, cầu…), hạ tầng xã hội (khu vui chơi, giải trí…) xung quanh nó.
Năm là, đất đai là bộ phận cơ bản nhất của BĐS được coi như hữu hạn và tự nó
không "sinh sôi" được. Đặc điểm này tác động đến yếu tố "cung" về đất đai và HHBĐS
nói chung. Tuy nhiên, khi đất đã được chuyển thành HHBĐS (nhà ở, quyền sử dụng
đất…) thì nó có khả năng sinh lợi dường như lâu dài qua "bàn tay" của người sử dụng
như C.Mác đã từng nói: "Tuy có những thuộc tính tự nhiên như nhau, nhưng một đám đất
được canh tác có giá trị lớn hơn một đám đất bỏ hoang" [33, tr. 248-249]. Theo xu hướng
tiến bộ của xã hội, càng ngày chúng ta càng tìm ra nhiều cách đầu tư, sử dụng đất đai có
hiệu quả hơn, do vậy HHBĐS có xu hướng tăng giá trị và đương nhiên giá cả sẽ được
kéo lên. Như vậy, đặc điểm này đã quy định: TTBĐS sẽ tự động điều tiết hành vi sử dụng
đất theo xu hướng từ hiệu quả thấp chuyển sang mức hiệu quả cao hơn.
1.1.2. Khái quát về thị trường bất động sản
1.1.2.1. Khái niệm và phân loại thị trường bất động sản
Trước hết, ta thấy thị trường được coi là tổng thể các quan hệ cung - cầu, quan hệ
mua bán hàng hóa, dịch vụ trên bình diện xã hội. Như vậy, nói đến thị trường là nói đến
cung - cầu, quan hệ mua bán, giá cả giữa người mua, người trung gian và người bán, giữa
người sản xuất và người tiêu dùng trên bình diện đủ rộng. Từ đây, ở góc độ mục đích thị
trường có thể khái quát chung nhất về TTBĐS như sau: Thị trường bất động sản được
hiểu là thị trường của các giao dịch dân sự về nhà ở, đất ở, các tài sản gắn liền với
chúng và các dịch vụ khác có liên quan giữa các chủ thể tham gia trên một địa bàn nào
đó, trong khoảng thời gian xác định.

TTBĐS có một số điểm đặc thù, xuất phát từ những đặc trưng của HHBĐS như
sau:

Một là, TTBĐS có tính địa phương, vùng miền rõ nét. Đặc trưng này xuất phát từ
tính cố định trong không gian của HHBĐS. Đất đai thường không thể di chuyển từ vùng
này sang vùng khác được. Do vậy, hoạt động của TTBĐS cũng mang tính địa phương sâu
sắc. Mặt khác, TTBĐS còn bị chi phối bởi trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
mật độ dân số và "sức cầu" về BĐS của từng địa bàn mà nó tồn tại. Thực tế cho thấy,
TTBĐS ở thủ đô, đô thị trung tâm về kinh tế, văn hóa - xã hội thường có quy mô và mức
độ phát triển cao hơn ở khu vực nông thôn hay đô thị bình thường khác.
Hai là, cung - cầu của TTBĐS rất nhạy cảm và dễ biến động. Do HHBĐS thường
có giá trị lớn, ít mất giá nên con người có xu hướng tích trữ và đầu cơ nó. Như vậy, cầu
về BĐS thường khá lớn, nhưng cung về HHBĐS lại có hạn và thay đổi chậm hơn, đường
cung này lại có độ dốc lớn. Kinh tế học cho thấy rằng, chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ
cung hay cầu về BĐS thì đều làm cho giá cả trên thị trường biến đổi rất lớn. Khi TTBĐS
mất ổn định sẽ làm nền kinh tế mất ổn định theo và có thể gây khủng hoảng kinh tế.
Ba là, TTBĐS bị chi phối rất lớn bởi pháp luật, cơ chế, chính sách của nhà nước
từ quy hoạch đất đai, quyền sử dụng, sở hữu đến các quy định về đăng ký, mua bán, thế
chấp, cầm cố,… những điều này làm cho TTBĐS kém hoàn hảo. Ngoài ra, TTBĐS còn
rất nhạy cảm và dễ bị tác động bởi các yếu tố xung quanh liên quan tới cung, cầu như
tình trạng khan hiếm đất đai, sự bất cập trong phân bố nguồn đất đai hạn chế, tình hình
kinh tế - xã hội biến động, lãi suất lên xuống…
Bốn là, TTBĐS dễ rơi vào tình trạng phân khúc cục bộ, bất hợp lý. Các tổ chức,
cá nhân, doanh nghiệp có nhu cầu tham gia vào TTBĐS làm cho cơ cấu cung - cầu rất đa
dạng. Đồng thời, cùng với nhiều chính sách, chế độ của Nhà nước áp dụng cho nhiều đối
tượng khác nhau nên TTBĐS rất dễ bị phân khúc. Thực tế cho thấy, nhiều thị trường nhà,
đất "cá biệt" thuận lợi cho sinh sống, kinh doanh có giá cả rất cao đã kéo theo sự "leo
thang" giá cả ở TTBĐS xung quanh và một số nơi khác. Do đó, nếu thiếu biện pháp điều
chỉnh và phối hợp đồng bộ sẽ tạo ra sự khác biệt bất hợp lý làm tốn chi phí và giảm hiệu
quả đầu tư xã hội cũng như hiệu quả của TTBĐS.

TTBĐS được phân loại theo một số tiêu chí như sau:

a) Theo loại hình BĐS, có các loại thị trường sau:
- Thị trường quyền sử dụng đất: nơi mua bán quyền sử dụng đất.
- Thị trường nhà ở: gồm thị trường mua bán nhà và cho thuê nhà.
- Thị trường các công trình, vật kiến trúc phục vụ cho các ngành sản xuất như
công nghiệp, thương mại, công cộng (sân bay, cảng, đường sá…).
b) Theo tính chất kinh doanh BĐS thì có:
- Thị trường mua bán BĐS: là nơi chuyển nhượng quyền sở hữu của các
HHBĐS.
- Thị trường cho thuê BĐS: là nơi cho phép chuyển quyền sử dụng BĐS có thời
hạn.
- Thị trường thế chấp BĐS: là nơi dùng quyền sử dụng hoặc sở hữu BĐS để thế
chấp đổi lấy một nguồn lực nào đó trong một thời gian nhất định.
c) Theo thứ tự thời gian mà BĐS gia nhập thị trường có:
- Thị trường sơ cấp (hay cấp 1) với các quan hệ về giao đất, cho thuê đất, chuyển
quyền sử dụng…, (hay còn gọi là thị trường về đất đai).
- Thị trường đầu tư tạo lập BĐS (hay thị trường cấp 2) với các quan hệ xung
quanh việc xây dựng công trình, vật kiến trúc.
- Thị trường thứ cấp (hay cấp 3) với các giao dịch chính là mua, bán, cho thuê,
cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng BĐS (đây có thể coi là thị trường nhà ở,
hay công trình cho công nghiệp, thương nghiệp…).
d) Theo tính chất giao dịch của thị trường có:
- TTBĐS theo nghĩa hẹp: chỉ gồm các giao dịch trực tiếp liên quan đến HHBĐS.
- TTBĐS theo nghĩa rộng: gồm các dịch vụ như cho vay, hỗ trợ đầu tư tạo lập
BĐS, tài chính BĐS…
e) Theo tính chất pháp lý trong hoạt động của thị trường có:

- TTBĐS chính quy: các giao dịch và quan hệ liên quan mua bán BĐS đều thực
hiện theo pháp luật và các văn bản luật định khác.

- TTBĐS phi chính quy (ngầm): các giao dịch thường là tự phát, "ngầm", không
theo quy định của pháp luật, trốn tránh các nghĩa vụ theo luật định, không tuân theo đầy
đủ các quy định của pháp luật.
1.1.2.2. Cơ chế vận động của thị trường bất động sản
TTBĐS là nơi diễn ra các quan hệ giao dịch về BĐS (gồm chuyển nhượng, cho thuê,
thế chấp BĐS và các dịch vụ hỗ trợ như môi giới, tư vấn giữa các chủ thể có liên quan
như người tạo lập BĐS, nhà nước, người bán BĐS, người có nhu cầu về BĐS, người môi
giới, tư vấn…), nên nguyên tắc vận động cơ bản của thị trường này gắn liền với sự vận
động của thị trường quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất. Đồng thời, hoạt
động TTBĐS diễn ra theo các cơ chế thị trường khách quan của nó gồm cơ chế cung -
cầu, cơ chế giá cả.
a) Cơ chế cung - cầu hàng hóa bất động sản
Cơ chế vận động của cung - cầu hàng hóa ảnh hưởng rất lớn đến TTBĐS. Cầu
HHBĐS được xác định từ nhu cầu sở hữu và sử dụng BĐS, nó có độ co giãn theo thu
nhập rất cao. HHBĐS có giá trị lớn và hiện nay ở nước ta được coi là lĩnh vực đầu tư an
toàn, hiệu quả hơn cả trái phiếu, cổ phiếu, vàng bạc đá quý,… nên người dân thường có
xu hướng đầu tư, đầu cơ nhiều vào BĐS. Mặt khác, ở nước ta nhu cầu mua, bán BĐS để
cải tạo điều kiện ăn ở (khá lụp xụp trong những năm bao cấp) là rất lớn. Do đó, có thể
thấy tổng cầu trong xã hội chúng ta là rất lớn.
Cung HHBĐS được xác định từ lượng hàng hóa sẵn sàng bán ra của người tạo lập
và kinh doanh BĐS. Tuy nhiên, do đất đai hữu hạn nên đã tác động đến nguồn cung BĐS bị
giới hạn. Kinh tế học đã xác định đường tổng cung về đất đai, BĐS trong ngắn hạn
dường như là một đường thẳng đứng (do diện tích đất đai là hữu hạn). Còn trong dài hạn,
nhìn chung cung - cầu HHBĐS đều là những đường cong có độ dốc lớn. Và từ đồ thị ta
thấy, do đường cung, cầu BĐS có độ dốc lớn nên chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ cung,

cầu thì giá cả thị trường sẽ biến đổi rất lớn.








Sơ đồ 1.1: Sự biến động của cung cầu trên thị trường BĐS
Khi cầu > cung thì khan hiếm HHBĐS và TTBĐS cũng như giá cả sẽ do bên
cung quyết định.
Khi cầu < cung thì dẫn tới dư thừa HHBĐS và TTBĐS sẽ do bên cầu quyết định.
Như vậy, trước hết các quan hệ giao dịch được thực hiện theo cơ chế điều tiết khách
quan hành vi của người mua, người bán trên thị trường theo yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội trong từng thời kỳ: cơ chế cung cầu HHBĐS. Thứ đến, để đảm bảo tính chất, giá trị
pháp lý quan hệ giao dịch phải theo các quy định trong cơ chế quản lý của Nhà nước đối
với lĩnh vực mua, bán HHBĐS.
b) Cơ chế giá cả trong thị trường bất động sản
Cơ chế giá cả HHBĐS - cũng như cơ chế giá cả của các loại hàng hóa khác - tác
động, điều tiết hành vi của chủ thể mua, bán khi tham gia TTBĐS và từ đó ảnh hưởng
đến quy mô hoạt động giao dịch trên TTBĐS. Giá cả trên TTBĐS phụ thuộc chủ yếu vào
cung cầu cũng như giá trị, giá trị sử dụng của HHBĐS. Khi cầu lớn hơn cung, giá cả BĐS
thường bị đẩy lên cao, ngược lại, khi cầu nhỏ hơn cung thì giá trên TTBĐS có xu hướng
giảm xuống.
Thật vậy, cơ chế giá cả hàng hóa trên TTBĐS phụ thuộc nhiều vào giá trị và giá
trị sử dụng của BĐS. Một thửa đất, một ngôi nhà được đầu tư, cải tạo hợp lý sẽ ngày càng
Giá

Số

ợng

Q
1


Q
2

P
1

P
2

S
1

S
2

S

D
2

D
1

M
ở rộng
quy
ho
ạch


Kh
ống chế
c
ấp giấy
phép


có giá. Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, người ta tìm ra được nhiều chức
năng sử dụng hợp lý, hiệu quả hơn cho đất đai, BĐS. Do đó, giá cả trên TTBĐS sẽ biến
động theo xu hướng này. Những khu đất, căn nhà ở trung tâm sầm uất, dễ buôn bán,
thuận lợi cho sinh sống sẽ có giá cả ngày càng tăng lên do giá trị gia tăng cả vô hình hoặc
hữu hình của chúng đem lại ngày càng lớn. Hơn nữa, do đất đai và nguồn cung hàng hoá
bị giới hạn nên những mảnh đất, tài sản trên đất sử dụng lãng phí, kém hiệu quả sẽ được
điều chỉnh theo hướng sử dụng hợp lý, hiệu quả hơn cho các chủ sử dụng. Như vậy,
TTBĐS dưới tác động của cơ chế giá cả sẽ vận động theo xu hướng sử dụng các nguồn
lực BĐS một cách hiệu quả và ích lợi hơn; hay có thể nói, khi TTBĐS vận động theo cơ
chế giá cả đã phân phối hợp lý các nguồn lực đất đai, BĐS. Từ những phân tích trên, có thể
thấy cơ chế giá cả HHBĐS đóng vai trò cơ chế điều tiết quy mô, hiệu quả hoạt động giao
dịch BĐS trên thị trường. Từ đó đóng vai trò điều tiết các hoạt động đầu tư BĐS và sử
dụng các nguồn lực cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Ngoài ra, trong giai đoạn hiện nay, trên thị trường có sự chuyển đổi rất nhanh, dễ
dàng giữa tiền tệ - vàng bạc đá quý - BĐS, do vậy các thị trường này vận động đều có
liên hệ mật thiết với nhau. Do đó, cơ chế vận động của TTBĐS sẽ chịu ảnh hưởng rất
nhiều từ các biến động của giá cả, cung, cầu thị trường tiền tệ, vàng bạc đá quý và một số
yếu tố xuất phát từ những khuyết tật của thị trường như "độc quyền", "đầu cơ", "cạnh
tranh không lành mạnh"
1.1.2.3. Vai trò của thị trường bất động sản đối với việc phát triển kinh tế - xã
hội
TTBĐS trong quá trình hoạt động đã tạo các tác động tích cực và tiêu cực đến
các nội dung phát triển kinh tế xã hội.

Trước hết, TTBĐS đã cùng với các thị trường khác như: vốn, sức lao động, khoa
học công nghệ, hàng hóa, dịch vụ… tạo thành một hệ thống các thị trường đồng bộ,
thống nhất. Đồng thời, TTBĐS cũng như các thị trường khác là một yếu tố cơ bản của
môi trường kinh doanh, là môi trường hoạt động của các chủ thể kinh doanh và cá nhân,
tổ chức trong xã hội. Do đó, sự phát triển TTBĐS sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự mở rộng,

phát triển các thị trường khác. Như vậy, hệ thống thị trường đồng bộ này sẽ tạo điều kiện
cho nền kinh tế phát triển năng động, hiệu quả.
Thứ hai, sự vận động của TTBĐS sẽ góp phần thúc đẩy phát triển các HHBĐS
và sử dụng nguồn tài nguyên đất đai, nhà ở vốn hữu hạn, khan hiếm hiện nay hiệu quả
hơn. Trong khi vận động theo cơ chế thị trường, giá cả sẽ hướng dẫn hành vi của người
mua và người bán. Cùng với các qui luật của thị trường, TTBĐS lành mạnh có thể kích
thích phát triển các loại HHBĐS và tự động điều tiết các chức năng sử dụng nhà đất có
giá trị kinh tế - xã hội thấp ra chỗ khác, dể dành chỗ cho chức năng sử dụng có giá trị
kinh tế, văn hóa - xã hội cao. TTBĐS tự động điều tiết, phân bổ vật tư, lao động, khoa
học kỹ thuật, vốn vào các khu vực cần thiết để phục vụ sự phát triển hàng hóa và thị
trường.
Thứ ba, cũng như các thị trường khác, TTBĐS có vai trò định hướng, dẫn dắt, điều
tiết hoạt động sản xuất xã hội. Thật vậy, TTBĐS trong khi vận động để thõa mãn cung,
cầu về BĐS hàng hóa cũng đồng thời là đòn bẩy kích thích sự phát triển khoa học, công
nghệ, kích thích sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, tăng cường trình độ
chuyên môn hóa trong cơ chế thị trường vì các doanh nghiệp chủ yếu lấy lợi nhuận làm
động lực để hành động. Điều này kéo theo việc đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường
xuyên cải tiến công nghệ quản lý, công nghệ sản xuất, hạ thấp chi phí, tăng khối lượng và
chất lượng cho BĐS hàng hóa phục vụ nhu cầu của dân cư, các tổ chức kinh tế cho xã
hội.
Thứ tư, sự vận động của TTBĐS tác động mạnh đến sự ổn định xã hội. TTBĐS
nói chung, nhất là thị trường đất đai luôn gắn chặt với chế độ, chính sách đất đai của Đảng và
Nhà nước. Khi TTBĐS phát triển lành mạnh, ổn định tức là chính sách đất đai phù hợp, kinh
tế vĩ mô ổn định. Khi TTBĐS "đóng băng" hoặc hoạt động lộn xộn, phi chính quy, giá cả

biến động thất thường, nhiều người đầu cơ "bóp méo" giá cả, lũng đoạn thị trường,… sẽ ảnh
hưởng trực tiếp và mạnh mẽ vào các hoạt động xã hội, gây bất an trong tư tưởng xã hội, làm
tăng sự hoài nghi của nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Mặt khác, do đất đai, BĐS luôn gắn bó chặt chẽ với các hoạt động sản xuất và sinh sống của

con người nên tình trạng trên làm phát sinh nhiều tiêu cực, giảm hiệu quả của TTBĐS, làm
xã hội thiếu ổn định và có thể gây khủng hoảng kinh tế.
Mặt khác, trong quá trình vận động của mình, TTBĐS cũng để lại một số tác
động tiêu cực như sau:
Một là, TTBĐS thường có những biến động lớn gây hậu quả tiêu cực về mặt xã
hội. Từ đặc điểm của cung cầu BĐS là rất dễ biến động nên chỉ cần thay đổi một lượng
cung cầu vừa đủ là giá cả thị trường có thể tăng vọt hoặc giảm xuống nhanh chóng. Điều
này có thể gây ra "cơn sốt" hoặc "đóng băng" cho TTBĐS và từ đó sẽ tác động liên đới
đến thị trường tài chính, lao động,… thậm chí có thể gây xáo trộn lớn cho nền kinh tế.
Thật vậy, khi TTBĐS "đóng băng" là dấu hiệu cho một nền kinh tế đang bị ứ đọng vốn
lớn, đình trệ và cần "hâm nóng". Mặt khác, khi TTBĐS phát triển quá "nóng", sẽ là tín hiệu
của một nền kinh tế "bong bóng" không bền vững có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. TTBĐS ở
Nhật Bản và Hàn Quốc thời gian gần đây có thể minh chứng cho điều này.
Hai là, TTBĐS chứa đựng yếu tố "đầu cơ" rất lớn gây bất công trong xã hội. Đất
đai, BĐS thường có giá trị lớn và giữ giá lâu nên khi công tác QLNN đối với TTBĐS còn
nhiều yếu kém, bất cập sẽ tạo nhiều điều kiện cho một số người đầu cơ, găm giữ BĐS
nhằm "bóp méo" giá cả và lũng đoạn thị trường. Đi cùng tình trạng này là hiện tượng tiêu
cực, tham nhũng, rửa tiền của một bộ phận cán bộ quản lý lĩnh vực BĐS và một số kẻ
làm ăn phi pháp. Hậu quả của tình trạng này là một số cá nhân, tổ chức giàu lên nhanh
chóng, còn đa số người dân do thiếu thông tin sẽ bị lừa đảo, bần cùng hóa và gặp khó khăn
về nhà ở. Tình trạng trên chỉ có lợi cho "kẻ đầu cơ" và cán bộ quản lý thoái hóa, biến chất
(họ có thể kiếm được bạc tỷ rất nhanh và dễ dàng), còn Nhà nước và đa số nhân dân bị
mất mát rất nhiều khi thị trường bị đầu cơ, bóp méo và lũng đoạn. Có thể nói, đây chính
là thị trường đang làm phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội mạnh nhất, rõ nhất
và có thể gây bất ổn cho xã hội.

1.2. Sự Cần Thiết Và chức năng, nhiệm vụ Quản Lý Nhà Nước Đối Với Thị
Trường Bất Động Sản

1.2.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với thị trường bất động sản ở
Việt Nam
TTBĐS ở nước ta mới hình thành hơn 10 năm nay, đã bước đầu phát huy tính
tích cực của nó, song vẫn đang ở trong giai đoạn sơ khai, tự phát và còn nhiều khuyết tật,
bất cập trong nội dung hoạt động của nó, cụ thể như sau:
Thứ nhất, hoạt động TTBĐS còn mang nặng tính tự phát, chưa được nhà nước
kiểm soát chặt chẽ đồng bộ, làm việc sử dụng đất đai và BĐS còn kém hiệu quả và lãng
phí. Hiện nay, hoạt động của TTBĐS phi chính quy nằm ngoài sự kiểm soát của các cơ
quan QLNN; nội dung quản lý thị trường chính quy còn rườm rà về thủ tục, hiệu lực các
văn bản pháp lý điều chỉnh thị trường chưa cao. Trong lúc đó, việc phát triển nhanh
chóng của các đô thị và tình trạng đầu cơ ồ ạt vào đất đai, BĐS đã làm cho một lượng lớn
BĐS bị "găm", giữ hoặc mua đi bán lại với mục đích đầu cơ, không được đưa vào sử dụng
phục vụ cho sự phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao điều kiện sống cho nhân dân.
Bên cạnh đó, việc sử dụng đất không đúng mục đích, xây dựng nhà không có giấy phép, tùy
tiện, không đúng quy hoạch, lấn chiếm đất đai,… là khá phổ biến, ảnh hưởng nhiều tới
quy hoạch phát triển và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ đó làm hiệu
quả sử dụng HHBĐS giảm sút.
Thứ hai, do các chủ thể tham gia TTBĐS hầu hết chỉ quan tâm tới lợi nhuận nên
nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc, phức tạp như: tranh chấp, khiếu kiện, lừa đảo,… về
đất đai. Công tác QLNN yếu kém nên dẫn tới tranh chấp khiếu kiện lâu dài, phép nước
không nghiêm; giá cả BĐS biến động khôn lường làm cho một số người đầu cơ và đội
ngũ "cò" BĐS, thậm chí một số công chức ngành địa chính nhà đất giàu nên nhanh chóng
do kiếm được các khoản lợi "bất minh". Mặt khác, đại bộ phận công chức thu nhập thấp
cùng công nhân lao động bình thường với đồng lương ít ỏi rất khó có điều kiện cải thiện
chỗ ở. Từ đây, tạo sự phân hóa xã hội và tạo ra bất bình đẳng lớn trong xã hội. Các hiện
tượng tiêu cực, tham nhũng đang xảy ra nhiều trong lĩnh vực đất đai, gây nhức nhối cho
xã hội; các khâu như giao đất, định và thẩm định giá đất, cho thuê đất, xử lý lấn chiếm

đất đều tạo ra những kẽ hở và tạo điều kiện cho tiêu cực phát sinh, hoành hành làm mất

uy tín đội ngũ cán bộ QLNN và bộ máy nhà nước cũng như đường lối lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Thứ ba, quy mô TTBĐS không chính thức quá lớn và hoạt động của nó vượt tầm
kiểm soát của Nhà nước đã làm thất thoát nguồn thu cho ngân sách, phân tán nguồn lực
tài chính, giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế và sự phát triển đồng bộ hệ thống thị
trường. Hiện tại, lượng qua hệ giao dịch trên TTBĐS phi chính quy ước tính chiếm tỷ
trọng khoảng 70-80% thị phần. Lượng giao dịch này quá lớn, không đăng ký với các cơ
quan QLNN có thẩm quyền nên không thể động viên các nguồn thuế, lệ phí, phí cho ngân
sách nhà nước, gây thất thoát lớn cho nền kinh tế. Ngoài ra, các giao dịch phi chính quy
này bị tác động bởi các nhu cầu ảo từ việc đầu cơ BĐS nên đã tạo ra "giá ảo" biến động
khôn lường và luôn ở mức rất cao. Giá này không được hình thành trên cơ sở các chỉ số
kinh tế, các chi phí hiện thực và thu nhập bình quân của đại đa số nhân dân mà nó được
"nhào nặn" qua thị trường phi chính quy với đội ngũ "cò" và "các ý tưởng đầu cơ" BĐS
nên giá rất xa thực tế. Từ đó tạo sức ép lớn đối với chi ngân sách phục vụ đền bù giải tỏa,
giải phóng mặt bằng hoặc chi cho các đối tượng chính sách, đối tượng có thu nhập thấp
để thuê hoặc mua nhà. Tình trạng này diễn ra khá phổ biến, gây nhiều bức xúc cho kinh
tế xã hội và sự phát triển của đất nước; gây khiếu kiện kéo dài và tạo hố ngăn cách rộng
hơn giữa giàu và nghèo. Tình trạng này còn tạo trạng thái "đóng băng" của thị trường
HHBĐS, dẫn đến ứ đọng vốn, hiệu quả đầu tư xã hội không cao làm giảm năng lực và
sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Ngoài ra, với vai trò là một trong những thị trường đầu vào quan trọng của nền
kinh tế, khi các động thái tiêu cực của TTBĐS tăng lên thì sẽ ảnh hưởng xấu đến các thị
trường khác như thị trường vốn (hay còn gọi là thị trường chứng khoán), thị trường khoa
học công nghệ, thị trường lao động, thị trường hàng hóa dịch vụ tiêu dùng,… và các hiệu
ứng liên thông này nếu không kiểm soát được sẽ gây hậu quả khôn lường cho nền kinh
tế, cho sự tăng trưởng, phát triển, tiến bộ xã hội, cho khả năng cạnh tranh của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Các khuyết tật trên đây của TTBĐS cần được sửa chữa, điều chỉnh để giảm các


hậu quả tiêu cực của thị trường gây ra và từ đó phát huy tác động tích cực của nó trong
quá trình phát triển. Song, TTBĐS với cơ chế hoạt động của nó không thể chủ động giải
quyết được những vấn đề thuộc bản chất vốn có của nó như: tính tự phát trong phát triển
quy mô cung, cầu HHBĐS, mục đích tối đa hóa lợi nhuận và các thủ đoạn cạnh tranh
không hợp pháp tạo nên trạng thái "ảo" cho các quan hệ thị trường v.v Chính điều này
đã dẫn đến một yêu cầu tất yếu: quá trình hoạt động của TTBĐS cần có sự can thiệp của
Nhà nước như bao thị trường khác vào các nội dung, quan hệ cơ bản của thị trường như
cung cầu, giá cả, phân phối lợi nhuận, cạnh tranh…
Như vậy, trong quá trình vận động của thị trường HHBĐS, nhà nước không đứng
ngoài mà ngược lại, hoạt động quản lý của nhà nước trở thành một bộ phận, một nội dung
không thể thiếu để tạo nên cơ chế vận động hoàn hảo của TTBĐS theo yêu cầu phát triển
của nền kinh tế trong từng thời kỳ. Những hoạt động quản lý của nhà nước cần được cụ
thể hóa về mức độ, tính chất, mục đích can thiệp và điều này được thực hiện qua việc xác
định chức năng, nội dung, công cụ quản lý, can thiệp của nhà nước đối với quá trình hoạt
động của TTBĐS.
1.2.2. Chức năng và nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với TTBĐS
Các nội dung này của quản lý được cụ thể hóa từ các chức năng quản lý của nhà
nước đối với TTBĐS. Xuất phát từ hai chức năng cơ bản: chức năng điều khiển và chức
năng phát triển, thì QLNN đối với TTBĐS được hiểu là những công việc định hướng, điều
tiết, kiểm soát cơ bản của nhà nước trong việc thực hiện sự can thiệp của mình vào quá
trình vận động của TTBĐS. TTBĐS gồm có hàng hóa, các chủ thể tham gia và phương
thức giao dịch BĐS. Do đó, QLNN đối với TTBĐS cần đảm bảo các chức năng và nhiệm
vụ sau:
Một là, Nhà nước tạo lập môi trường thuận lợi, định hướng và hỗ trợ phát triển
cho TTBĐS. Để thực hiện được nội dung này, Nhà nước phải tạo được các điều kiện cần
thiết để thị trường phát huy được vai trò trong việc phân bổ hiệu quả, hợp lý nguồn lực
đất đai và đáp ứng các nhu cầu về HHBĐS với giá cả phù hợp, chi phí giao dịch thấp. Do
đó, Nhà nước cần tạo lập môi trường pháp lý, môi trường xã hội, môi trường tài chính -


tín dụng, đầu tư cho nhà cung cấp HHBĐS, người mua hàng hóa và các nhà môi giới,
cung cấp dịch vụ trung gian tham gia hoạt động trên thị trường.
Việc tạo lập môi trường này vừa có tác dụng định hướng, dẫn dắt vừa đảm bảo
hoạt động quản lý của các cơ quan QLNN có liên quan đến quá trình giao dịch HHBĐS
trên thị trường. Trong nội dung này, quan trọng nhất là việc xây dựng khung khổ pháp lý
cho TTBĐS hoạt động ổn định và lành mạnh. Các văn bản pháp quy và hệ thống pháp
luật nói chung đều giữ vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ nảy sinh
trong TTBĐS. Các văn bản pháp quy về đất đai, BĐS có đặc thù là điều chỉnh các quan
hệ pháp luật về nhà đất, BĐS - một loại hàng hóa đặc biệt - nên có thêm những đặc điểm
riêng khác nữa. Điều này thể hiện qua việc pháp luật về đất đai, BĐS có ảnh hưởng rất
lớn đến TTBĐS, ảnh hưởng tới điều tiết và quản lý thị trường thông qua việc tác động vào
các nguồn cung và cầu trên thị trường. Nhà nước cũng cần phải xây dựng hệ thống thông
tin BĐS công khai, minh bạch và quy chế tổ chức, hoạt động của các doanh nghiệp, tổ
chức kinh doanh, hỗ trợ giao dịch HHBĐS.
Mặt khác, Nhà nước cần làm cho các tác động định hướng, hỗ trợ của mình phù
hợp với các quy luật thị trường, tạo điều kiện cho cạnh tranh tự do, lành mạnh và bình
đẳng.
Hai là, Nhà nước thực hiện việc điều tiết, điều chỉnh đối với TTBĐS. Nhà nước
ngoài việc tạo môi trường và hỗ trợ phát triển TTBĐS còn cần phải có các chính sách,
công cụ, biện pháp điều tiết, can thiệp hợp lý nhằm làm giảm các tiêu cực, khuyết tật của
thị trường; sử dụng thị trường để phục vụ các chính sách xã hội của mình. Sự điều tiết
trước hết để TTBĐS hoạt động ổn định, lành mạnh và tránh hiện tượng "sốt giá" cũng như
"đóng băng" thị trường. Thứ hai, sự điều chỉnh này nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ giao dịch BĐS, ví dụ như: việc đóng thuế, phí,
lệ phí, thực hiện quy hoạch, kế hoạch về đất đai, BĐS… Thứ ba, thực hiện sự điều chỉnh
nhằm đảm bảo công bằng xã hội, có chính sách hỗ trợ hợp lý cho các đối tượng chính
sách, người có công, người nghèo, người thu nhập thấp… Như vậy, việc điều tiết, điều
chỉnh của Nhà nước phải hướng vào các khâu: tạo lập HHBĐS, phương thức giao dịch

trên thị trường cũng như các chủ thể tham gia TTBĐS. Việc can thiệp, điều tiết kịp thời

của Nhà nước sẽ làm giảm thiểu sự xuất hiện các "quan hệ ảo" gây méo mó và bất ổn cho
thị trường như: cung, cầu giả tạo, giá cả "bong bóng",…
Ngoài các biện pháp can thiệp trực tiếp như trên, Nhà nước còn dùng các công cụ
tài chính để tác động vào TTBĐS. Nhà nước có thể dùng công cụ lãi suất, hoặc chính
sách hỗ trợ đầu tư để làm giảm cơn "sốt nóng" hoặc sự "đóng băng" của TTBĐS.
Cuối cùng, trong những trường hợp cần thiết, Nhà nước còn sử dụng cả các biện
pháp hành chính để ổn định thị trường này. Tuy nhiên, Nhà nước cũng cần thận trọng
trong tất cả các biện pháp can thiệp đó, tránh can thiệp quá "thô bạo" vào TTBĐS.
Ba là, Nhà nước thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động của TTBĐS.
Trước hết, Nhà nước phải luôn kiểm tra việc thực hiện và triển khai các chính sách, pháp luật
về đất đai và BĐS trong cả ba thành tố của thị trường: hàng hóa, chủ thể và phương thức
giao dịch. Chức năng, nhiệm vụ này giúp Nhà nước luôn có thể kiểm soát và "dẫn dắt"
TTBĐS hoạt động và phát triển đúng hướng. Các phương thức giao dịch trên TTBĐS luôn
diễn ra đa dạng, phong phú nên việc kiểm tra thường xuyên hoạt động này thì Nhà nước mới
nắm bắt được và "uốn nắn" chúng kịp thời theo quỹ đạo hợp pháp. Cuối cùng, Nhà nước
phải kiểm soát điều kiện và hoạt động của các chủ thể tham gia TTBĐS. Phải kiểm tra được
"tư cách" tham gia thị trường, ví dụ như điều kiện đăng ký hoạt động của các doanh nghiệp
kinh doanh, tư vấn, môi giới BĐS,… Cần kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp, đơn
vị, tổ chức, cá nhân tham gia thị trường với vai trò là nhà cung cấp, nhà trung gian trong
giao dịch HHBĐS; kiểm tra mục đích, cách thức sử dụng của chủ sử dụng HHBĐS xem
có phù hợp với quy hoạch, kế hoạch mà Nhà nước đã phê duyệt. Ngoài ra, cần kiểm tra
hoạt động của các cơ quan quản lý theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền đã quy định.
Bốn là, Nhà nước phải thành lập hệ thống cơ quan quản lý chuyên trách các cấp
đối với TTBĐS và xây dựng cơ chế vận hành của chúng. Nhà nước thực hiện các tác
động định hướng, điều chỉnh và giám sát của mình thông qua hệ thống cơ quan QLNN về
các lĩnh vực. Trong lĩnh vực quản lý TTBĐS cũng cần có những cơ quan chuyên trách.
Tuy vậy, cho tới nay chúng ta vẫn chưa có một cơ quan chịu trách nhiệm về QLNN đối

với TTBĐS, chứ chưa nói đến một hệ thống cơ quan quản lý chuyên trách về TTBĐS
thống nhất từ Trung ương xuống địa phương. Hiện nay, ở TP.HCM mới đang thí điểm

thành lập Ban Chỉ đạo quản lý và phát triển TTBĐS, đây có thể là hình mẫu để chúng ta
xây dựng cơ quan chuyên trách quản lý TTBĐS phù hợp và hiệu quả hơn. Thực ra hiện
nay, trong lĩnh vực BĐS, Nhà nước điều chỉnh, quản lý chủ yếu thông qua ba cơ quan là
Bộ Tài nguyên - Môi trường, Bộ Tài chính và Bộ Xây dựng. ở các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương thì có Sở Tài nguyên - Môi trường, Sở Tài chính - Vật giá, Sở Xây
dựng, Sở Quy hoạch kiến trúc (hoặc Văn phòng kiến trúc sư trưởng). Dưới các huyện,
quận thì có phòng quản lý nhà, phòng địa chính, tài nguyên môi trường, xây dựng và cấp
phường xã là các cán bộ địa chính, xây dựng và quản lý đô thị phụ trách công tác QLNN
đối với lĩnh vực đất đai, BĐS. Theo phân cấp, lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường chuyên
quản lý, cấp giấy chứng nhận sử dụng và xử lý tranh chấp về đất đai; lĩnh vực xây dựng
sẽ quản lý về nhà cửa, cấp phép và xử lý vi phạm về xây dựng, cấp giấy chứng nhận cho
nhà đất và nhà cửa có yếu tố nước ngoài; lĩnh vực tài chính chuyên quản lý khung giá nhà
đất và công sản; lĩnh vực quy hoạch - kiến trúc sẽ chịu trách nhiệm về quy hoạch không
gian, quy hoạch kiến trúc. Do đó, hiện nay cơ chế quản lý TTBĐS còn dàn trải, kém hiệu
quả, hiệu lực. Điều này cho thấy một nhu cầu cấp bách: xây dựng và hoàn thiện cơ quan
quản lý và phát triển TTBĐS ở nước ta.
1.2.3. Hệ thống công cụ để thực hiện các nội dung quản lý nhà nước đối với
thị trường bất động sản
1.2.3.1. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển đô thị và khu dân cư
Đây là công cụ thuộc nhóm hành chính - pháp lý, nó có ảnh hưởng lớn đến hoạt
động của TTBĐS cũng như xu hướng phát triển của thị trường này. Quy hoạch, kế hoạch
phát triển đô thị là công cụ quản lý quan trọng và là nội dung không thể thiếu được trong
công tác quản lý TTBĐS. Quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị và nhà ở đảm bảo cho sự
lãnh đạo quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với TTBĐS. Thông qua việc bố
trí, sắp xếp sử dụng các loại đất đai và nhà ở đã được phê duyệt và được thể hiện trên các
bản quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết, nhà nước sẽ kiểm soát được diễn biến về tình

hình đất đai và nhà ở. Từ đó, ngăn chặn được tình trạng sử dụng đất, nhà ở lãng phí, bừa
bãi, sử dụng không đúng mục đích và quy hoạch. Thông qua quy hoạch, bắt buộc các đối
tượng sử dụng đất đai, nhà ở chỉ được phép sử dụng trong phạm vi ranh giới của mình.

Điều này cho phép nhà nước có cơ sở để quản lý đất đai, nhà ở chắc chắn và trật tự hơn;
các vướng mắc, tranh chấp đất đai, nhà ở có cơ sở pháp lý để giải quyết tốt hơn, triệt để
hơn. Quy hoạch phát triển đô thị là căn cứ quan trọng cho việc xây dựng kế hoạch sử
dụng đất đai và xây dựng nhà ở. Với mọi loại quy hoạch từ giao thông, nhà ở, cây
xanh,… thì các mục tiêu, quan điểm và các chỉ tiêu tổng quát của nó đều phải được thể
hiện qua kế hoạch sử dụng đất đai, và chỉ qua kế hoạch sử dụng đất đai nó mới được xây
dựng trong thực tiễn. Như vậy, việc xây dựng kế hoạch phải dựa vào qui hoạch, qui
hoạch là căn cứ không thể thiếu của kế hoạch. Quy hoạch càng khoa học, càng chính xác
cụ thể bao nhiêu thì kế hoạch càng có điều kiện để thực hiện bấy nhiêu.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai và nhà ở tạo điều kiện cho việc tính thuế,
xác định giá cả các loại đất đai và nhà ở hợp lý hơn, chính xác hơn. Việc tính thuế, định
giá cả các loại đất đai, BĐS phải dựa vào việc đánh giá, phân hàng các loại đất đai nhà ở
và qui mô, phạm vi của chúng cho các đối tượng sử dụng. Những vấn đề, và thông tin
này đều được thể hiện trong các văn bản quy hoạch tổng thể và qui hoạch chi tiết. Như
vậy, việc quy hoạch đất đai, BĐS càng có cơ sở khoa học, thì việc tính thuế, định giá đất
đai, BĐS sẽ càng hợp lý và chính xác hơn. Để thực hiện tốt được vai trò, công cụ quy
hoạch phải bảo đảm cho các loại quy hoạch có tính thống nhất, tính đồng bộ, tính khoa
học và tính dự báo.
1.2.3.2. Công cụ kinh tế - tài chính
a) Định giá và khung giá nhà đất
Đây là công cụ quan trọng để quản lý và điều tiết TTBĐS trong giai đoạn đầu
như ở nước ta hiện nay. Giá cả trong TTBĐS không chỉ phụ thuộc vào quy luật cung cầu,
giá trị mà còn phụ thuộc vào cả xu hướng phát triển (định hướng đầu tư của nhà nước).
Chính vì vậy, chỉ có Nhà nước mới có khả năng định giá đất đai, nhà ở và đưa ra khung
giá làm cơ sở chung cho toàn xã hội. Cần phải khai thác triệt để khả năng này để quản lý

và điều tiết sâu sát, mạnh mẽ và có hiệu quả TTBĐS.
Định giá nhà đất là việc xác định giá trị nhà đất bằng tiền theo từng khoảng thời
gian, nhằm phục vụ cho việc tính thuế, xác định giá trị khi giao, cho thuê đất, là căn cứ để
đấu giá, đấu thầu nhà đất và bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất. Kết quả công tác định

giá nhà đất của nhà nước thể hiện qua việc ban hành các khung giá để điều chỉnh TTBĐS
cho từng khu vực và thời gian nhất định.
Việc xác định đúng đắn khung giá nhà, đất có ý nghĩa hết sức quan trọng để nhà
nước điều tiết lợi ích hợp lý giữa các tầng lớp nhân dân, bình ổn giá cả BĐS, đảm bảo công
bằng xã hội, tránh phân hóa giàu nghèo và khuyến khích sử dụng BĐS mang lại hiệu quả
kinh tế cao. Hiện nay, khung giá được coi là điểm mấu chốt của TTBĐS, nó sẽ là cơ sở
để ổn định và phát triển lành mạnh thị trường này. Khi có khung giá sát hợp với thực tế
thì nó sẽ là cơ sở cho các chủ thể thị trường tham gia giao dịch, tính thuế, chi phí, lệ
phí…, đồng thời góp phần giảm thiểu các rủi ro thị trường, đưa kinh tế - xã hội phát triển
bền vững. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý các hạn chế của công cụ này; đây là công cụ mang
tính hành chính khá cứng nhắc, vì vậy nếu nó không theo kịp được sự vận động của thị
trường thì nó sẽ trở nên rất hình thức, khó tuân thủ, có thể dẫn tới thị trường phi chính quy
làm cản trở sự phát triển thị trường và nền kinh tế.
b) Công cụ thuế và lãi suất
ở nước ta hiện nay, trong giao dịch HHBĐS đã có nhiều văn bản quy định về
thuế, phí, lệ phí điều chỉnh. Đây là các biện pháp của Nhà nước đưa ra, một mặt, nhằm bảo
đảm nguồn thu từ đất đai, BĐS cho ngân sách, mặt khác, cũng nhằm vào việc mở rộng thị
trường. Việc vừa khuyến khích TTBĐS phát triển, vừa đảm bảo nguồn đông viên từ thuế đòi
hỏi phải có hệ thống thuế khóa phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, chúng ta thực hiện chủ
trương này còn nhiều bất cập. Hiện nay, các loại thuế còn khá cao, như thuế chuyển quyền sử
dụng đất là 4%, lệ phí trước bạ là 1%, tổng cộng là 5% trên tổng giá trị là khá cao dẫn tới
việc không khuyến khích người mua và người bán đăng ký chuyển nhượng hợp pháp theo
quy định của nhà nước (họ thường mua bán trao tay, làm cho thị trường phi chính quy phát
triển mạnh). Đây chính là nguyên nhân làm thất thu cho ngân sách và góp phần gây khó

×