Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Một số đặc điểm về hình thái và sinh lý của học sinh trường tiểu học Xuân Hoà - thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.44 KB, 61 trang )

Khoa Sinh-

Tr•êng §HSP Hµ Néi

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề
tài
Nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hoá đất nước, một trong những nhiệm vụ quan trọng là xây dựng
nguồn lực mới tạo động lực cho sự phát triển, trong đó nhân lực đóng vai trò
quan trọng. Chính vì thế, việc đào tạo nguồn nhân lực mới có chất lượng cao
cho xã hội là một yêu cầu cấp thiết.
Sự nghiệp giáo dục với mục tiêu “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước, luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội. Giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu, khẳng định
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, toàn xã hội đặt nhiều kỳ vọng
vào sự phát triển của sự nghiệp giáo dục, vào việc đào tạo nguồn nhân lực trí
tuệ cho sự phát triển mạnh mẽ của đất nước. Việc đổi mới trong hệ thống giáo
dục các cấp hiện nay ở nước ta đang là mục tiêu của chiến lược phát triển đất
nước, trong đó giáo dục tiểu học một bậc học nền tảng của giáo dục phổ thông
trong hệ thống giáo dục quốc dân có ý nghĩa rất quan trọng.
Sự phát triển hình thái cơ thể, sinh lý nói chung và phát triển trí tuệ nói
riêng của trẻ là nền tảng cho sự phát triển năng lực trí tuệ sau này của chúng.
Do đó lĩnh vực này cần được quan tâm nghiên cứu một cách cơ bản để quá
trình phát triển của nó đạt tối ưu. Vì vậy, việc đổi mới giáo dục phổ thông nói
chung và giáo dục bậc tiểu học nói riêng không chỉ là quan tâm đổi mới về
nội dung, chương trình, sách giáo khoa, đổi mới phương pháp, trang thiết bị
dạy học hiện đại mà còn quan tâm đến việc nghiên cứu những đặc điểm sinh
học theo lứa tuổi và năng lực trí tuệ của học sinh, nhằm thích ứng với những
định hướng đổi mới kể trên.
GVHD: TSKH.Mai V¨n



1

SVTH: Hoµng ThÞ


Thực tế trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu
các chỉ số hình thái và sinh lý của trẻ em Việt Nam, chủ yếu là trên đối tượng
học sinh và đã trở thành vấn đề được nhiều người quan tâm, không chỉ đối với
các nhà sinh học mà còn đối với các nhà y học, tâm lý học - giáo dục học, xã
hội học và việc nghiên cứu được tiến hành theo các góc độ, phương pháp
nghiên cứu khác nhau. Kết quả các nghiên cứu đã cho ra một phổ thông tin
khá đa dạng về các lĩnh vực tâm lý- giáo dục, sinh lý trí tuệ, thể lực,… Mặc
dù vậy, ở nước ta việc nghiên cứu về các chỉ số sinh học và trí tuệ của học
sinh tiểu học ở các vùng miền khác nhau, đặc biệt là các địa phương vùng sâu,
vùng xa còn phiến diện và thiếu tính hệ thống. Điều này đã có những ảnh
hưởng nhất định đến sự phát triển đồng đều về giáo dục tiểu học giữa các
vùng miền trong toàn quốc.
Để tìm hiểu thực trạng, hình thái và các giá trí sinh lý chức năng một số
hệ cơ quan trong cơ thể người ở học sinh tiểu học, nhằm thực hiện tốt việc đổi
mới giáo dục hiện nay chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu " Một số đặc
điểm về hình thái và sinh lý của học sinh Trường Tiểu học Xuân Hòa- thị
xã Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc ".
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá thực trạng một số chỉ tiêu về hình thái, sinh lý và quy luật tăng
trưởng cơ thể của học sinh trường tiểu học Xuân Hòa- Phúc Yên- Vĩnh
Phúc.
- Các số liệu thu được qua nghiên cứu có thể sử dụng làm dữ liệu tham chiếu
trong giảng dạy y, sinh học trong nhà trường.
- Cung cấp các số liệu về một số chỉ số hình thái, sinh lý cơ bản, góp phần

xây dựng các chỉ số sinh học người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu sự tăng trưởng một số chỉ số về hình thái và thể lực của


trẻ em độ tuổi 6-10 Trường tiểu học Xuân Hòa- Phúc Yên- Vĩnh Phúc.
- So sánh một số chỉ số hình thái và thể lực của HS nam và HS nữ Trường
tiểu học Xuân Hòa- Phúc Yên- Vĩnh Phúc.
- Nghiên cứu sự thay đổi thời gian cảm giác – vận động của học sinh tiểu
học từ đó đề ra các phương pháp dạy học phù hợp với trí tuệ của học sinh tiểu
học.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Tìm hiểu ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, xã hội, thói quen sinh hoạt, môi
trường sống lên sự tăng trưởng cơ thể của học sinh tiểu học.
- Bước đầu đề xuất các biện pháp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho học sinh
tiểu học.
- Đưa ra một số ý kiến đóng góp cho sự phát triển năng lực trí tuệ đối với học
sinh tiểu học và đề ra các phương pháp dạy học mới phù hợp với trí tuệ của
các em.


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Hình thái và các chỉ tiêu đánh giá
Hình thái và thể lực là khái niệm phản ánh đặc điểm, cấu trúc tổng hợp
của cơ thể, có liên quan chặt chẽ tới sức lao động và thẩm mỹ của con người.
Sự phát triển hình thái gắn liền với sự vận động các hoạt động của con người.
Phản ánh mức độ phát triển tổng hợp của hệ thống cơ quan trong một cơ thể
hoàn chỉnh thống nhất.
Các chỉ tiêu về hình thái thể lực mang tính đặc thù về mặt giới tính,

chủng tộc, lứa tuổi, nghề nghiệp trong môi trường sống nhất định. Trong mối
quan hệ giữa môi trường và sức khoẻ các thông số hình thái thể lực được coi
là thước đo sức khoẻ, khả năng lao động và học tập của mỗi con người.
Nghiên cứu và ứng dụng các chỉ số hình thái, thể lực được phổ biến rộng rãi
trong các lĩnh vực như y học, thể thao, giáo dục...
Việc nghiên cứu hình thái thể lực ngày càng phát triển. Để đánh giá thể
lực người ta dùng các chỉ tiêu khác nhau, tùy vào mục đích nghiên cứu mà lựa
chọn các chỉ tiêu riêng. Các chỉ tiêu về hình thái, thể lực được lựa chọn trong
đề tài này là: chiều cao, trọng lượng, vòng ngực, BMI, Pignet.
1.1.1. Lược sử nghiên cứu về hình thái thể lực của trẻ em trên thế giới
Một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm khi nghiên cứu
con người là hình thái. Từ thế kỉ thứ XIII Tenon đã coi cân nặng là một chỉ số
quan trọng để đánh giá thể lực [22]. Sau này các nhà giải phẫu học kiêm học
sĩ thời phục hưng Leonard De Vinci, Mikenlangielo, Raphael... đã tìm hiểu rất
kỹ cấu trúc và mối tương quan giữa các bộ phận trong cơ thể người để đưa lên
tác phẩm hội họa. Mối quan hệ giữa hình thái và môi trường cũng đã được


nghiên cứu tương đối sớm mà đại diện là nhà nhân trắc học Ludman, Nold và
Volanski [5].


Những nghiên cứu về sự tăng trưởng và phát triển của trẻ em đầu tiên
vào khoảng giữa thế kỷ XVIII. Quyển sách đầu tiên về sự tăng trưởng chiều
dài ở người “Wachstum der ménchen in die Lange” của J.A.Stoeller được
xuất bản ở Magdeburg (Đức) vào năm 1729, trước khi có sách giáo khoa bệnh
học trẻ em của Rosen von Rosenstein (1753). Tuy nhiên, các nghiên cứu này
chưa có số liệu đo đạc cụ thể.
Nghiên cứu đầu tiên về sự tăng trưởng của trẻ em được trình bày trong
luận án tiến sĩ của Christian Friedrich Jumpert ở Halle (Đức) năm 1754.

Trong đó đã trình bày các số liệu đo đạc về cân nặng, chiều cao và các đại
lượng khác của một loạt trẻ trai và trẻ gái từ 1-25 tuổi tại các trại mồ côi
hoàng gia ở Berlin và một số nơi khác ở Đức. Đây là công trình được nghiên
cứu theo phương pháp cắt ngang (Cross- Sectional Study), là phương pháp
được dùng phổ biến do có ưu điểm là rẻ tiền, nhanh và thực hiện được trên
nhiều đối tượng cùng một lúc [5].
Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao được thực hiện bởi Philibert
Guéneau de Montbeilard ở con trai của mình từ năm 1759-1777. Trong 18
năm liên tục, mỗi năm được đo 2 lần cách nhau 6 tháng. Đây là một phương
pháp tốt nhất đã được ứng dụng cho đến nay. Từ đó Thompson đã đưa ra khái
niệm tốc độ tăng trưởng (growth velocity) vào trong nghiên cứu về tăng
trưởng(Auxology), cùng với 2 đại lượng khác của tăng trưởng là chiều cao và
cân nặng như là những chỉ tiêu về sức khỏe, đã được sử dụng trong các
nghiên cứu về tăng trưởng trước đó.
Năm 1892 Louis- Réné villermé (1782-1863) người sáng lập ra ngành
y tế cộng đồng ở Pháp đã đưa ra quan niệm tăng trưởng “Tăng trưởng là tấm
gương phản chiếu của điều kiện xã hội”. Một nghiên cứu tương tự theo
hướng sức khỏe công cộng đã đựợc Edewin Chadwick thực hiện ở Anh năm
1883, trong đó ông đã trình bày tầm vóc nhỏ bé ở trẻ em đang làm việc trong


các nhà máy dệt ở miền Bắc nước Anh và nêu lên cần phải cải cách xã hội,
cải thiện điều kiện và thời gian làm việc cho tốt hơn. Hướng nghiên cứu này
vẫn được tiếp tục cho đến nay và người ta sử dụng chiều cao của trẻ em và
người trưởng thành như một chỉ số để đánh giá tình trạng dinh dưỡng và xã
hội. Từ đó nêu lên quy luật tăng trưởng theo thời gian.
Nghiên cứu tăng trưởng cũng được sử dụng trong y tế học đường.
Nghiên cứu đầu tiên thực hiện ở Carlschule(Đức) từ 1772 -1794. Số lượng
học sinh được đo là 92 ở 8 tuổi, tăng lên 442 ở 15 tuổi và giảm xuống 155 ở
21 tuổi. Đây là một nghiên cứu dọc khá lớn.

1.1.2. Các nghiên cứu về hình thái và thể lực của trẻ em ở Việt Nam
Lịch sử nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ nhiều năm nên y tế
và giáo dục hạn chế, việc quan tâm chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân còn gặp
nhiều khó khăn.
Những nghiên cứu đầu tiên về chỉ số sinh học ở trẻ em được bắt đầu từ
những năm 1930 tại ban nhân trắc học thuộc viện Viễn Đông Bác Cổ .
Những kết quả nghiên cứu ở Việt Nam thời kỳ này được tiến hành hầu
như lẻ tẻ với những số liệu chưa được xử lý . Năm 1938 Bigot và Đỗ xuân
Hợp nghiên cứu trên 897 nữ sinh tuổi từ 5-18 tại Hà Nội. Kết quả này được
công bố trong 9 tập tạp chí “Các công trình nghiên cứu của viện giải phẫu học
trường đại học Y Khoa Đông Dương” [5].
Sau cách mạng tháng 8/1945 thành công và sau năm 1954 việc chăm
sóc sức khoẻ cho nhân dân miền bắc được quan tâm hơn. Từ khi thành lập bộ
môn nhân trắc học ở một số viện nghiên cứu và trường ĐH thì lúc này việc
điều tra đặc điểm hình thái sinh lý con người mới có điều kiện phát triển, làm
cơ sở cho giảng dạy và nghiên cứu bộ môn giải phẫu trong lĩnh vực y học ,sư
phạm…Những năm 60 trở đi các công trình điều tra cơ bản được tăng cường


về số lượng, quy mô và đạt được các kết quả đáng kể trên các đối tượng khác
nhau về lứa tuổi, giới tính và thành phần dân tộc [5].
Những năm 1967 và 1972 tiến hành hai hội nghị về nhân trắc học Việt
Nam là những sự kiện lớn trong ngành nhân trắc học. Tại đây, nhiều công
trình nghiên cứu được báo cáo thống kê và đã có nhiều kết luận quan trọng
cần thiết về chỉ số người Việt Nam lúc bấy giờ. Các công trình nghiên cứu đã
được ghi nhận và tập hợp lại trong cuốn sách “Hằng số sinh học Việt Nam”
làm cơ sở so sánh, đánh giá cho nhiều ngành nghiên cứu khác nhau. Cùng với
đó Nguyễn Quang Quyền cho xuất bản cuốn “Nhân trắc học và những ứng
dụng nghiên cứu trên cơ thể người Việt Nam”, được coi là cuốn sách đầu tay
cho những người nghiên cứu nhân trắc học ở Việt Nam [21].

Từ sau 1975 thì các công trình nghiên cứu về hình thái sinh lý người
Việt Nam được triển khai rộng rãi trên toàn quốc với những quy mô công
trình nghiên cứu khác nhau: 1975-1978 Trần Văn Dần, Nguyễn Xuân Côn,
nghiên cứu trên học sinh 15-18 tuổi ở một số vùng ở Hà Nội, Hải Phòng.
Phan Hồng Minh và cộng sự nghiên cứu trên học sinh 7-17 tuổi ở Hoàng Liên
Sơn, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Hậu Giang.
Năm 1980 Đoàn Yên và các cộng sự nghiên cứu chỉ số về chiều cao, cân
nặng người Việt Nam và đưa ra các nhận xét so sánh với các chỉ số khác.
Những năm 1986 Vũ Hưng và cộng sự biên soạn cuốn Atlat nhân trắc
học người Việt Nam trong lứa tuổi lao động.
Năm 1980-1990 Thẩm Thị Hoàng Điệp tiến hành nghiên cứu dọc trên
101 học sinh Hà Nội từ 16-17 tuổi và có nhận xét: chiều cao phát triển mạnh
nhất là lúc 11-12 tuổi ở nữ và 13-15 tuổi ở nam. Cân nặng phát triển mạnh
nhất lúc 13 tuổi ở nữ và 15 tuổi ở nam.
Dự án điều tra cơ bản về kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu
sinh học của người Việt Nam. Đã thống kê được nhiều nghiên cứu và so sánh


với Hằng số sinh học Việt Nam 1975 về các chỉ tiêu hình thái, sinh lý của
nhiều vùng khác nhau trong những năm 1990.
Trong những năm gần đây có nhiều nghiên cứu về hình thái thể lực của
người Việt Nam và đặc biệt là ở lứa tuổi học sinh. Các nghiên cứu như:
Nghiên cứu luận án thạc sỹ của Phó Thị Bích Hằng, nghiên cứu sự hiểu biết
một số kiến thức sức khoẻ sinh sản vị thành niên của học sinh dân tộc một số
trường nội trú tỉnh Sơn La. Luận án thạc sỹ của Nguyễn Thị Lan: nghiên cứu
một số chỉ tiêu về thể lực sinh lý tuổi dậy thì của các em gái, trai thuộc một
số dân tộc ít người tại Vĩnh Phúc-Phú Thọ…Các nghiên cứu cho thấy các em
ở thành phố, thị xã có tầm vóc thể lực phát triển hơn các em vùng nông thôn.
Đồng thời tuổi dậy thì của các em ngày càng đến sớm hơn. Ở nước ta trong
thời kì đổi mới, kinh tế có những bước phát triển nhảy vọt, đời sống nhân dân

ngày càng được nâng cao đồng thời dẫn đến sự khác biệt các chỉ số hình thái
sinh lý giữa nam và nữ, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền
núi là tương đối rõ rệt. Những nghiên cứu về các em lứa tuổi học sinh, những
chủ nhân tương lai của đất nước cần được thường xuyên và tiến hành sâu rộng
hơn. Chính những nghiên cứu này sẽ đóng góp cho y tế, giáo dục và đặt yêu
cầu cụ thể cho việc chăm sóc sức khoẻ phục vụ và nâng cao đời sống cho
nhân dân. Những công trình nghiên cứu sẽ là nguồn thông tin cho việc nâng
cao tầm vóc thể lực của học sinh, sinh viên, nguồn lực tương lai của đất nước.
1.2. Sinh lý và các chỉ tiêu đánh giá
1.2.1. Đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh tiểu học
Thế giới tâm lý của các em rất phong phú và đa dạng. Không thể coi trẻ
em là người lớn thu nhỏ, càng không thể coi chúng như tờ giấy trắng, một tấm
bảng sạch mà nhà sư phạm muốn vẽ lên đó cái gì cũng được. Trẻ em là trẻ
em, ở nó đã có những tiền đề xác định nào đó cho sự phát triển và có nhiều bí
ẩn đang chờ sự phát hiện của các hoạt động tư duy sư phạm, các tác động giáo


dục - đào tạo. Các hoạt động này làm bộc lộ những cái bí ẩn để cải tạo chúng
theo mục đích của mình [1].
Theo nguyên lý phát triển, sự hình thành- phát triển bao giờ cũng đi
theo qui luật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, có sự thay đổi về
lượng dẫn đến chất thay đổi, có sự đột biến để tạo ra chất mới bằng sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập. Sự phát triển đó diễn ra theo quy luật như sau [1]:
Đ Trẻ càng nhỏ, cường độ phát triển càng lớn, tốc độ phát triển
càng nhanh, sau đó yếu đi và chậm dần.
Đ Có sự phát triển không cân đối và không đồng đều giữa các yếu
tố trong cấu tạo tâm - sinh lý.
 Có nhiều biến động và rất nhanh chóng.
1.2.2. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi
Cơ thể của trẻ em là nền tảng vật chất của trí tuệ và tâm hồn, nền tảng

có vững thì trí tuệ và tình cảm mới có khả năng phát triển tốt „„thân thể khoẻ
mạnh thì chứa đựng một tinh thần sáng suốt’’, ngược lại „„tinh thần sáng suốt
thì cơ thể có điều kiện phát triển’’ [15].
Sự phát triển thể chất của học sinh tiểu học có những đặc điểm sau:
- Thể lực của các em phát triển tương đối êm ả, đồng đều. Chiều cao
mỗi năm tăng trên dưới 4cm, trọng lượng cơ thể tăng mỗi năm tăng trên dưới
2kg. Bộ xương đang ở giai đoạn cứng dần nhưng còn nhiều mô sụn. Vì thế,
cần quan tâm đến thế đi, đứng, ngồi, chạy, nhảy của các em để đề phòng
cong, vẹo, gẫy xương ở trẻ. Tránh để các em mang, xách những vật quá nặng,
tránh để các em viết lâu, làm những việc quá tỉ mỉ gây mệt mỏi cho các em
[2].
- Hệ thần kinh của học sinh tiểu học đang thời kỳ phát triển mạnh, bộ
não của các em phát triển về khối lượng, trọng lượng và cấu tạo. Đến 9-10
tuổi, hệ thần kinh của trẻ căn bản được hoàn thiện và chất lượng của nó sẽ


được giữ lại trong suốt đời người [7]. Khả năng kìm hãm (khả năng ức chế)
của hệ thần kinh còn yếu, trong khi đó bộ não và hệ thần kinh của các em
đang phát triển đi dần đến hoàn thiện nên các em dễ bị kích thích.
- Tim của các em đập nhanh (85 → 90 lần/phút) [7], mạch
máu tương
đối mở rộng, huyết áp động mạch thấp, hệ tuần hoàn chưa hoàn chỉnh, vì vậy
cần tránh gây cho các em những xúc động mạnh tiêu cực làm ảnh hưởng đến
hoạt động của các em.
1.2.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học
- Cảm giác
Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách riêng lẻ, từng
thuộc tính của sự vật và hiện tượng trong thực tại khách quan, khi chúng đang
trực tiếp tác động vào giác quan của ta. Ở con người, cảm giác là mức độ định
hướng sơ khai, đơn giản nhất mang bản chất xã hội- lịch sử, được phát triển

nhờ hoạt động - giao tiếp. Trong cơ chế sinh lý của nó, ngoài hệ thống tín
hiệu thứ nhất ra, còn có cả cơ chế thuộc hệ thống tín hiệu thứ hai. Cảm giác
đóng vai trò là cơ sở cho mọi hoạt động nhận thức của con người. Cảm giác
có các đặc điểm cơ bản như mang tính xã hội - lịch sử, có tính quá trình, phản
ánh một cách trực tiếp từng thuộc tính riêng rẽ của sự vật, hiện tượng. Ngôn
ngữ có tác dụng làm tăng hay giảm cảm giác [1].
- Tri giác
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc
tính bề ngoài của sự vật và hiện tượng trong thực tại khách quan khi chúng
đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta. Được hình thành trên cơ sở các
cảm giác, tri giác có những đặc điểm cơ bản như : tính trọn vẹn, tính kết cấu,
tính tích cực. Tri giác có vai trò tích cực trong việc điều chỉnh hành động của


con người. Có thể coi tri giác như một quá trình, một hành động hay một hoạt
động nhận thức [1].


Tri giác của học sinh tiểu học mang tính chất đại thể, ít đi sâu vào chi
tiết mang tính không chủ động. Do đó, các em phân biệt những đối tượng còn
chưa chính xác, dễ mắc sai lầm, có khi còn lẫn lộn. Thí dụ, không nên nghĩ
rằng học sinh tiểu học (lớp 1, lớp 2) chưa có khả năng phân tích, tách các dấu
hiệu, các chi tiết nhỏ của đối tượng nào đó. Vấn đề là ở chỗ khi tri giác, sự
phân tích một cách có tổ chức, và sâu sắc ở học sinh các lớp đầu bậc Tiểu học
còn yếu. Như vậy là học sinh thường “thâu tóm” sự vật về toàn bộ, về đại thể
để tri giác. Thí dụ: người ta cho các em xem một bức tranh vẽ con sóc rất đẹp,
sau khi cất bức tranh, yêu cầu các em vẽ lại thì các em không nhận thấy rất
nhiều chi tiết, các em hỏi nhau: con sóc lông màu gì? Có ria mép hay không?
Mắt nó thế nào? [7].
Ở các lớp đầu bậc tiểu học, tri giác của các em thường gắn với hành

động, với hoạt động thực tiễn của trẻ. Tri giác sự vật có nghĩa là phải làm gì
đó với sự vật: cầm, nắm, sờ mó sự vật ấy. Những gì phù hợp với nhu cầu của
học sinh, những gì giáo viên chỉ dẫn thì mới được các em tri giác. Vì thế,
trong giáo dục, nên vận dụng các điều sau đây:“ Trăm nghe không bằng một
thấy, trăm thấy không bằng một làm” [7].
Kỹ năng hoạt động nhận thức bước đầu được hình thành trong hoạt
động học tập. Hành động sư phạm của giáo viên giữ vai trò quyết định trong
việc thực hiện thao tác nhận thức của học sinh tiểu học. Năng lực nhận thức
của các em đang được phát triển thông qua quá trình giải quyết các nhiệm vụ
học tập. Đảm bảo được tính trực quan cũng như tính thẩm mỹ và có thái độ
cảm xúc tích cực khi thực thi các hoạt động dạy học sẽ là một điều kiện quan
trọng góp phần làm phát triển hoạt động nhận thức của học sinh tiểu học [1].
1.2.4. Một số nghiên cứu chỉ số sinh học phản xạ cảm giác- vận động
Người đầu tiên khai sinh ra khái niệm phản xạ là Đecac nhà triết học
kiêm tự nhiên học người Pháp (1640) [18]. Theo ông, phản xạ là phản ứng


của cơ thể đối với tác nhân kích thích tác động vào nó và do “linh khí” của
động vật gây ra, phản xạ là sự phản ánh của cảm giác thành vận động.
Cabanit (thế kỷ XVIII) cũng xác định vai trò của não đối với hoạt động
tư duy, nhưng quan niệm của ông rất đơn giản. Theo ông thì não tiêu hoá
cảm giác và bài tiết tư duy một cách hữu cơ. Tương tự như vậy, Vóc (thế kỷ
XVIII) cho rằng não tiết ra tư duy đại loại như gan tiết ra mật, thận tiết ra nước tiểu [14].
Như vậy trước thế kỷ XIX các tác giả tuy đã có những quan điểm duy
vật về thần kinh cấp cao nhưng quan điểm của họ còn mang tính chất chủ
quan và đơn giản.
Sechenov (1829-1905) [18] cho rằng việc hình thành phản xạ không chỉ
có sự tham gia của hưng phấn mà còn có sự tham gia của ức chế. Trong tác
phẩm nổi tiếng của mình “Các phản xạ của não” ông chỉ ra rằng “mọi biểu
hiện của hoạt động tinh thần, kể cả những dạng phức tạp nhất, nếu xét về mặt

bản chất thì đều là những phản xạ”.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Sechenov, Pavlov (1849-1936) đã
xây dựng lên học thuyết duy vật hoàn chỉnh về hoạt động thần kinh cấp cao
với cơ sở của các thực nghiệm sâu sắc. Ông là người khai sinh ra khái niệm
“Phản xạ có điều kiện” và coi nó là đơn vị cơ bản của hoạt động thần kinh cấp
cao ở động vật và người [18].
Nghiên cứu về phản xạ cảm giác - vận động trên người Việt Nam đã
được các nhà sinh lý học, y học và tâm lý học quan tâm [18]. Tuy nhiên do
phương pháp nghiên cứu không giống nhau nên kết quả thu được có sự khác
nhau [18].
Đỗ Công Huỳnh và cộng sự đã nghiên cứu thời gian phản xạ cảm giác vận động của thanh thiếu niên từ 6 đến 18 tuổi ở khu vực Nam, Bắc sân bay
Biên Hòa và xã Vạn Phúc Hà Đông. Ông cho thấy thời gian phản xạ cảm giác


- vận động giảm dần theo tuổi, càng lớn (không quá 18 tuổi) thời gian phản xạ
càng ngắn. Điều này, chứng tỏ qui trình xử lý thông tin ngày càng tốt hơn
theo lứa tuổi. Phương pháp đo của Đỗ Công Huỳnh do dựa vào kỹ thuật xử lý
trên máy vi tính, cho phép xác định chính xác thời gian phản xạ thị giác và
thính giác - vận động đã được nhiều tác giả sử dụng [17].
Năm 2000, Trần Trí Bảo đã xây dựng phương pháp xác định tốc độ xử
lý thông tin (R) trên cơ sở thời gian phản xạ thị giác - vận động và cho thấy R
bình thường là 3-5 bit/s.
Năm 2001, Nguyễn Thị Ngọc Thanh áp dụng phương pháp này để
nghiên cứu tốc độ xử lý thông tin của 806 học sinh cuối bậc Tiểu học ở Hà
Nội. Kết quả cho thấy, khả năng xử lý thông tin của những học sinh này
không cao, biểu hiện ở chỗ tốc độ xử lý thông tin và độ thông suốt thấp, điều
này phù hợp với thời gian phản xạ tương đối lớn ở lớp tiểu học trong các công
trình của Đỗ Công Huỳnh và cộng sự.
Nghiên cứu của Tạ Thuý Lan và cộng sự về thời gian phản xạ thị giác vận động và thính giác- vận động của học sinh- sinh viên từ 15 đến 21 tuổi
cho thấy, thời gian phản xạ thị giác- vận động và thính giác- vận động tăng

dần theo lứa tuổi và có liên quan đến giới tính, trong đó thời gian phản xạ ở
nữ dài hơn so với nam [13].
Trần Thị Loan [17] đã nghiên cứu thời gian phản xạ cảm giác- vận
động của học sinh phổ thông. Kết quả cho thấy thời gian phản xạ cảm giácvận động của nam và nữ biến động theo thời gian, giảm dần từ 6 đến 14 tuổi.
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Tạ Thuý Lan [13].


CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Học sinh độ tuổi từ 6 (học sinh lớp 1) đến 10 (học sinh lớp 5) có trạng
thái tâm lý và sức khoẻ bình thường, không có các dị tật về tai, mắt.
Tổng số đối tượng nghiên cứu là 300 học sinh, trong đó có 150 học
sinh nam và 150 học sinh nữ. Sự phân bố đối tượng nghiên cứu có thể thấy ở
bảng 1.
Bảng 1. Phân bố đối tƣợng nghiên cứu
Tuổi

Tổng số

Nam

Nữ

6

60

30

30


7

60

30

30

8

60

30

30

9

60

30

30

10

60

30


30

Tổng

300

150

150

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm.


Trường tiểu học Xuân Hòa, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.


Phòng thí nghiệm nhân học, Trung tâm nhân học và phát triển trí tuệ,
ĐHQGHN.
2.2.2. Thời gian.
Luận văn này được bắt đầu thực hiện từ tháng 5- 2009 đến tháng 52010.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Chọn mẫu nghiên cứu.
Mẫu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên trong nhóm học sinh có
độ tuổi từ 6 đến 10 ở các khối lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4, lớp 5 của trường tiểu
học Xuân Hòa, Thị xã Phúc Yên. Các chỉ số được nghiên cứu
* Các chỉ số hình thái thể lực: Chiều cao, cân năng, vòng ngực, BMI, pignet.
* Các chỉ số sinh lý: thời gian phản xạ thị giác-vận động và thính giác- vận
động.

2.3.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số.
2.3.2.1. Chỉ số hình thái
*Phương pháp đo chiều cao đứng:
Dùng thước Adam do Hàn Quốc sản xuất độ chính xác đến mm. Đo từ
gót chân sát mặt đất lên đỉnh đầu. Học sinh phải đứng ở tư thế nghiêm trên
nền phẳng, hai gót chân chạm vào nhau, hai tay buông thẳng, sao cho 4 điểm
chẩm, lưng, mông, gót chân chạm vào thước đo.
- Chiều cao đứng được tính theo đơn vị là (cm).
*Phương pháp đo trọng lượng:
- Dựng cõn Laica của Thuỵ sỹ, độ chính xác với các cân chuẩn khác chia
vạch đến 0,01kg. Đặt cân trên mặt phẳng, yêu cầu học sinh bỏ giầy dép, mặc

GVHD: TSKH.Mai V¨n

1
5

SVTH: Hoµng ThÞ


quần áo mỏng, đứng thẳng sao cho trọng tâm cơ thể rơi vào điểm giữa của
cân. Đơn vị trọng lượng là (kg).
* Phương pháp đo vòng ngực trung bình:
Dụng cụ là thước dây Hàn Quốc. Đo ở tư thế thẳng đứng, vòng thước
dây quanh ngực, vuông góc với cột sống đi qua xương bả vai ở phía sau và
mũi ức ở phía trước. Đo ở 2 kỳ hít vào và thở ra hết sức sau đó lấy trung bình
cộng. Đơn vị đo là (cm).
2.3.2.2.Chỉ số thể lực
* BMI:
Trọng lượng kết hợp với chiều cao đứng, vòng ngực trung bình

sẽ cho ta những BMI, Pignet là cơ sở quan trọng để đánh giá về tầm vóc và
thể lực. BMI là chỉ số cho phép đánh giá thể lực tương đối của những người
có chiều cao khác nhau. BMI được đo bằng thương số giữa trọng lượng cơ thể
với bình phương chiều cao đứng.
2

BMI= P/h

Trong đó :

P: Khối lượng cơ thể(kg)
h: Chiều cao đứng(m)
BMI càng cao thì sức khoẻ càng tốt và ngược lại
BMI ở ở lứa tổi 5-10 tuổi nằm trong: Khoảng < 13 là gầy
Khoảng > 17 là béo
Khoảng 13 ÷ 17 bình thường.
* Chỉ số Pignet:
Pignet= h-(P+T)
Trong đó:
h: Chiều cao đứng (cm)
GVHD: TSKH.Mai V¨n

19

SVTH: Hoµng ThÞ


P: Trọng lượng cơ thể (kg)
T:


Số

đo

vòng

ngực

trung

bình(cm).
2.3.2.3. Thời gian phản xạ cảm giác - vận động
Dụng cụ đo là máy vi tính với phần mềm đồ hoạ Senue của Đỗ Công
Huỳnh và cộng sự. [10]
- Phương pháp đo thời gian phản xạ thị giác-vận động: Học sinh ngồi thoải
mái trước màn hình máy vi tính và đặt ngón tay thuận lên phím Enter của
bàn phím. Mắt nhìn lên màn hình. Khi thấy trên màn hình xuất hiện hệ
thống đèn đỏ (đèn báo hiệu) sáng lên thì dùng ngón tay đặt sẵn ấn xuống phím
Enter với tốc độ nhanh nhất để tắt đèn. Thao tác này được lặp lại 5 lần theo
thứ tự đã được lập trình trên máy.
- Phương pháp đo thời gian phản xạ thính giác-vận động: Được thực hiện
ngay sau khi đo thời gian phản xạ thị giác-vận động, các thao tác tương tự
như nhau, nhưng chỉ khác là thấy tín hiệu đèn đỏ sáng lên bằng tiếng kêu
“tít” trên máy vi tính.
Các kết quả của hai thực nghiệm trên được tính riêng cho mỗi lần đo và
trung bình của cả 5 lần cho mỗi thực nghiệm.
2.3.3. Xử lý số liệu
Xử lý số liệu bằng phƣơng pháp thống kê trong sinh học
Các số liệu sau khi thu thập đạt yêu cầu, được nhập kết quả vào máy vi
tính bằng chương trình Excel trong quá trình nhập, các số liệu luôn được kiểm

tra để đảm bảo tính chính xác.
Các số liệu nhập đầy đủ hết, được máy vi tính xử lý theo các chỉ số sau:
số lượng, tỷ lệ%, giá trị trung bình ( X ), sai số của số trung bình (SD), hệ số
biến thiên CV.


x

=

- Tính giá trị trung bình ( X ) : X

∑ Xi
i=1

n
X : là giá trị trung bình

Xi : là giá trị thứ i của đại lượng
X
n: là số cá thể ở mẫu nghiên cứu.

- Độ lệch chuẩn:
_

n

SD
=


2

(Xi X )
n

i1

_

n

(n≥30)
2

(Xi X )
i1

SD

n
−1

(n<30)

=

Trong đó:

SD: Độ lệch chuẩn
n: Số học sinh trong mẫu

_

( Xi − i X ) : Độ lệch của từng giá trị so với giá trị trung bình
2


CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ HÌNH THÁI VÀ THỂ LỰC CƠ THỂ HỌC
SINH.

3.1.1. Kết quả nghiên cứu chiều cao cơ thể của học sinh
Chiều cao được nghiên cứu là chiều cao đứng của học sinh, đây
là chỉ tiêu cơ bản trong việc nhận xét đánh giá sự phát triển cơ thể.
3.1.1.1 Kết quả nghiên cứu về chiều cao đứng của học sinh nam
Kết quả nghiên cứu về chiều cao đứng của nam được thể hiện trong bảng 2.
Bảng 2. Sự biến đổi chiều cao đứng của học sinh nam theo tuổi
(cm).
X ± SD

Stt

Tuổi

n

1

6

30


116.9± 0.8

2

7

30

119.8± 0.9

2.9 ± 0.1

3

8

30

124.3 ± 1.0

4.5 ± 0.1

4

9

30

131.0 ± 0.7


6.7 ± 0.3

5

10

30

138.4 ± 0.9

7.4 ± 0.2

126.1± 0.8

4.3± 0.1

TB chung

Tăng/năm


cm
140
135
130
125
116.9
120
115

110
105
6

138.4
131.0
119.8

124.3

tuoi

7

8

9

10

Biểu đồ 1. Sự biến đổi chiều cao đứng (cm) của học sinh nam theo tuổi
Qua kết quả ở bảng 2 và các biểu đồ 1 về chiều cao đứng cho thấy:
Nam HS ở 5 lứa tuổi trên có chiều cao TB là 126.1± 0.8 (cm).
Chiều cao của HS nam tăng dần theo lứa tuổi. Lúc 6 tuổi chiều cao trung bình
là 116.9± 0.8 (cm), đến năm 10 tuổi chiều cao trung bình là 138.4 ± 0.9 (cm).
Trong vòng 5 năm chiều cao của HS nam tăng thêm 21.5 (cm), trung bình
mỗi năm tăng thêm 4.3±0.1 (cm). Chiều cao của các em nam tăng nhanh nhất
ở lứa tuổi 9 sang 10 đạt đến 7.4 cm/năm.
Trong từng giai đoạn phát triển của cơ thể tốc độ tăng chiều cao
của HS không giống nhau. Điều này được thể hiện trong biểu đồ 1 và bảng 2.

3.1.1.2 ết quả nghiên cứu về chiều cao đứng của học sinh nữ
Kết quả nghiên cứu về chiều cao đứng của nữ được thể hiện trong bảng 3.


Stt

Tuổi

n

X ± SD

Tăng/năm


1

6

30

115.1±0.6

2

7

30

117.2 ± 0.8


2.1± 0.2

3

8

30

121.5 ± 1.3

4.3± 0.5

4

9

30

126.9 ± 0.9

5.4± 0.4

5

10

30

136.8±0.8


9.9± 0.1

123.5±0.8

4.3± 0.2

TB chung

Bảng 3. Sự biến đổi chiều cao đứng của học sinh nữ theo tuổi (cm)

cm
136.8

140
135
130
125
120

126.9
121.5

115
115.1
110
105
100
6


117.2

tuoi

7
10

8

9

đồ 2. Sự biến đổi chiều cao đứng (cm) của học sinh nữ theo tuổi

Biểu


×