Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

So sánh pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Việt Nam và Hàn Quốc (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.72 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

JANG TAI MIN

SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG CỦA VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2017
1


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN
Người phản biện 1: PGS. TS. Nguyễn Thị Thu Hà
Người phản biện 2: PGS. TS. Vũ Văn Nhiêm
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia.
Địa điểm: P 210 Nhà A Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia. Số 10 – đường 3/2 – Quận 10 – TP.
Hồ Chí Minh
Thời gian: 07h30 ngày 24/7/2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính
Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành


chính Quốc gia.

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Tham nhũng là vấn nạn của mọi quốc gia, đặc biệt nghiêm
trọng ở các nước đang phát triển. Tham nhũng xảy ra ở tất cả các
cấp, các ngành, các lĩnh vực. Tham nhũng làm thâm hụt ngân sách
nhà nước, bóp méo chi tiêu công, thiếu hiệu quả trong các dự án của
nhà nước, làm sai lệch các chính sách, làm tăng chi phí của các dịch
vụ công, tăng bất bình đẳng trong xã hội. Đối tượng chịu nhiều thiệt
thòi nhất của tham nhũng là người nghèo trong xã hội.
Ở Việt Nam, trong những năm qua công tác phòng, chống
tham nhũng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng ngay từ những
ngày thành lập nước. Việt Nam đã xây dựng được hệ thống pháp luật
trong chống tham nhũng, điển hình như Luật Phòng, chống tham
nhũng 2005, sửa đổi năm 2007, 2012. Việt Nam cũng hợp tác với
quốc tế để nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh chống tham nhũng,
điển hình tham gia Công ước Liên hiệu quốc về chống tham nhũng.
Ngày 30/06/2009 Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký Quyết
định số 950/2009/QĐ-CTN về việc phê chuẩn Công ước Liên Hiệp
Quốc về chống tham nhũng và có hiệu lực thi hành đối với Việt Nam
từ ngày 18/09/2009. Tuy nhiên, ngoài những kết quả đã đạt được,
tình trạng tham nhũng đã, đang diễn ra hết sức phức tạp và kéo dài
trong bộ máy của hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương và
trong nhiều tổ chức kinh tế. Tham nhũng đang trở thành một trong
những nguy cơ đe doạ sự sống còn của chế độ, Nhà nước Việt Nam.
Bởi vậy, đấu tranh chống tham nhũng đã được Đảng Cộng sản Việt

Nam xác định một trong những yêu cầu cấp bách có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu trong giai đoạn hiện nay.

3


Nghiên cứu về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng
là cả một hệ thống biện pháp, tìm tòi, sáng tạo, trên cơ sở phát huy
vai trò tích cực của toàn thể của đội ngũ cán bộ, công chức, nhân dân.
Chính vì vậy, tìm hiểu về pháp luật phòng, chống tham nhũng, công
tác phòng, chống tham nhũng của Việt Nam và các nước ở Đông Á,
nhất là của Hàn Quốc; từ đó so sánh, vận dụng linh hoạt, có hiệu quả
vào tình hình thực tế của mỗi quốc gia là nội dung quan trọng, cần
thiết. Qua đó, có thể đánh giá, rút ra bài học để mỗi quốc gia tham
khảo, học hỏi các kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của nhau là
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, chính trị - pháp lý cả Việt
Nam và Hàn Quốc.
Với truyền thống hợp tác tốt đẹp giữa hai nước trên mọi lĩnh
vực, chống tham nhũng là một trong những lĩnh vực mà cả Việt Nam
và Hàn Quốc đều quan tâm thì sự trao đổi, nghiên cứu kinh nghiệm
và thực tiễn của hai nước sẽ giúp ích rất nhiều cho công tác phòng,
chống tham nhũng.
Trong nghiên cứu này tác giả sẽ so sánh pháp luật phòng,
chống tham nhũng của Việt Nam, Hàn Quốc và hiệu quả của luật
phòng, chống tham nhũng Việt Nam, Hàn Quốc. Từ đó rút ra những
bài học kinh nghiệm, gợi ý chính sách cho cả Việt Nam và Hàn
Quốc.
2. Tình hình nghiên cứu
(1) Tác giả Martin Painter và ctg trong nghiên cứu của UNDP
và UKaid: “Phân tích so sánh pháp luật phòng, chống tham nhũng

quốc tế: bài học về những cơ chế xử lý và thực thi cho Việt Nam” .
(2) Bài viết “Nghiên cứu về chiến lược phòng, chống tham
nhũng ở Hàn Quốc” của Yoo Mun Mu đã nhận định rằng Hàn Quốc
là một trong những quốc gia tham nhũng nhất ở Châu Á. Tham

4


nhũng ở Hàn Quốc làm sai lệch toàn bộ cấu trúc của xã hội, làm suy
thoái nền kinh tế thông qua việc biến dạng môi trường kinh doanh,
làm suy yếu sự ổn định chính trị và có những ảnh hưởng gây tổn hại
nhất đến các giá trị xã hội thông qua nguy cơ về đạo đức.
(3) Hoh Il Tae nghiên cứu về “chính sách chống tham nhũng ở
Hàn Quốc” chỉ ra rằng: hành vi tham nhũng là một loại “ung thư”
cản trở việc thiết lập một xã hội lành mạnh.
Qua các nghiên cứu, các tác giả đã định nghĩa và khẳng định
rằng tham nhũng là hành vi vi phạm đạo đức và pháp luật cần phải bị
ngăn chặn. Các nghiên cứu đa số tập trung phân tích từng lĩnh vực
tham nhũng của mỗi quốc gia, chưa có sự so sánh với những quốc gia
khác. Các nghiên cứu chỉ ra những giải pháp, những gợi ý chính sách
nhằm đối phó với tham nhũng, là bài học cho cả Việt Nam và Hàn
Quốc.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu cơ sở khoa học về phòng,
chống tham nhũng; pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Việt
Nam và Hàn Quốc; từ đó, so sánh, đánh giá, rút bài học kinh nghiệm
và gợi ý chính sách nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tham
nhũng của Việt Nam và Hàn Quốc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, đề tài triển khai
những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày cơ sở khoa học về tham nhũng và phòng,
chống tham nhũng;
Thứ hai, so sánh luật phòng, chống tham nhũng Việt Nam và
Hàn Quốc;

5


Thứ ba, nêu lên một số bài học kinh nghiệm và khuyến nghị
chính sách về xây dựng và áp dụng pháp luật về phòng, chống tham
nhũng đối với Hàn Quốc và Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng của nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là so sánh các quy định của
pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Hàn Quốc và Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Phạm vi nghiên cứu được giới hạn là hệ thống
pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Hàn Quốc và Việt Nam.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu pháp luật về phòng, chống
tham nhũng của Việt Nam kể từ khi Luật Phòng, chống tham nhũng
ra đời năm 2005 và của Hàn Quốc ra đời năm 2001 cho đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử khi nghiên cứu, phân tích, đánh
giá và so sánh trong đó, phương pháp so sánh là chủ yếu. Sử dụng
các phương pháp chuyên ngành của khoa học hành chính như:



Phương pháp luận biện chứng.



Phương pháp phân tích – tổng hợp.



Phương pháp lịch sử, so sánh, đối chiếu.



Phương pháp quy nạp – diễn dịch.



Phương pháp hệ thống hóa,



Phương pháp thống kê, mô tả, vẽ đồ thị…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Nghiên cứu về tham nhũng có thể phân chia thành: nghiên
cứu về khía cạnh hành vi của nhân viên công chức như là cho và nhận
hối lộ, đồng thời nghiên cứu về thể chế chính trị và chế độ. Đầu tiên là

6



nghiên cứu xét về mặt tư pháp đặt trọng tâm vào những cơ sở cấu
thành phạm tội đối với hành vi tham nhũng như là “môi giới hối lộ”,
sau đó là nghiên cứu xây dựng thể chế để phòng chống các hành vi
tham nhũng trong xã hội.
Luận văn sẽ là cơ sở để gợi ý xây dựng các khung pháp lý về
phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, sẽ cho cái nhìn tổng quát về
luật phòng, chống tham nhũng của Việt Nam và Hàn Quốc. Phân tích
các điểm chính trong luật phòng, chống tham nhũng Việt Nam, so
sánh với luật của Hàn Quốc. Luận văn sẽ đánh giá hiệu quả luật
phòng, chống tham nhũng của Việt Nam và Hàn Quốc. Từ đó tìm ra
những mặt hạn chế của công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về tham nhũng và phòng, chống
tham nhũng.
Chương 2: Nội dung so sánh hệ thống pháp luật phòng, chống
tham nhũng của Hàn Quốc và Việt Nam.

7


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THAM NHŨNG VÀ PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG
1.1 Cơ sở khoa học về tham nhũng
1.1.1 Định nghĩa
Tham nhũng là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong khoa
học chính trị, luật, hành chính... Có nhiều cách định nghĩa khác nhau
về tham nhũng: Theo Liên hiệp quốc (1969, dẫn theo Thanh tra Chính
phủ 2011), tham nhũng trong phạm vi hẹp là sự lợi dụng chức vụ để

trục lợi riêng. Theo Khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng
Việt Nam năm 2005 thì tham nhũng là hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Luật liên quan đến thành lập và quản lý Ủy ban bảo vệ quyền
lợi quốc dân và phòng, chống tham nhũng (sau đây gọi là “Luật
phòng, chống tham nhũng”) của Hàn Quốc, tại điều 2 mục 4, hành vi
tham nhũng được định nghĩa là hành vi nhân viên công chức đang
thực hiện nhiệm vụ mà lạm dụng quyền hạn hoặc chức vụ; hoặc vi
phạm pháp lệnh khi phục vụ lợi ích cho bên thứ 3 hoặc bản thân; xử
lý, quản lý, mua lại tài sản công, sử dụng ngân sách công hoặc việc ký
kết của các hợp đồng mà trong đó bên ký kết là cơ quan công và khi
thực hiện những công việc đó thì vi phạm pháp lệnh làm gia tăng thiệt
hại tài sản của cơ quan công; mua chuộc, đề nghị, khuyến cáo, yêu cầu
che đậy những hành vi như vừa đề cập.
Các định nghĩa tham nhũng dù dưới góc độ pháp lý hay lý
luận đều có điểm chung đó là hành vi phi đạo đức, sử dụng quyền lực
công vì lợi ích cá nhân. Tuy nhiên, các định nghĩa cũng không thể
khái quát hết các hành vi liên quan đến tham nhũng, như là giới thiệu
việc làm, đề xuất thăng chức của người khác, nhận các khoản tài trợ

8


du lịch, ưu tiên trong phân bổ nguồn lực kinh tế…và các định nghĩa
tham nhũng này cũng chỉ giới hạn trong khu vực công (sử dụng quyền
lực công), chưa đề cập đến khu vực tư nhân.
1.1.2 Nguyên nhân của tham nhũng
1.1.2.1 Nguyên nhân về kinh tế
Theo quan điểm này, tham nhũng bắt nguồn từ thu nhập đầu
người thấp, khi thu nhập của công chức trong khu vực công thấp hơn

đáng kể so với lao động cùng trình độ trong khu vực tư nhân thì thúc
đẩy công chức tìm kiếm thu nhập không chính thức, thường là liên
quan đến tham nhũng.
Mặt khác, Chính phủ độc quyền phân bổ nguồn lực, điều tiết
thị trường, cấp phép… sẽ dẫn đến việc tìm kiếm đặc quyền từ tư
nhân. Điều này sẽ dẫn đến sự thỏa hiệp của quan chức với tư nhân để
phân chia lợi nhuận, thường là sử dụng các công ty “gia đình” để
hưởng lợi ích từ Chính phủ mà không bị phát hiện.
1.1.2.2 Nguyên nhân về văn hóa – xã hội
Nghiên cứu về mặt văn hóa – xã hội đã chỉ ra rằng chính sự
khác biệt về môi trường xã hội và tham vọng thành công của các thành
viên trong xã hội là nguyên nhân gây ra tham nhũng.
Khi xã hội coi trọng các mối quan hệ gia đình, chủ nghĩa gia
đình vẫn còn chi phối thì xu hướng những người có cùng quan hệ gia
đình, quê quán…sẽ được hưởng những ưu tiên khi giao dịch với công
chức nhà nước.
1.1.2.3 Nguyên nhân thể chế
Một quan điểm khác về nguyên nhân của tham nhũng là
“quan điểm thể chế”. Nó nhấn mạnh vai trò của các thể chế (được
định nghĩa rộng rãi bao gồm các thể chế chính trị, văn hoá, pháp lý và
kinh tế) và cho rằng có quan hệ nhân quả bắt nguồn từ các thể chế yếu

9


kém dẫn đến tham nhũng và dẫn đến các kết quả kinh tế tồi tệ. Tham
nhũng là được xem như là triệu chứng của các thể chế yếu kém.
Ngoài ra, các cơ quan công quyền kiểm soát tham nhũng yếu
kém và không hiệu quả là nguyên nhân gây ra tham nhũng.
1.1.2.4 Nguyên nhân tham nhũng ở Việt Nam và Hàn Quốc

Theo Hoàng Chí Bảo (2014) tham nhũng nặng nề ở Việt Nam
có nguyên nhân từ sự yếu kém của thể chế, tính nửa vời trong chỉ đạo
thực hiện và sự thoái hóa của không ít quan chức, công chức trong
bộ máy, thậm chí tham nhũng có cả trong hoạt động tư pháp, trong
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Tại Hàn Quốc, vấn đề kinh tế không phải là nguyên nhân chủ
yếu của tham nhũng. Đối với nguyên nhân phát sinh tham nhũng thì
đa số ý kiến người dân đều cho rằng chính văn hóa xã hội là nguồn
gốc phát sinh tham nhũng. Theo đó, việc phân tích vấn nạn tham
nhũng của Hàn Quốc về mặt văn hóa, xã hội là cần thiết.
1.1.3 Hậu quả của tham nhũng
Tham nhũng là tội ác và gánh nặng tài chính đối với nhân dân.
Có rất nhiều tác động của tham nhũng đối với kinh tế và xã hội, những
tác động này không độc lập với nhau. Các tác động này có thể kể đến:


Thu nhập quốc gia bị mất và làm giảm khả năng của nhà nước

cho các hoạt động ưu tiên cao.


Bóp méo chi tiêu công: có quá nhiều vốn cho dự án với chi

phí cao và bảo trì thường xuyên.


Sự suy giảm chất lượng, tăng chi phí của các dịch vụ công và

cơ sở hạ tầng.



Tăng thuế vì tham nhũng làm mất đi doanh thu, đẩy những

người sản xuất sang khu vực không chính thức và làm tăng chi phí cho
doanh nghiệp, kiềm hãm sự phát triển doanh nghiệp.

10




Suy giảm lòng tin nhân dân: tham nhũng gây ra sự nghi ngờ,

tham nhũng làm cho sự nghi ngờ dễ lây lan và có khả năng làm mất
lòng tin của công chúng.
Tham nhũng làm tổn thương người nghèo nhiều hơn, nó cũng ức
chế sự phát triển của các thể chế xã hội và chính trị.
1.1.4 Các dạng của tham nhũng
Theo Ahmad M. Mashal (2011) ba loại tham nhũng có thể
được xác định trong các xã hội dân chủ:
(1) Tham nhũng lớn: Đề cập đến các hành vi của giới tinh hoa
chính trị (các quan chức được lựa chọn) qua đó họ khai thác quyền lực
của họ để đưa ra các chính sách kinh tế.
(2) Tham nhũng quan liêu: Đây là hành vi tham nhũng của các
quan chức trong các hoạt động của họ với cấp trên (chính trị Elite)
hoặc với công chúng.
(3) Tham nhũng Lập pháp: Đề cập đến cách thức và mức độ
mà hành vi bỏ phiếu của các nhà lập pháp có thể bị ảnh hưởng.
Các nước đang phát triển có các loại tham nhũng sau:
(1) Tham nhũng cấp cao (tham nhũng có tổ chức): Tham nhũng

ở các cán bộ cấp cao như Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng… để đổi
lấy các hợp đồng mua sắm công, các chính sách đầu tư, các dự án…
(2) Tham nhũng ở cấp thấp: Loại tham nhũng này bao gồm
hối lộ trả cho công chức để thúc đẩy nhanh quá trình thủ tục hành
chính, giành các hợp đồng công, hưởng ưu đãi trong chính sách…
1.2 Cơ sở khoa học về phòng, chống tham nhũng
Marie Chêne (2010) trong nghiên cứu của mình đã đề xuất
một số cơ sở để xây dựng chính sách phòng, chống tham nhũng,
nghiên cứu này dựa vào hai cách tiếp cận để loại trừ tham nhũng:
phòng ngừa và trừng trị tham nhũng.

11


1.2.1 Phòng ngừa tham nhũng
1.2.1.1 Quản lý nguồn nhân lực
Điều kiện làm việc tồi tệ có thể khuyến khích và tạo cơ hội
cho tham nhũng. Do đó, quản lý nguồn nhân lực là một lĩnh vực quan
trọng để giảm thiểu tham nhũng vì con người là cốt lõi của hệ thống tổ
chức.
Tuyển dụng và thăng tiến: Thủ tục bổ nhiệm phải công khai,
công bằng và minh bạch để tuyển chọn ứng viên có trình độ chuyên
môn cao nhất và có tiêu chuẩn đạo đức.
Lương và trợ cấp: tiền lương thấp có thể khuyến khích tiêu
cực cho công chức trở nên tham nhũng vì vậy cần có chế độ lương
bổng xứng đáng cho công chức nhằm làm cho họ cạnh tranh hơn với
khu vực tư nhân để làm giảm bớt cơ hội và động cơ tham nhũng.
Đào tạo và phát triển: công chức cần phải được trang bị các
kỹ năng để thực hiện chức năng của mình một cách chuyên nghiệp, vô
tư và có đạo đức..

1.2.1.2 Lãnh đạo
Một điều kiện chính cho thành công các chiến lược chống
tham nhũng là xây dựng được sự lãnh đạo đáng tin cậy, ý chí chính
trị bền vững và cam kết mạnh mẽ về thể chế đối với các chính sách
chống tham nhũng.
Các nhà quản lý cần phải có sự sẵn sàng và có khả năng thực
thi các quy tắc và sử dụng hệ thống kỷ luật để có được sự tuân thủ từ
cấp dưới. Các nhà quản lý phải có quyền lực thực hiện, duy trì các tiêu
chuẩn cao nhất trong việc tuân thủ các quy tắc và hỗ trợ môi trường
làm việc.
1.2.1.3 Xây dựng văn hoá đạo đức và tính chuyên nghiệp
Chiến lược chống tham nhũng nên nhằm vào việc thiết lập

12


một nền văn hoá tổ chức dựa vào áp lực của cộng đồng hơn là cách
tiếp cận trừng phạt để thúc đẩy và hỗ trợ sự toàn vẹn của công chức.
Theo đó, có thể là xây dựng và thực hiện các quy tắc ứng xử cho công
chức, xử lý tất cả các hành vi phi đạo đức. Việc thực hiện bộ luật này
có thể đòi hỏi các hoạt động nâng cao nhận thức, đào tạo và nâng cao
năng lực.
1.2.1.4 Tham gia của cộng đồng
Nhận thức cộng đồng: Giáo dục công cộng về tham nhũng và
những nỗ lực cải cách liên tục có thể có tác động đáng kể đến kỳ
vọng của công chúng. Công khai các vụ xử lý tham nhũng.
Khái niệm dân chủ: Cải cách chống tham nhũng thành công
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tham gia của xã hội dân sự trong
quá trình cải cách. Việc lập chính sách dân chủ dựa trên bốn nguyên
tắc chính:



Ưu tiên hàng đầu để phục vụ nhu cầu của nhân dân và các tổ
chức dân chủ;



Chịu trách nhiệm trước pháp luật chứ không phải là Chính
phủ (Thượng tôn pháp luật);



Tôn trọng nhân quyền, công bằng, không phân biệt, vô tư,
toàn vẹn và chuyên nghiệp;



Công khai, minh bạch trong hoạt động.
Chính sách dựa vào cộng đồng: Trong khuôn khổ của việc

hoạch định chính sách dân chủ, việc hoạch định chính sách dựa vào
cộng đồng, ngăn ngừa tội phạm và các chiến lược trao quyền cho
nhân dân được đề xuất để giúp khôi phục lòng tin của nhân dân. Nhà
nước dựa vào nhân dân thúc đẩy sự hợp tác giữa hai bên để giải
quyết mong muốn của nhân dân và giúp Nhà nước hoạt động hiệu
quả hơn.

13



1.2.2 Trừng phạt tham nhũng
1.2.2.1 Các chế tài nghiêm khắc hơn
Các chiến lược thực thi có thể bao gồm việc sửa đổi pháp
luật và thể chế để làm tăng khả năng phát hiện và xử phạt tham
nhũng. Tăng cường quyền hạn và phạm vi của Cơ quan điều tra tham
nhũng, cơ quan độc lập chịu trách nhiệm điều tra tham nhũng.
1.2.2.2 Trách nhiệm nội bộ
Tăng cường trách nhiệm giải trình nội bộ không chỉ dựa trên
việc rà soát và nâng cấp hệ thống kỷ luật nội bộ mà còn cho phép các
nhà quản lý thực hiện các biện pháp kỷ luật và giữ họ có trách nhiệm
với chức năng này.
Tăng cường trách nhiệm nội bộ cũng có thể bao gồm tăng
cường các đơn vị điều tra nội bộ, tiến hành kiểm tra tính toàn vẹn
ngẫu nhiên và thiết lập các hệ thống cảnh báo sớm.
1.2.2.3 Giám sát bên ngoài
Hoạt động của công chức, tổ chức công cộng phải minh bạch
và công khai đối với công chúng. Cơ chế giám sát bên ngoài có thể
bao gồm thúc đẩy việc giám sát của Quốc hội hoặc Tư pháp, giám sát
xã hội dân sự dưới hình thức các ủy ban xem xét dân sự hoặc thành
lập các cơ quan kiểm soát chuyên ngành.
Cơ chế khiếu nại hiệu quả cũng có thể khuyến khích người
dân báo cáo tham nhũng. Tuy nhiên, đáng tin cậy, cơ quan tiếp nhận
của họ phải có khả năng quản lý và giải quyết khiếu nại, thực thi các
khuyến nghị, áp đặt các biện pháp trừng phạt cũng như bảo vệ người
tố cáo.
Tiểu kết chương 1
Tham nhũng là tội ác đối với nhân dân. Tham nhũng khó
được định nghĩa một cách toàn diện. Các định nghĩa đều chủ yếu tập

14



trung vào khía cạnh kinh tế và tham nhũng được định nghĩa xảy ra
trong khu vực công.
Tham nhũng xảy ra ở một quốc gia dù là phát triển hay đang
phát triển đều có nhiều nguyên nhân cùng tồn tại, các nguyên nhân
này (kinh tế, xã hội, thể chế) đan xen với nhau, tác động lẫn nhau.
Tham nhũng để lại rất nhiều hậu quả và hậu quả lớn nhất là
giảm thu nhập quốc gia, làm bội chi ngân sách và suy giảm lòng tin
của nhân dân. Nếu lòng tin của người dân đã mất thì tham nhũng lại
càng phát triển và vòng xoáy đi xuống của quốc gia sẽ lặp lại.
Các nền tảng để xây dựng chính sách phòng, chống tham
nhũng dựa trên nền tảng công khai, minh bạch, có sự giám sát hiệu
quả cả bên trong lẫn bên ngoài. Ngoài ra, cần phải có những thiết chế
đủ mạnh để điều chỉnh hành vi của công chức để ngăn ngừa tham
nhũng.
Chương 2
NỘI DUNG SO SÁNH QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC
2.1 Khái lược pháp luật phòng, chống tham nhũng Việt Nam và
Hàn Quốc
2.1.1 Pháp luật phòng, chống tham nhũng Hàn Quốc
(1) Luật về yêu cầu bất chính và hối lộ được thông qua và có hiệu
lực thi hành từ ngày 28/09/2016.
(2) Luật ngăn ngừa tham nhũng và thành lập, quản lý ủy ban chống
tham nhũng và bảo vệ quyền dân sự (gọi tắt là Luật phòng, chống
tham nhũng) có hiệu lực từ ngày 19/11/2014.
(3) Luật đạo đức công chức lần đầu tiên được thông qua và có hiệu
lực ngày 30/06/1996, trải qua 15 lần sửa đổi bổ sung, bản mới nhất
được sửa đổi, bổ sung có hiệu lực từ ngày 01/09/2016.


15


(4) Luật công khai thông tin công được thông qua lần đầu vào ngày
31/12/1996, qua 8 lần sửa đổi bổ sung, bản mới nhất có hiệu lực từ
ngày 29/05/2016.
(5) Luật bảo vệ người khai báo lợi ích công cộng được thông qua lần
đầu vào ngày 29/03/2011 được sửa đổi, bổ sung và có hiệu lực từ
ngày 25/01/2016.
(6) Luật đặc biệt về tịch thu tài sản liên quan đến vi phạm pháp luật
của công chức được thông qua và có hiệu lực vào ngày 23/05/2011
và được sửa đổi, bổ sung và có hiệu lực từ ngày 28/03/2017.
2.1.2 Pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
(1) Luật phòng, chống tham nhũng được Quốc hội Việt Nam thông
qua vào ngày 29/11/2005, được sửa đổi và bổ sung ngày 23/11/2012,
có hiệu lực từ ngày 01/02/2013.
(2) Luật tố cáo được thông qua vào ngày 11/11/2011.
(3) Nghị định về minh bạch tài sản, thu nhập được Chính phủ Việt
Nam thông qua ngày 17/07/2013.
(4) Quyết định về ban hành Quy chế về việc tặng quà, nhận quà tặng
và nộp lại quà tặng của cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân
sách nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức được Thủ tướng
Chính phủ thông qua ngày 10/05/2007.
2.2. Nội dung so sánh pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam và Hàn Quốc
2.2.1. Chế định về hối lộ và nhận hối lộ
Cả Việt Nam và Hàn Quốc đều quy định cho và nhận hối lộ là
hành vi tham nhũng, tùy theo mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý hành
chính, phạt tiền hoặc xử lý hình sự (phạt tù).

Sự khác nhau trong quy định của hai nước là chủ thể nhận hối
lộ và mục đích nhận hối lộ

16


Về hành vi đưa hối lộ và nhờ vả bất chính: quy định của Việt
Nam sẽ xử lý hình sự những người đưa hối lộ tùy theo mức độ vi
phạm; Hàn Quốc không xử lý những người nhờ vả bất chính trực tiếp,
người nhờ vả bất chính sẽ bị phạt hành chính chỉ khi thông qua bên
thứ 3.
Các quy định về việc cho và nhận quà tặng của Hàn Quốc gây
tranh cãi và lo lắng cho công chức vì quy định rất khắt khe. Quy định
khắt khe này cũng có tác động tiêu cực lên nền kinh tế của Hàn Quốc.
Các quy định về hối lộ của Việt Nam cũng có một số điểm bất cập khi
áp dụng trong thực tế.
2.2.2. Chế định về công khai tài sản đối với công chức
Những điểm giống nhau: Cả hai nước đều quy định những
người có khả năng dễ tham nhũng thì bắt buộc phải kê khai tài sản;
các loại tài sản phải kê khai; giải thích quá trình biến động tài sản
hàng năm.
Những điểm khác nhau:
Về đối tượng kê khai: Việt Nam chỉ yêu cầu công chức kê
khai tài sản, trong khi đó Hàn Quốc quy định cả công chức,
vợ/chồng, những người có quan hệ trực hệ với người phải đăng ký tài
sản (trừ con gái đã kết hôn).
Về công khai tài sản công chức: ở Việt Nam hiện nay chưa
có quy định về công khai tài sản ra công chúng mà chỉ có quy định
công khai trong cơ quan và việc kiểm tra tính trung thực của kê khai
tài sản do cơ quan phụ trách công chức thực hiện. Hàn Quốc quy

định sau khi hoàn thành kê khai tài sản của công chức thì Ủy ban đạo
đức công chức sẽ kiểm tra tính trung thực của bản kê khai và các bản
kê khai sẽ được công khai trước công chúng để người dân có thể
kiểm tra.

17


Về các biện pháp xử lý: Việt Nam chỉ dừng lại ở các biện
pháp hành chính như khiển trách, cảnh cáo…Hàn Quốc áp dụng các
biện pháp phạt tiền hoặc án tù dưới 1 năm nếu không kê khai, nếu kê
khai gian dối có thể bị cách chức.
2.2.3. Chế độ công khai thông tin hành chính
Việt Nam và Hàn Quốc đều quy định quyền yêu cầu được
biết thông tin của công dân theo đó người dân có quyền yêu cầu các
cơ quan công cung cấp thông tin cân thiết theo quy định. Tuy nhiên,
quy định của Việt Nam và Hàn Quốc có một số điểm khác nhau như
sau: Hàn Quốc quy định các loại thông tin không được tiết lộ, Việt
Nam quy định các loại thông tin được công khai.
Công khai thông tin hành chính ở Hàn Quốc thực hiện hiệu
quả, tất cả các thông tin người dân cần biết đều được công bố rộng
rãi trên internet.
Việt Nam công bố thông tin hành chính đã cải thiện đáng kể
thời gian làm thủ tục hành chính, người dân có thể dễ dàng tra cứu,
tìm hiểu thông tin về thủ tục hành chính, hoạt động của các cơ quan
công.
2.2.4. Mua sắm công
Cả hai nước đều quy định về việc mua sắm công phải thông
qua đấu thầu. Điểm khác nhau cơ bản là Hàn Quốc chỉ đấu thầu
thông qua một đầu mối duy nhất là Dịch vụ mua sắm công đại diện

cho Nhà nước như một thực thể kinh tế tư nhân trong hợp đồng; ở
Việt Nam việc mua sắm công theo nhu cầu từng cơ quan, đơn vị và
có tới 8 hình thức lựa chọn nhà thầu.
Dịch vụ Mua sắm Công (PPS) đã đảm nhận vai trò là cơ
quan mua sắm trung tâm Hàn Quốc từ năm 1961. Từ những năm
1990, PPS đã phát triển hệ thống mua sắm điện tử; hiện nay, đấu thầu

18


và mua sắm ở Hàn Quốc được thực hiện thông qua cổng thông tin
điện tử.
Mua sắm công ở Việt Nam được thực hiện theo nhu cầu của
từng cơ quan, đơn vị và mỗi cơ quan, đơn vị là một đầu mối mua
sắm. Do đó, có thể tạo thành rất nhiều đầu mối mua sắm làm tăng chi
phí, tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng do khó quản lý, và có thể làm tăng
giá trị gói thầu gây tổn thất kinh phí Nhà nước.
2.2.5. Chế định về tố cáo và bảo vệ người tố cáo
Các quy định về tố cáo và bảo vệ người tố cáo của Việt Nam
và Hàn Quốc tương đối giống nhau, coi trọng việc bảo vệ người tố
cáo, các quy định bảo vệ người tố cáo rất rõ ràng và đầy đủ, đồng
thời cũng có những quy định về khen thưởng phù hợp.
Tuy nhiên có một số điểm khác nhau: đảm nhận công tác bảo
vệ người tố cáo ở Hàn Quốc là Ủy ban bảo vệ quyền lợi quốc dân,
đây là nơi tiếp nhận và có những biện pháp thích hợp để bảo vệ
người tố cáo bao gồm cả việc yêu cầu cảnh sát bảo vệ; ở Việt Nam
quy định là đơn vị tiếp nhận tố cáo là nơi sẽ đảm nhận bảo vệ người
tố cáo, người tố cáo sẽ phải tự mình gửi đơn yêu cầu bảo vệ tới các
cơ quan chức năng.
2.2.6. Các cơ quan phòng, chống tham nhũng

Các cơ quan phòng chống tham nhũng của Việt Nam:
(1) Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng
(2) Ban nội chính trung ương
(3) Thanh tra Nhà nước
(4) Kiểm toán nhà nước
(5) Cơ quan tư pháp (Cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án)
Các cơ quan phòng chống tham nhũng của Hàn Quốc:
(1) Ủy ban bảo vệ quyền lợi quốc dân

19


(2) Viện Thanh tra và kiểm soát (BAI)
(3) Các cơ quan tư pháp (Viện công tố, Tòa án)
Việt Nam và Hàn Quốc đều có các cơ quan phòng, chống tham
nhũng giống nhau như Thanh tra, kiểm toán, Kiểm sát, Tòa án; các
cơ quan này đều hoạt động theo Bộ luật riêng; chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan này tương đối giống nhau.Tuy nhiên, có
một số điểm khác nhau như sau: do sự khác biệt về thể chế chính trị
mà Hàn Quốc không có các cơ quan thuộc khối Đảng trong phòng,
chống tham nhũng; các cơ quan của Hàn Quốc hoạt động một cách
độc lập, không có các quy định về phối hợp hoạt động và là cơ quan
độc lập không phụ thuộc vào các cơ quan hành chính; khác với Việt
Nam, Viện công tố Hàn Quốc giữ vai trò chính trong điều tra, chỉ đạo
điều tra và truy tố tội phạm, cảnh sát chỉ giữ vai trò phối hợp với
Công tố khi có yêu cầu.
2.3. Bài học kinh nghiệm của Hàn Quốc và Việt Nam trong xây
dựng, áp dụng pháp luật về phòng, chống tham nhũng
2.3.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc


Năm 1999 Ủy ban đặc biệt về phòng, chống tham nhũng hay
được gọi là cơ quan tư vấn về vấn đề tham nhũng của Tổng thống
được thành lập và năm 2001 ban hành luật “Luật phòng, chống tham
nhũng” và bắt đầu thực thi chính sách phòng, chống tham nhũng.
Không những thế, liên quan đến việc phòng, chống tham nhũng thì
chính phủ cũng ban hành “Luật công khai thông tin công” nhằm thực
thi quyền được biết của người dân, ban hành “Luật đạo đức công
chức” nhằm ngăn ngừa hành vi làm giàu bất chính và nâng cao ý
thức đạo đức cho công chức.
Ngoài ra, để vận hành một cách suôn sẻ chế độ phòng, chống
tham nhũng, Hàn Quốc đã thiết lập một hệ thống chống tham nhũng

20


tối ưu và có mối liên kết và hợp tác giữa các tổ chức là rất cần thiết
trong việc kiểm soát tham nhũng.
Việc thực thi Luật chống hối lộ và yêu cầu bất chính năm
2015 đã mở rộng hơn 4 triệu người trực thuộc thẩm quyền của luật
mới này.
Từ cuối những năm 1990, luật chống tham nhũng của Hàn
Quốc đã bắt đầu cố ngăn cấm hoặc hạn chế tất cả các tiếp xúc không
chính thức của những cá nhân hoặc công ty với các quan chức, vì tất
cả kỳ nghỉ với các công ty tương đương với việc hối lộ. Do đó, Luật
Kim Young-ran ra đời là bước ngoặc lớn có thể hạn chế tối đa những
yêu cầu bất chính trong xã hội Hàn Quốc.
2.3.2. Kinh nghiệm của Việt Nam
Theo ông Nguyễn Văn Thanh

-


Phó tổng thanh tra Chính

phủ Việt Nam: Việt Nam thi hành luật phòng, chống tham nhũng hơn
10 năm, nhưng thành quả vẫn chưa được như mong đợi (Báo điện tử
Dân trí 2017).
Việt Nam cũng đã huy động sự tham gia của công chúng
bằng cách thu thập ý kiến và tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực này để làm cho công việc trở nên hiệu quả hơn. Từ năm 2009,
Việt Nam tiến hành khảo sát xã hội học PAPI (Chỉ số Hiệu quả quản
trị và hành chính công cấp tỉnh) dưới sự tài trợ của UNDP, tập trung
tìm hiểu hiệu quả công tác điều hành, thực thi chính sách, cung ứng
dịch vụ công dựa trên đánh giá và trải nghiệm của người dân, với dữ
liệu được thu thập thường niên. Từ 2009 đến 2016, PAPI thu thập và
phản ánh trải nghiệm của gần 89.000 người dân được chọn ngẫu
nhiên từ 63 tỉnh, thành phố.
Việt Nam đang tích cực trong hợp tác quốc tế về phòng,
chống tham nhũng, theo đó, sẽ học tập được nhiều kinh nghiệm từ

21


các quốc gia phát triển. Việt Nam cũng đã tham gia vào các Công
ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng, Chương trình hành động
chống tham nhũng và đảm bảo minh bạch APEC 2004, Cam kết
Santiago về chống tham nhũng và đảm bảo minh bạch 2004, Tuyên
bố Bắc Kinh 2014 và Tuyên bố Manila 2015 (Báo điện tử Dân trí
2017).
Theo đó, sẽ xây dựng các khung pháp luật, thực thi pháp luật
và quản lý nhằm phòng, chống tham nhũng; xây dựng một nền văn

hóa quản trị cởi mở, minh bạch và chống tham nhũng trên tất cả các
lĩnh vực; thực hiện các biện pháp, quy trình và tiêu chuẩn thúc đẩy
tính minh bạch và trách nhiệm giải trình; bảo vệ môi trường khỏi tổn
hại do tham nhũng; tăng cường hợp tác và đối thoại công-tư; thúc
đẩy hợp tác quốc tế để loại bỏ nơi trú ẩn an toàn cho những kẻ có
hành vi tham nhũng và tăng cường hành động tập thể nhằm chống
buôn lậu và xóa bỏ các mạng lưới bất hợp pháp xuyên quốc gia trên
toàn khu vực; tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội vào quá
trình ra các quyết định, phân bổ ngân sách, theo dõi sự thực thi của
các chính sách (Báo điện tử Dân trí 2017).
2.4. Một số khuyến nghị chính sách trong xây dựng, áp dụng
pháp luật về phòng, chống tham nhũng
Cả Việt Nam và Hàn Quốc đều đang phải đối mặt với những
thách thức của riêng mình trong công cuộc phòng, chống tham
nhũng. Luật phòng, chống tham nhũng ra đời là một bước tiến lớn
thể hiện quyết tâm đấu tranh với tham nhũng của hai nước. Việt Nam
và Hàn Quốc những năm qua đều chưa cải thiện đáng kể vị trí trên
bảng xếp hạng chỉ số chấp nhận tham nhũng của tổ chức minh bạch
quốc tế, cả hai nước còn rất nhiều việc phải làm để có thể loại trừ
tham nhũng khỏi xã hội.

22


2.4.1 Kiến nghị cho Việt Nam
Nguyên nhân tham nhũng của Việt Nam chủ yếu bắt nguồn
từ thể chế, do đó, các biện pháp để làm giảm tham nhũng ở Việt Nam
nên đẩy mạnh cải cách thể chế, đặc biệt là Luật phòng, chống tham
nhũng.
Thứ nhất, hối lộ là hành vi tham nhũng gây bức xúc xã hội,

cần quy định việc nhận hối lộ mà không cần phải xét tới mục đích
của việc nhận hối lộ, mở rộng phạm vi đối tượng tham nhũng ở khu
vực dân sự như giáo dục, y tế, thực phẩm, kinh tế…
Thứ hai, kiểm soát tài sản công chức và người nhà, bổ sung
thêm quy định kê khai tài sản người thân của công chức (vợ/chồng,
con cái, cha mẹ). Cần có cơ quan chuyên trách về kiểm tra các bản kê
khai và công bố các bản kê khai cho công chúng.
Thứ ba, Luật hóa các quy định về công khai thông tin hành
chính, trong đó quy định cụ thể những thông tin không được tiết lộ,
cần có Hội đồng thẩm định thông tin và cơ quan giám sát việc công
bố thông tin.
Thứ tư, xây dựng Trung tâm đấu thầu tập trung cho cả nước,
từng bước tiến hành xây dựng đề án đấu thầu điện tử.
Thứ năm, các cơ quan chống tham nhũng cần phải được độc
lập với hoạt động của chính quyền. Có thể đề xuất hệ thống Thanh
tra các cấp chỉ trực thuộc Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống
tham nhũng.
Thứ sáu, văn hóa của Việt Nam và Hàn Quốc có những nét
tương đồng, đó là: mối quan hệ xã hội, gia đình, đồng hương có ảnh
hưởng đến hành vi của người công chức.
2.4.2 Kiến nghị cho Hàn Quốc

23


Các quy định về phòng, chống tham nhũng ở Hàn Quốc tuy
rất tốt nhưng vẫn còn những thiếu sót. Dựa trên nghiên cứu tác giả đề
xuất một số gợi ý chính sách đối với Hàn Quốc:
Một là, qui định xử phạt nặng đối với hành vi cho – nhận
những vật phẩm có giá trị và nhờ vả bất chính là điều cần thiết.

Hai là, mở rộng đối tượng xử phạt khi có hành vi hối lộ.
Ba là, thành lập các cơ quan chuyên trách đảm nhận công tác
phòng, chống tham nhũng một cách quyết liệt hơn
Bốn là, đẩy mạnh tính độc lập của cơ quan chuyên trách đảm
nhận công tác phòng, chống tham nhũng.
Liên quan đến điều này, Hiệp ước phòng, chống tham nhũng
Liên Hiệp Quốc qui định rằng “Cơ quan đảm nhận công tác phòng,
chống tham nhũng phải điều chỉnh tổ chức một cách độc lập từ bên
ngoài để thi hành chức năng đó mang tính hiệu quả”, đồng thời Đại
hội tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao thế giới
(INTOSAI) đã đưa ra tuyên ngôn rằng “để thực hiện nhiệm vụ của cơ
quan giám sát tối cao một cách hiệu quả và khách quan thì phải độc
lập từ bên ngoài”.
Tiểu kết chương 2
So với Hàn Quốc, pháp luật phòng, chống tham nhũng của
Việt Nam chưa có tập trung, còn nằm tản mác trong nhiều văn bản
luật khác, nghị định, thông tư…
Hàn Quốc có ba cơ quan chủ yếu trong phòng, chống tham
nhũng như ba trụ cột cơ bản: Ủy ban bảo vệ quyền lợi quốc dân,
Viện thanh tra và kiểm soát, Viện công tố. Ba cơ quan này hoạt động
theo chức năng được quy định trong đạo luật riêng.
Pháp luật phòng, chống tham nhũng của Việt Nam quy định
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan phòng, chống tham nhũng: Ban

24


chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (Ban chỉ đạo), Ban
nội chính, Thanh tra Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước, Cơ quan công
an, Viện kiểm sát.

Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của Việt Nam và
Hàn Quốc đều phải dựa vào nền hành chính cởi mở, minh bạch và
dân chủ. Ngoài việc hoàn thiện các Đạo luật phòng, chống tham
nhũng thì việc cải cách khu vực công là cần thiết. Phòng, chống tham
nhũng không thể thực hiện riêng lẻ từng quốc gia mà cần phải có sự
hợp tác quốc tế. Việt Nam và Hàn Quốc hiện nay, đang nổ lực tham
gia cùng với các quốc gia trong khu vực và quốc tế để học hỏi kinh
nghiệm, trao đổi thông tin và hoàn thiện pháp luật phòng, chống
tham nhũng.
Các kiến nghị cho cả Việt Nam và Hàn Quốc đều có những
điểm chung là cần phải quy định nghiêm ngặt hơn về các hành vi
tham nhũng, xây dựng thể chế công khai, minh bạch và dân chủ. Các
cơ quan chống tham nhũng có sự hợp tác quốc tế và hoạt động một
cách độc lập.

25


×