Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TỈNH PHÚ YÊN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
………/………

BỘ NỘI VỤ
.…../……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ TÚ VƢƠNG

MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA
TỈNH PHÚ YÊN TRONG ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp – Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS LÊ THỊ HƢƠNG

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ
án hình sự” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số


liệu trong luận văn có nguồn gốc, do học viên tự thu thập và chịu trách
nhiệm, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào trước đây.
Phú Yên, ngày

tháng

năm 2017

Học viên

Nguyễn Thị Tú Vƣơng


Lời Cảm Ơn
Trong thời gian học tập täi Học viện hành chính Quốc gia,
tôi đã được Quý Thæy giáo, Cô giáo cûa Học viện hành chính
Quốc gia nói chung và Khoa Nhà nước và Pháp luật, khoa Sau
đäi học nói riêng đã truyền đät những kiến thức xã hội và chuyên
môn vô cùng quý giá câ về lý thuyết và thực tiễn. Những kiến thức
hữu ích đó sẽ là hành trang giúp tôi trưởng thành và tự tin thực hiện
công việc chuyên môn ngày càng tốt hơn và hiệu quâ hơn.
Trước hết, tôi xin chån thành câm ơn tới Quý Thæy, Cô
giáo Học viện Hành chính Quốc gia. Phòng đào täo sau đäi học,
khoa Nhà nước và Pháp luật cûa Trường đã cho phép và täo điều
kiện tốt nhçt để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tô lòng biết ơn såu sắc tới PGS. TS. Lê
Thị Hương là người trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình
học tập nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin câm ơn tới Viện kiểm sát nhån dån tînh Phú Yên

và Cơ quan cânh sát điều tra tînh Phú Yên đã giúp đỡ và täo mọi
điều kiện thuận lời cho tôi hoàn thành luận văn.
Học viên
Nguyễn Thị Tú Vương


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA
CẤP TỈNH TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ .............................................9
1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra
cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ......................................................................9
1.1.1. Nhận thức chung về điều tra vụ án hình sự ..............................................9
1.1.2. Thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong điều tra vụ án
hình sự ..............................................................................................................12
1.1.3. Thẩm quyền của Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án
hình sự ..............................................................................................................15
1.2. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều
tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ...............................................................16
1.2.1. Bản chất mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan
cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ...................................16
1.2.2. Đặc điểm của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ
quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ..........................27
1.2.3. Nội dung mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan

cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ...................................30
1.2.4. Các hình thức thể hiện mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ........36
Kết luận chương 1 .................................................................................................38


Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ
GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT
ĐIỀU TRA TỈNH PHÚ YÊN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ .............39
2.1. Tình hình tội phạm và kết quả điều tra vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên ........39
2.1.1. Tình hình tội phạm tại tỉnh Phú Yên .......................................................39
2.1.2. Kết quả điều tra vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên ....................................41
2.2. Thực trạng mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh
sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự .........................................44
2.2.1. Trong giai đoạn tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến
nghị khởi tố .......................................................................................................44
2.2.2. Trong khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can ...........................................48
2.2.3. Trong áp dụng, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn ..................................51
2.2.4. Trong tổ chức điều tra, thu thập, củng cố chứng cứ chứng minh tội
phạm .................................................................................................................54
2.2.5. Trong kết thúc điều tra, đề nghị xử lý vụ án ...........................................60
2.3. Đánh giá chung về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên
và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự .............62
2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân của ưu điểm ...................................................62
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế ....................................................65
Kết luận chương 2 .................................................................................................70
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TỈNH
PHÚ YÊN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ .............................................71
3.1. Sự cần thiết tăng cường mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ

quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự ........................71
3.2. Một số giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự .............74


3.2.1. Nâng cao nhận thức của Kiểm sát viên và và Điều tra viên về vai trò và
mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra
tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự........................................................74
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện và thể chế hóa bằng văn bản pháp luật về mối quan
hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh trong
điều tra vụ án hình sự .......................................................................................78
3.2.3. Xây dựng cơ chế thực thi mang tính pháp lý về mối quan hệ giữa Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh trong điều tra vụ án
hình sự ..............................................................................................................85
3.2.4. Tăng cư ng ngu n nhân lực của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ
quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự ..................89
Kết luận chương 3 .................................................................................................99
KẾT LUẬN ............................................................................................................100


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
ANĐT
BCA
BLHS năm 2015

BLTTHS năm 2003

BLTTHS năm 2015


CAND
CQĐT
CQCSĐT
ĐTV
ĐTVAHS
KSV
TAND
TP
TTHS
UBND
VAHS
VKSND
VKSNDTC
XHCN

VIẾT ĐẦY ĐỦ
An ninh điều tra
Bộ Công an
Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11
năm 2015
Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26
tháng 11 năm 2003
Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam số 101/2015/QH13 ngày 27
tháng 11 năm 2015
Công an nhân dân
Cơ quan điều tra
Cơ quan cảnh sát điều tra

Điều tra viên
Điều tra vụ án hình sự
Kiểm sát viên
Tòa án nhân dân
Thành phố
Tố tụng Hình sự
Ủy ban nhân dân
Vụ án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật là cuộc đấu tranh gay
go, phức tạp và lâu dài, gắn liền với việc thực hiện các mục tiêu ổn định chính trị,
xã hội, phát triển kinh tế. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định đó là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp, là một cuộc đấu tranh toàn diện, đồng
bộ bằng nhiều biện pháp và trên mọi lĩnh vực, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật, các cơ quan
tư pháp giữ vai trò nòng cốt.
Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật luôn
đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ chung. Sự đòi hỏi này xuất phát từ nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà
nước ta, tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quyền lực Nhà nước ta tập
trung thống nhất ở Nhân dân, Nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Nhân
dân thực hiện quyền lực chủ yếu thông qua Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất

của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Quốc hội chủ yếu trực tiếp
giám sát các cơ quan Nhà nước ở Trung ương như Chính Phủ, Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân. Quốc hội phân công Viện kiểm sát nhân dân (sau đây gọi
tắt là VKSND) là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp;
Cơ quan cảnh sát điều tra (sau đây gọi tắt là CQCSĐT) thực hiện nhiệm vụ điều tra,
trực thuộc hệ thống hành pháp.
Trong tiến trình cải cách tư pháp, yêu cầu về việc tăng cường mối quan hệ
giữa VKSND và CQCSĐT luôn được đặt ra trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị
về cải cách tư pháp (Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp sắp tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020). Theo đó: “cần tăng cường
sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện
1


đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc
đùn đẩy trách nhiệm” [3, tr.4].
Trong những năm qua, VKSND và CQCSĐT đã nỗ lực không ngừng để đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác, trên thực tiễn đã đạt và vượt các chỉ tiêu của
Quốc hội giao về nâng cao tỷ lệ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố, tỷ lệ giải quyết án trong giai đoạn điều tra, truy tố; giảm tỷ lệ các vụ án phải
trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hạn chế đến mức thấp nhất số vụ án bị oan, sai hoặc
bỏ lọt tội phạm, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân…
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động điều tra của VKSND; công tác điều tra của CQCSĐT còn để xảy ra
tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội trong các lĩnh vực, hiện tượng oan, sai
vẫn còn tồn tại; án tồn đọng nhiều, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vẫn còn
bị xâm phạm… Trong đó có nhiều nguyên nhân từ chất lượng, hoạt động của
CQCSĐT, vai trò của VKSND cũng như mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT
trong điều tra vụ án hình sự (ĐTVAHS) chưa đảm bảo về chất lượng, hiệu quả.

Mặt khác, thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 đến nay, cho thấy, bên cạnh những
kết quả đạt được, cũng đã nảy sinh không ít những khó khăn, bất cập; Tiếp đó
BLTTHS năm 2015, Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 bị hoãn thi hành do còn
một số điều cần sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật và phù hợp với
tình hình mới. Vì vậy, để nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về bản chất, đặc trưng,
nội dung, hình thức và cơ chế đảm bảo thực hiện mối quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong
ĐTVAHS.
Từ thực tiễn mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú
Yên trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao tỷ lệ
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, hạn chế số vụ việc bị VKS hủy quyết định
khởi tố, không khởi tố hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung… Tuy nhiên, mối quan hệ

2


giữa hai cơ quan còn có lúc mang tính hình thức, một chiều, cơ chế phối hợp có lúc
còn chưa hiệu quả, còn nể nang, né tránh hoặc bỏ qua vi phạm dẫn đến chưa đạt
được chất lượng, yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm và bảo
đảm việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu, bổ sung và hoàn thiện cơ sở lý luận để nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn về
mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng.
Với ý nghĩa trên, Học viên chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án
hình sự” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS được nhiều tác giả,
nhà khoa học, thực tiễn quan tâm, nghiên cứu. Thời gian qua, ở nước ta đã có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT, trong
đó đáng chú ý là những công trình nghiên cứu sau đây:
- Sách chuyên khảo: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các Cơ
quan điều tra theo định hướng cải cách tư pháp”, GS.TS Nguyễn Ngọc, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, năm 2012.
Đây là cuốn sách chuyên khảo đề cập đến thực trạng và định hướng hoàn thiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra (CQĐT) theo định hướng cải
cách tư pháp, trong đó mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT chỉ là một nội dung trong
toàn bộ nội dung nghiên cứu. Tuy vậy, đây vẫn là một công trình có giá trị tham khảo
trong suốt quá trình thực hiện luận văn của tác giả.
- Sách chuyên khảo “Mối quan hệ giữa CQĐT với cơ quan tố tụng hình sự” của
PGS. TS Đỗ Ngọc Quang, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2004. Đây là cuốn
sách phân tích cơ sở pháp lý và mối quan hệ giữa CQĐT với VKSND và Tòa án
(TAND) cũng như mối quan hệ giữa CQĐT với các cơ quan, tổ chức hỗ trợ tư pháp
trong tố tụng hình sự (TTHS). Tuy nhiên, tác giả chưa chỉ ra được quan hệ chế ước

3


giữa CQĐT với VKSND được thể hiện cụ thể như thế nào, trách nhiệm cụ thể của
từng cơ quan đến đâu trong từng chế định…
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Vai trò của VKSND trong việc thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn ĐTVAHS theo tinh thần
Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị”, TS. Lê Hữu Thể, Viện Khoa học kiểm
sát, VKSNDTC, năm 2004.
Công trình khoa học này luận giải cơ sở pháp lý và vai trò của VKSND trong
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai
đoạn điều tra; đánh giá khái quát thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp trong những năm qua, tìm ra những nguyên nhân
của các kết quả và những mặt còn hạn chế. Tuy nhiên, đề tài chỉ mới tiếp cận từ
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của VKSND trong ĐTVAHS mà chưa nghiên
cứu, làm rõ quan hệ phối hợp, chế ước giữa VKSND và CQĐT thể hiện như thế nào
trong các hoạt động điều tra.
- Luận án tiến sĩ: “Quyền công tố ở Việt Nam” của Nghiên cứu sinh Lê Thị
Tuyết Hoa, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp Luật, năm 2002.
Tác giả đã tiếp cận và giải quyết một cách tương đối có hệ thống và toàn
diện vấn đề "Quyền công tố ở Việt Nam". Qua đó luận án cũng đã đề cập đến
mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong quá trình thực hiện quyền công tố,
tuy nhiên chỉ dừng lại góc tiếp cận từ phía VKSND và mối quan hệ giữa
VKSND và CQĐT không chỉ trong phạm vi thực hành quyền công tố mà còn
trong kiểm sát hoạt động tư pháp.
- Luận án tiến sĩ “Mối quan hệ giữa CQCSĐT với VKSND trong ĐTVAHS”
của Nghiên cứu sinh Đào Hữu Dân, Học viện Cảnh sát nhân dân, 2006.
Luận án đã đưa ra những kết luận khoa học về khái niệm, bản chất, đặc
trưng, nội dung và hình thức và những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
quan hệ giữa CQCSĐT với VKSND trong ĐTVAHS. Kết quả nghiên cứu của luận
án đã góp phần bổ sung và từng bước hoàn thiện lý luận chuyên ngành về quan hệ
phối hợp, chế ước trong điều tra tội phạm.

4


- Luận án tiến sĩ “Mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan an ninh điều tra và
VKSND trong điều tra vụ án do Cơ quan an ninh điều tra thụ lý từ năm 2004 đến
nay - Thực trạng và giải pháp” của Nghiên cứu sinh Nguyễn Khắc Thành, Học viện
An ninh nhân dân, 2012.
Đây là công trình khoa học đầu tiên của Bộ Công an nghiên cứu về quan hệ
giữa Cơ quan an ninh điều tra với VKSND một cách tổng thể trong điều tra các vụ

án do Cơ quan an ninh điều tra thụ lý cả trên phương diện thực tiễn và lý luận. Tuy
nhiên góc độ tiếp cận là mối quan hệ của Cơ quan an ninh điều tra với VKSND
trong điều tra các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, chưa phải là toàn diện, cụ thể
về mối quan hệ của CQĐT thuộc lực lượng Công an nhân dân với VKSND.
Ngoài những công trình nghiên cứu trên, còn có một số các bài viết đăng trên
các tạp chí chuyên ngành hoặc trên các kỷ yếu hội thảo khoa học, hội nghị chuyên
đề, có liên quan đến nội dung luận văn như:
- Tham luận "Chức năng công tố của VKNDS, mối quan hệ giữa việc thực
hiện quyền công tố với các hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử" của Tiến sĩ
Trần Đình Nhã tại Hội nghị khoa học "Tổ chức và hoạt động của VKSND trong
tình hình mới" do Ủy ban pháp luật của Quốc hội tổ chức tại thành phố Hồ Chí
Minh ngày 4/10/2001.
- “Hoàn thiện quy định về mối quan hệ giữa CQĐT và VKSND trong tố tụng
hình sự Việt Nam”, Nguyễn Tiến Sơn, Tạp chí Kiểm sát số 08/2012, VKSND tối cao…
Những bài viết nêu trên tuy không trực tiếp đề cập toàn diện đến mối quan hệ
giữa VKSND và CQCSĐT, nhưng cũng đã đề cập đến những khía cạnh thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND và CQCSĐT hoặc nêu vấn đề cần
thiết cần tăng cường quan hệ phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS.
Trên cơ sở đó, luận văn này tiếp cận trực tiếp, toàn diện mối quan hệ giữa
VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Bổ sung và làm rõ hơn những vấn đề lý luận
về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT như: Bản chất, đặc điểm, nội dung, hình
thức của mối quan hệ này… Làm rõ những đặc điểm mang tính đặc thù của mối
quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS ở Nhà nước xã hội chủ nghĩa

5


Việt Nam với nguyên tắc quyền lực nhà nước tập trung, thống nhất và có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong thực thi quyền lực của bộ máy
Nhà nước. Vì vậy, việc nghiên cứu để chỉ rõ đặc thù mối quan hệ giữa VKSND và

CQCSĐT, qua đó thấy được sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Mặt khác, mối quan hệ giữa VKSND
và CQCSĐT còn cần được xem xét trong mối quan hệ tương quan với các cơ quan
nhà nước khác trong cơ cấu tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước trên cơ sở quy
định của Hiến Pháp 2013, nhằm bổ sung lý luận khoa học pháp lý về mối quan hệ
của VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Qua đó phân tích, đánh giá và bổ sung
hoàn thiện những quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT trong ĐTVAHS.
Luận văn nghiên cứu mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT với tư cách là
VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền của mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật hiện hành, để xác định sự
phù hợp và những vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện để nâng cao chất lượng, hiệu
quả mối quan hệ giữa hai cơ quan, qua đó góp phần nâng cao chất lượng điều tra và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong ĐTVAHS.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa VKSND tỉnh và
CQCSĐT tỉnh Phú Yên, góp phần đảm bảo hoạt động điều tra được đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng, chống tội
phạm có hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Xác định vai trò của VKSND và CQCSĐT, trên cơ sở phân tích, đánh giá
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan này theo quy định của pháp

6



luật. Đồng thời, xác định rõ bản chất, đặc điểm, nội dung và hình thức của mối quan
hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS;
- Đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú
Yên; xác định những vấn đề thực tiễn đặt ra để giải quyết tốt quan hệ nêu trên trong
ĐTVAHS ở Phú Yên;
- Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa
VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú Yên, góp phần nâng cao chất lượng điều tra và
xử lý tội phạm ở Phú Yên trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú
Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh
Phú Yên trong ĐTVAHS thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT cấp tỉnh. Trong
đó, giai đoạn ĐTVAHS được tính bắt đầu từ thời điểm khởi tố vụ án đến khi kết
thúc điều tra, đề nghị xử lý và giải quyết vụ án. Tuy nhiên, hoạt động điều tra là một
quá trình liên tục, để bảo đảm cho việc nghiên cứu được toàn diện và phù hợp với
nhiệm vụ của CQCSĐT, cũng như nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn điều tra,
luận văn mở rộng vấn đề nghiên cứu, từ khi tiếp nhận, kiểm sát giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
- Về th i gian: từ năm 2013 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận
Nghiên cứu đề tài trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
về tổ chức bộ máy nhà nước, về quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong
ĐTVAHS.

7



Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu.
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin.
- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đánh giá.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn sau:
- Xây dựng các khái niệm, hệ thống hóa cơ sở lý luận về vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS; sự phối hợp, chế ước giữa hai
cơ quan này trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
- Xác định những đặc điểm mang tính đặc trưng; làm rõ bản chất, nội dung và
hình thức quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Đồng thời, kiến nghị
những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao nhận thức cho đội ngũ Kiểm sát viên
(KSV), Điều tra viên (ĐTV); không ngừng củng cố và hoàn thiện cơ chế thực thi mối
quan hệ giữa hai cơ quan tiến hành các hoạt động tố tụng trong ĐTVAHS theo quy
định của pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả quan hệ giữa VKSND tỉnh và
CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS trong thời gian tới.
- Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu ở
các cơ sở đào tạo thuộc VKSND, Cảnh sát nhân dân và các cơ sở đào tạo các chức
danh tư pháp khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Tình hình tội phạm và thực trạng mối quan hệ giữa Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án
hình sự
Chương 3: Giải pháp tăng cư ng mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân

tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự

8


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN CẤP TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA CẤP TỈNH
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều
tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự
1.1.1. Nhận thức chung về điều tra vụ án hình sự
Nhận thức về ĐTVAHS hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau và chưa có
sự thống nhất, cũng chưa được hướng dẫn, giải thích chính thức bởi cơ quan có
thẩm quyền. Trong BLTTHS, chưa có điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về
ĐTVAHS.
Theo từ điển Luật học thì “điều tra là công tác trong tố tụng hình sự (TTHS)
được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và
đầy đủ” [43, tr.59]. Tuy nhiên, nhận thức về điều tra theo cách hiểu này chưa xác
định được chủ thể tiến hành điều tra và cơ sở pháp lý để tiến hành ĐTVAHS.
Hoặc “ĐTVAHS là một giai đoạn TTHS, trong giai đoạn này cơ quan điều
tra áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người
phạm tội” [15, tr. 62]. Quan niệm này là phù hợp với công tác điều tra của CQĐT
trong giai đoạn ĐTVAHS. Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1 điều 65 BLTTHS
năm 2003 và điều 34 BLTTHS năm 2015, CQĐT không phải là chủ thể duy nhất có
thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra, chính vì vậy điều tra không phải chỉ
gồm hoạt động của CQĐT mà còn là hoạt động của một số cơ quan khác được giao
nhiệm vụ điều tra và hoạt động điều tra của VKSND.
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân thì: “ĐTVAHS là hoạt động điều
tra theo pháp luật TTHS của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra, nhằm xác định sự thật của vụ án, lập hồ sơ đề nghị
xử lý, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan
áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa” [44, tr.18].

9


ĐTVAHS là một quá trình áp dụng pháp luật rất phức tạp, được tiến hành
với mục đích làm rõ sự thật khách quan, toàn diện về vụ án hình sự (VAHS). Trong
giai đoạn điều tra, CQĐT được tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của
BLTTHS để thu thập chứng cứ, bao gồm chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác
định vô tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng và chứng cứ xác định tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can cũng như những chứng cứ xác định các
tình tiết khác của vụ án.
Theo quan điểm của tác giả, ĐTVAHS là hoạt động phát hiện, thu thập
chứng cứ theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định cho CQĐT và một số cơ quan
được giao nhiệm vụ điều tra tiến hành trong giai đoạn ĐTVAHS để xác định tội
phạm và ngư i thực hiện hành vi phạm tội.
Căn cứ vào quy định của BLTTHS và thực tiễn ĐTVAHS, có thể rút ra các
đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, ĐTVAHS được tiến hành công khai theo các trình tự, thủ tục và
theo những biện pháp do pháp luật TTHS quy định. Đặc trưng này cho phép phân
biệt với những biện pháp điều tra khác như trinh sát - là hoạt động nghiệp vụ được
tổ chức và tiến hành dưới hình thức bí mật để thu thập thông tin về tội phạm nhằm
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và nhanh chóng khám phá vụ án.
Thứ hai, ĐTVAHS thường ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, dân chủ của
công dân, quyền con người bị nghi thực hiện tội phạm do thường phải áp dụng các
biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét… Nếu hoạt
động điều tra không tuân thủ pháp luật sẽ tiềm ẩn nguy cơ xâm hại các quyền cơ
bản của công dân, quyền con người.

Thứ ba, ĐTVAHS là bộ phận hợp thành chức năng buộc tội của Nhà nước,
hỗ trợ cho cơ quan công tố thực hiện việc buộc tội và đưa vụ án ra Tòa xét xử.
Thứ tư, ĐTVAHS được thực hiện từ rất sớm, ngay từ khi tội phạm xảy ra, do
vậy nếu chủ động, tích cực, chính xác ngay từ giai đoạn đầu sẽ góp phần bảo đảm
cho hoạt động công tố, xét xử có căn cứ và ngược lại; nếu hoạt động điều tra thụ
động, chậm trễ, thiếu sót sẽ kéo theo những sai lầm của hoạt động công tố, xét xử.

10


Thứ năm, hoạt động truy tố, xét xử VAHS được thực hiện trên cơ sở đã có hồ
sơ, tài liệu phản án về tội phạm và người phạm tội, còn hoạt động điều tra bắt đầu từ
khi tìm kiếm tài liệu, chứng cứ. Do vậy, ĐTVAHS có vị trí, vai trò và ý nghĩa hết
sức quan trọng trong quá trình tìm kiếm chứng cứ buộc tội, nên đòi hỏi phải nhận
thức đầy đủ, đảm bảo nhanh chóng xác định tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm; Xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu
cầu các cơ quan và tổ chức hữu quan có biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.
Theo quy định BLTTHS năm 2003 thì chủ thể tiến hành điều tra là CQĐT
(cơ quan tiến hành tố tụng); Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và ĐTV (người
tiến hành tố tụng). Trên cơ sở đó, BLTTHS năm 2015 đã có sự thay đổi quan trọng
về việc nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tố tụng, khẳng định
CQĐT (là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng); Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
CQĐT và ĐTV (là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng). Đồng thời, Pháp lệnh
Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006 và năm 2009); Luật
Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 đã quy định CQĐT Công an nhân dân gồm:
CQCSĐT và Cơ quan an ninh điều tra (ANĐT). Thẩm quyền điều tra của các
CQĐT nêu trên được quy định trong BLTTHS năm 2003 và được cụ thể hóa trong
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006 và năm
2009), hiện nay được quy định trong BLTTHS năm 2015 và Luật Tổ chức CQĐT
hình sự năm 2015. Mặc dù hai văn bản pháp luật này đang bị lùi thời gian thi hành,

nhưng trong luận văn này vẫn đề cập đến những quy định mới nhất, có liên quan
của hai văn bản pháp luật trên để giúp làm sáng tỏ các vấn đề nêu ra.
Trong quá trình điều tra, CQĐT có quyền sử dụng những biện pháp được quy
định trong BLTTHS: tiếp nhận và xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố; áp dụng những biện pháp ngăn chặn; tiến hành các biện pháp điều tra cụ
thể; yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp tài liệu và trình bày những
tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
Trong quá trình điều tra, CQĐT có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật để
phát hiện, ghi nhận, mô tả, thu lượm, bảo quản dấu vết, tài liệu … Đồng thời được

11


phép huy động các lực lượng (các cơ quan, tổ chức, đoàn thể quần chúng, công dân)
tham gia vào hoạt động điều tra, giúp CQĐT giải quyết các yêu cầu cụ thể trong
điều tra vụ án, như: truy bắt thủ phạm; bảo vệ hiện trường, cấp cứu người bị nạn,
bảo vệ tài sản, hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại do tội phạm gây ra; truy tìm
những người làm chứng, người bị hại, vật chứng của vụ án; phát hiện thu thập
những tài liệu, chứng cứ của vụ án; giúp đỡ CQĐT về địa điểm, phương tiện vật
chất tạo điều kiện cho quá trình tổ chức và tiến hành các hoạt động điều tra…
Nhiệm vụ ĐTVAHS là xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm
tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các
cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Để thực
hiện đầy đủ nhiệm vụ này, hoạt động điều tra phải quán triệt các nguyên tắc sau đây:
chỉ có CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra được pháp luật quy định mới được phép tiến hành điều tra. Mọi hoạt động
điều tra phải tuân theo quy định trong BLTTHS và Pháp lệnh, Luật Tổ chức CQĐT
hình sự. Hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành một cách khách quan,
toàn diện và đầy đủ, phát hiện chính xác, nhanh chóng mọi hành vi phạm tội, làm rõ
những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người có hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội
phạm và không làm oan người vô tội.
1.1.2. Thẩm quyền của viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013, VKSND gồm VKSNDTC
và các VKSND khác do luật định. Cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp, Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 đã quy định: Hệ thống VKSND bao gồm: VKSNDTC;
VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; VKSND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; VKS quân sự các cấp.
Theo đó, tổ chức bộ máy của VKSND cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát;
Văn phòng; Các phòng và tương đương. VKSND cấp tỉnh có Viện trưởng, các Phó
Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác.
Việc tổ chức các phòng nghiệp vụ ở VKSND 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

12


ương là không giống nhau, nhưng về cơ bản có phòng (hoặc bộ phận) sau: Phòng
Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án kinh tế,
tham nhũng; Phòng Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử
sơ thẩm án an ninh và án ma túy; Phòng Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử phúc thẩm án hình sự; Phòng Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo
dục người chấp hành án phạt tù; Phòng Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự;
Phòng Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính - kinh tế - lao động và những
việc khác theo quy định của pháp luật; Phòng Kiểm sát thi hành án dân sự; Phòng
Khiếu tố.
Riêng đối với nhiệm vụ thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra án an
ninh, về cơ bản chỉ có VKSND thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một
số thành phố lớn khác tổ chức thành đơn vị cấp Phòng độc lập theo chuyên ngành.
Ở các địa phương khác, tùy tình hình Viện trưởng VKSND quyết định như ghép
chung việc kiểm sát án an ninh, án ma túy vào một phòng.

Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND, BLTTHS đều ghi nhận VKSND thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động ĐTVAHS, đây là
quyền năng hiến định của VKSND. Theo quy định tại Điều 23 BLTTHS năm 2003
và được điều chỉnh theo hướng tinh gọn về chức năng, nhiệm vụ của VKSND tại
điều 20 BLTTHS năm 2015 như sau:
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm
bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp
luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.
Vì vậy, các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đã có những kết luận rõ
hơn và mang tính định hướng hết sức quan trọng về trách nhiệm của VKSND trong
thực hành quyền công tố, đấu tranh phòng chống tội phạm ở giai đoạn điều tra.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách

13


tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ “Tăng cường trách nhiệm của cơ quan công tố trong
hoạt động điều tra” [3, tr.3]; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng tiếp tục khẳng định: “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” [13, tr.251]. Từ đó có thể thấy rằng, trong
giai đoạn ĐTVAHS, VKSND giữ một vai trò quan trọng, đảm bảo việc điều tra
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội. Vì vậy có thể khẳng định rằng “VKSND giữ vai trò chủ
đạo, quyết định trong các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp ở giai đoạn ĐTVAHS” [39, tr.153].
Thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong ĐTVAHS được thực hiện theo chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà BLTTHS quy định cho VKSND khi thực hành

quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn ĐTVAHS. Do giai đoạn điều tra
là một giai đoạn khởi đầu và phức tạp nên luận văn đã giới hạn việc nghiên cứu bắt
đầu khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến khi kết thúc
điều tra. Trên cơ sở đó, VKSND cấp tỉnh sẽ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà luật
định trong giai đoạn này tương ứng với những thẩm quyền cụ thể đề cập trong phần
chức năng, nhiệm vụ của VKSND.
Do BLLTHS năm 2003 không quy định thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố, để khắc phục bất cập này BLTTHS năm 2015 đã quy định nhiệm
vụ, quyền hạn của VKSND trong giai đoạn này và bổ sung một số quy định mới
trong khởi tố vụ án, ĐTVAHS cho phù hợp với thực tiễn.
Xét về phạm vi lãnh thổ, việc thực hiện thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh
trong giai đoạn ĐTVAHS được thực hiện dựa vào những vụ việc thuộc thẩm quyền
xét xử của TAND cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT
cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố
nước ngoài.

14


1.1.3. Thẩm quyền của cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án
hình sự
BLTTHS năm 1988 là văn bản pháp lý đầu tiên của nước ta quy định những vấn
đề mang tính nguyên tắc về CQĐT, tiếp đó Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm
1989 quy định hệ thống tổ chức của CQĐT Công an nhân dân (CAND) bao gồm hệ
thống CQĐT thuộc lực lượng cảnh sát nhân dân và an ninh nhân dân. Nhằm đáp ứng
yêu cầu của cải cách tư pháp theo hướng gắn kết hoạt động điều tra tố tụng và hoạt
động trinh sát, ngày 20/8/2004 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh tổ
chức điều tra hình sự năm 2004. Theo đó hệ thống CQĐT CAND vẫn gồm hai hệ

thống là CQCSĐT và ANĐT, trong đó hệ thống CQCSĐT gồm: CQCSĐT Bộ Công
an (BCA); CQCSĐT Công an cấp tỉnh ; CQCSĐT Công an cấp huyện.
Theo quy định mới của Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 hệ thống
CQCSĐT gồm: CQCSĐT Bộ Công an; CQCSĐT Công an tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; CQCSĐT Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
Căn cứ vào quy định của Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015, tổ chức bộ
máy của CQCSĐT Công an cấp tỉnh gồm có: Văn phòng CQCSĐT; Phòng Cảnh sát
điều tra tội phạm về trật tự xã hội (gọi tắt là Phòng Cảnh sát hình sự); Phòng Cảnh
sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ; Phòng Cảnh sát điều tra tội
phạm về ma túy; Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về buôn lậu, vận chuyển trái
phép hàng hóa qua biên giới, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, xâm phạm sở
hữu trí tuệ (gọi tắt là Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về buôn lậu).
Theo quy định tại điều 111 BLTTHS năm 2003 quy định: CQĐT trong
CAND điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra
của CQĐT trong Quân đội nhân dân và CQĐT của VKSNDTC… CQĐT có thẩm
quyền điều tra những VAHS mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong
trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc
thẩm quyền của CQĐT nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.

15


CQĐT cấp tỉnh điều tra những VAHS về những tội phạm thuộc thẩm quyền
xét xử của TAND cấp tỉnh, hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT
cấp dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Để cụ thể hóa những quy định này, Thông tư số 28/2014/TT-BCA ngày
7/7/2014 quy định về công tác điều tra hình sự trong CAND, đã quy định rõ thẩm
quyền của CQCSĐT cấp tỉnh như sau:
Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và

kiến nghị khởi tố; phân loại và chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền để giải
quyết; trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc
thẩm quyền giải quyết của CQCSĐT Công an cấp tỉnh; Tiến hành điều tra các vụ án
hình sự về các tội phạm quy định từ Chương XII đến Chương XXII của BLHS năm
1999 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh (trừ các tội
phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT của VKSNDTC và Cơ quan ANĐT
trong CAND); các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT cấp huyện
nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra…
BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi quan trọng về thẩm quyền của
CQCSĐT cấp tỉnh như sau: CQCSĐT cấp tỉnh ĐTVAHS về những tội phạm thuộc
thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra
của CQĐT cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ chức hoặc có
yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.
1.2. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát
điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Bản chất mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan
cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự
Trong triết học, phép duy vật biện chứng đã khẳng định các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan không tồn tại độc lập mà chúng tồn tại trong mối
quan hệ tác động qua lại và ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau. Các mối quan hệ này đã
được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người. Mối

16


quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT nói chung và cấp tỉnh nói riêng trong ĐTVAHS
không nằm ngoài quy luật này.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “mối quan hệ” là “sự gắn liền mặt nào đó giữa
hai hoặc nhiều sự vật khác nhau khiến sự vật này có biến đổi, thay đổi thì có thể tác

động đến sự vật kia” [44, tr.1361]. Như vậy, mối quan hệ giữa hai hoặc nhiều sự
vật hiện tượng trong xã hội thể hiện ở sự tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau
trong sự tồn tại và phát triển.
Trong quá trình tiến hành tố tụng giải quyết VAHS đã làm nảy sinh các mối
quan hệ giữa những cơ quan tiến hành tố tụng. Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng trong TTHS cũng không nằm ngoài
quy luật đó. Mặc dù, ở mỗi một giai đoạn TTHS đều có những cơ quan tiến hành tố
tụng chủ yếu với những chức năng và nhiệm vụ riêng. Tuy vậy, nó vẫn tồn tại mối
quan hệ chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng trong cả tiến trình giải quyết VAHS.
Mặt khác quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, các cơ quan tiến hành
tố tụng có mối quan hệ với nhau, trong đó VKSND và CQCSĐT có mối quan hệ rất
chặt chẽ; chất lượng, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan phụ thuộc rất lớn vào
mối quan hệ giữa hai chủ thể này. Đây là mối quan hệ tố tụng có tính phổ biến trong
giai đoạn đầu của quá trình tố tụng và có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ quá
trình TTHS.
Hơn nữa, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tồn tại như một tất yếu
khách quan của quá trình giải quyết vụ án nhưng nội dung mối quan hệ này lại biểu
hiện bản chất Nhà nước và pháp luật, mô hình TTHS, việc tổ chức thực hiện quyền
công tố và kiểm soát quyền lực trong TTHS được xác định trong Hiến pháp và mô
hình TTHS mỗi quốc gia. Ở những quốc gia mà bộ máy nhà nước đơn thuần tổ chức
theo nguyên tắc phân quyền, thì VKSND (Cơ quan công tố) là một cơ quan thuộc
nhánh quyền hành pháp có chức năng thực hành quyền công tố. Để thực hiện quyền
công tố, cơ quan công tố có trách nhiệm điều tra, chứng minh tội phạm bằng việc
trực tiếp điều tra hoặc chỉ đạo các cơ quan khác thực hiện các hoạt động điều tra.
Trong trường hợp này, mặc dù không trực tiếp tiến hành điều tra, nhưng cơ quan

17


công tố phải chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với các quyết định và hoạt động trong

việc điều tra vụ án. CQĐT hoặc những cơ quan khác chỉ được tiến hành các hoạt
động điều tra theo sự chỉ đạo của cơ quan công tố. Vì vậy, thông thường ở các nước
không hình thành CQĐT độc lập mà chỉ có bộ phận điều tra ở cơ quan công tố và
những người hoặc bộ phận được giao tiến hành một số hoạt động điều tra theo sự
chỉ đạo của cơ quan công tố. Một số nước ở cơ quan cảnh sát có những bộ phận
được giao tiến hành hoạt động điều tra và người được tiến hành hoạt động điều tra
có chức danh cảnh sát tư pháp. Tại Trung Quốc, mặc dù có thể chế chính trị tương
tự như nước ta nhưng cũng không thành lập CQĐT độc lập mà hoạt động điều tra
được giao cho những bộ phận ở Bộ công an, Bộ an ninh, Cảnh sát đường sắt và đặt
dưới sự chỉ đạo của VKS. Trong trường hợp này mối quan hệ giữa VKS và cơ quan
được giao tiến hành hoạt động điều tra là mối quan hệ phụ thuộc, các hoạt động
điều tra do các cơ quan khác tiến hành đều phụ thuộc và chịu sự chỉ đạo của cơ
quan công tố. Mối quan hệ phụ thuộc này thể hiện trên các phương diện sau: (1) Cơ
quan công tố có quyền hạn và chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả các hoạt động
điều tra; (2) Cơ quan công tố có thể trực tiếp tiến hành điều tra hoặc việc điều tra
được giao cho những cơ quan khác theo quy định của pháp luật; (3) Các cơ quan
khác được giao tiến hành hoạt động điều tra phải theo yêu cầu và chỉ đạo của cơ
quan công tố; (4) Cơ quan công tố không cần phải làm bản kết luận điều tra và
không có thêm quyền ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; (5) Hoạt động và
kết quả điều tra gắn liền với hoạt động truy tố của VKS.
Ở những nước có hệ thống CQĐT độc lập với VKS thì chức năng điều tra
được giao hẳn cho CQĐT thì mối quan hệ giữa VKS và CQĐT có nội dung khác.
Đó là mối quan hệ giữa hai cơ quan có chức năng riêng biệt trong quá trình tố tụng
giải quyết VAHS, thể hiện ở hai phương diện: (1) Mối quan hệ phối hợp trong quá
trình giải quyết vụ án. Do VKS và CQĐT là những cơ quan độc lập có chức năng
tố tụng khác nhau nhưng cùng hướng tới mục đích chung của TTHS nên việc phối
hợp là yêu cầu tất yếu; (2) Mối quan hệ chế ước: Quá trình tố tụng đòi hỏi bên cạnh
việc phát hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm nhưng đồng thời phải bảo đảm

18



×