MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có mối
quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân được quy
định trong Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật như: Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, các
thông tư liên ngành... Đặc biệt mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân
dân và Toà án nhân dân được đề cập trong Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nhấn mạnh: “tăng cường sự
phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ sở
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan,
không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Các cơ quan điều tra,
kiểm sát, xét xử cần thực hiện đúng thời hạn tố tụng như luật định”.
Trong thực tế mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án
nhân dân đã phát huy được sức mạnh tổng hợp về lực lượng, về biện
pháp và trí tuệ trong quá trình đấu tranh chống tội phạm và theo đúng
quy định của pháp luật, góp phần to lớn trong bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật.
Trong từng vụ án hình sự cụ thể còn có sự chưa thống nhất,
có những quan điểm khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án.
Những quan điểm chưa thống nhất thường thể hiện qua việc đánh giá
tính chất mức độ của hành vi, dấu hiệu tội phạm, từ đó dẫn đến việc
chưa thống nhất trong việc đánh giá chứng cứ, trong việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn, trong việc xác định tội danh và đánh giá tính
chất, mức độ, hậu quả của vụ án hình sự.
1
Về phương diện lý luận, làm sáng tỏ quan hệ giữa Viện kiểm
sát nhân dân với Tòa án nhân dân trong giải quyết các vụ án hình sự
là quan hệ theo việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Đây không phải là vấn đề mới, đã có nhiều đề
tài của các nhà nghiên cứu, nhìn chung các đề tài này đã đề cập đến
mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở nhiều góc
độ khác nhau. Bên cạnh những vấn đề đạt được, các đề tài đó vẫn còn
một số hạn chế nhất định về phạm vi, đối tượng nghiên cứu, khảo sát
thực tế và kết quả nghiên cứu… Ngoài ra trong thực tiễn công tác
từng nơi, từng lúc mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án diễn
biến hết sức tế nhị, thu hút sự chú ý và quan tâm của nhiều cán bộ
nghiên cứu cũng như những người trực tiếp tham gia đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Để góp phần nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa Viện kiểm
sát với Toà án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tác giả đã
chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án
nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng
Bình” làm luận văn Thạc sĩ luật học với mong muốn nghiên cứu góp
phần bổ sung lý luận khoa học cho công cuộc củng cố và hoàn thiện
mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Toà án nhân dân trong
giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều công trình khoa học, bài
viết, luận văn, luận án nghiên cứu về Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân với Tòa án nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên các góc độ khác nhau.
Ngoài ra còn nhiều bài báo, báo cáo khoa học viết về quan hệ
phối hợp giữa Viện kiểm sát, Tòa án với Lực lượng Cảnh sát điều tra
trong điều tra, truy tố, xét xữ các vụ án hình sự của các tác giã đăng
2
trên tạp chí của ngành Công an, tạp chí Viện kiểm sát, tạp chí Tòa án,
tạp chí Nhà nước và Pháp luật…
Do cách tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau, chưa có
công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện, phân tích sâu các giải
pháp để nâng cao hiệu quả quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và
Tòa án nhân dân trong một địa bàn cụ thể, nhất là trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận, và tìm hiểu hệ
thống những quan điểm của Đảng, quy định pháp luật của Nhà nước
về quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong
giải quyết các vụ án hình sự nhằm góp phần hoàn thiện lý luận, đồng
thời trên cơ sở khảo sát thực tế về mối quan hệ này trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình trong những năm gần đây. Từ lý luận và thực tiển để rút
ra được những kết luận cần thiết có cơ sở khoa học, để đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với
Tòa án nhân dân trong giải quyết các vụ án hình sự nói chung và trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về mối quan hệ
giữa Viện kiểm sát nhân dân với Tòa án nhân dân trong giải quyết
các vụ án hình sự, góp phần hoàn thiện lý luận về mối quan hệ trên.
+ Làm rõ cơ sở pháp lý và thực trạng quan hệ giữa Viện
kiểm sát nhân dân với Tòa án nhân dân trong giải quyết các vụ án
hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2012 đến hết năm 2016.
+ Làm rõ các yêu cầu nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa
Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân, từ đó đưa ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với
3
Tòa án nhân dân trong giải quyết các vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với
Tòa án nhân dân trong giải quyết các vụ án hình sự, thông qua hệ
thống pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật khác quy định về
hoạt động trong tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng, quy định về trách nhiệm phải quan hệ của các cơ quan
này trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự; nghiên cứu các báo
cáo tổng kết, sơ kết, hồ sơ các vụ án hình sự xét xữ đã có hiệu lực
pháp luật để làm rõ cơ sở thực tiễn và mối quan hệ này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Tòa án nhân
dân bao gồm quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước giữa Viện kiểm
sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong giai đoạn truy tố, xét xử các
vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 2012 đến hết năm
2016. Từ đó đưa ra những quan điểm, kiến nghị góp phần nâng cao
hiệu quả của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án
nhân dân.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm về cải cách
tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu
được sữ dụng là: Thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh; phương
pháp lịch sử; phương pháp đàm thoại; khảo sát thực tiễn,…
4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân và Toà án nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự. Các lý
luận trên có thể được sử dụng để vận dụng vào việc xây dựng quy
chế phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân với Tòa án nhân dân trong
đấu tranh phòng, chống tôi phạm. Bên cạnh đó có thể được sử dụng
trong công tác nghiên cứu, biên soạn tài liệu phục vụ cho công tác
bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thuộc các cơ quan tiến hành tố
tụng tại địa phương.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được vận dụng trong
quá trình thực hiện mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở
địa phương. Các giải pháp đưa ra trong luận văn để các Kiểm sát
viên, Thẩm phán có thể tham khảo, vận dụng để nâng cao hiệu quả
của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân
trong giải quyết vụ án hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được cơ cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa Viện
kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự.
Chương 2: Cơ sở pháp lý và thực trạng mối quan hệ giữa
Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân trong giải quyết vụ án
hình sự tại tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả quan
hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân trong giải quyết
vụ án hình sự.
5
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Tổng quan về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân trong giải quyết vụ
án hình sự
1.1.1. Tổng quan về nhiệm vụ chung của Viện kiểm sát
nhân dân và Toà án nhân dân
Theo nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước ta thì: Quốc
hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân là những cơ
quan trong bộ máy Nhà nước. Tuy mỗi cơ quan có chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn khác nhau do pháp luật quy định, song trong phạm
vi chức năng của mình thì Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân
dân có nhiệm vụ chung là:
Phòng ngừa và đấu tranh chống các loại tội phạm và các vi
phạm pháp luật khác; góp phần bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an
toàn xã hội; đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh; bảo
vệ công lý, bảo vệ Đảng cộng sản Việt nam, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân; bảo đảm trật tự ổn định chính trị xã hội tạo môi trường
thuận lợi để thực thi quá trình đổi mới và phát triển đất nước.
1.1.2. Tổng quan về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao
6
và các Viện kiểm sát khác do luật định có chức năng thực hành quyền
công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật .
Để thực hiện chức năng Nhà nước giao, Viện kiểm sát có
trách nhiệm thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm và người
có hành vi phạm tội. Căn cứ các quy định của pháp luật Viện kiểm
sát quyết định truy tố bị can ra Tòa án và bảo vệ việc truy tố đó tại
phiên tòa theo quy định của pháp luật.
Thực hiện quyền công tố là sử dụng các quyền năng pháp lý
để thực hiện việc buộc tội đối với người có hành vi phạm tội trong
giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Thực hành quyền công tố là chức
năng duy nhất của Viện kiểm sát.
Ngoài chức năng thực hành quyền công thì Viện kiểm sát
còn có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
1.1.3. Tổng quan về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Toà án nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự
Điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 quy định: “Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp”, “Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân”.
Qua những quy định của pháp luật về vị trí, chức năng và
nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân như đã
trình bày ở trên, đó chính là cơ sở pháp lý của mối quan hệ, đồng thời
cũng là những căn cứ chứng minh cho những đặc trưng cơ bản của
mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Toà án nhân dân trong
giải quyết các vụ án hình sự.
7
1.2. Khái niệm, đặc trưng, mục đích, yêu cầu và ý nghĩa
của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân
dân trong giải quyết vụ án hình sự
1.2.1. Khái niệm
Trên cơ sở vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Toà án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự
có thể đưa ra khái niệm về mối quan hệ này như sau: Mối quan hệ
giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân trong giải quyết vụ
án hình sự là mối quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau trong khi
thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên cơ sở quy
định của pháp luật nhằm giải quyết đúng pháp luật, nhanh chóng và
xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, bảo đảm đấu tranh
phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, bảo vệ công lý cũng như tôn trọng
và bảo vệ quyền con người.
1.2.2. Đặc trưng
Thứ nhất: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Toà án chỉ xuất
hiện từ khi có quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Thứ hai: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Toà án là sự
tác động, hỗ trợ lẫn nhau trên cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của từng cơ quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thứ ba: Mối quan hệ được tiến hành trên cơ sở các quy định
của pháp luật, mang tính bắt buộc phải thực hiện theo một trình tự
nhất định.
Thứ tư: Mối quan hệ được thực hiện giữa các cơ quan Nhà
nước, có vị trí pháp lý ngang bằng, cùng trong một hệ thống thuộc bộ
máy Nhà nước để thực hiện chức năng tư pháp.
Thứ năm: Mối quan hệ mang tính hỗ trợ, cùng nhau hoạt
động, nhưng vẫn mang tính chế ước kiểm tra lẫn nhau.
8
1.2.3. Mục đích
Thứ nhất: Tạo nên sức mạnh tổng hợp.
Thứ hai: Đảm bảo tôn trọng sự thật khách quan, toàn diện.
Thứ ba: Đảm bảo quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
hình sự diễn ra theo đúng trình tự.
Thứ tư: Làm rõ, chính xác, toàn diện về nguyên nhân, điều
kiện phát sinh tội phạm.
Thứ năm: Phòng, chống oan sai người không phạm tội.
Thứ sáu: Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội.
1.2.4. Yêu cầu
Trong quá trình thực hiện mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và
Toà án trong giải quyết các vụ án hình sự phải thực hiện nghiêm
chỉnh và triệt để các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa
- Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân
- Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
- Nguyên tắc cấp dưới chịu sự chỉ đạo về hành chính tư pháp
của cấp trên trong hoạt động tố tụng hình sự
- Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật
- Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự
1.2.5. Ý nghĩa
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Tòa án có tầm quan
trọng đặc biệt cho quá trình truy tố, xét xử các vụ án hình sự một
cách nhanh chóng, chính xác và khách quan, không để lọt tội phạm,
không làm oan người không phạm tội. Mối quan hệ trên chỉ chịu sự
điều chỉnh của các nguyên tắc tố tụng hình sự. Chính vì thế đòi hỏi
9
thủ trưởng, các thành viên của các chủ thể tham gia quan hệ phối hợp
phải có nhận thức đúng đắn về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của mình về tầm quan trọng của mối quan hệ phối hợp, có như thế
khi tham gia mối quan hệ phối hợp mới đem lại mục đích và hiệu quả
cao cho công tác này.
1.3. Nội dung, hình thức thực hiện mối quan hệ giữa Viện
kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân trong giải quyết vụ án
hình sự
1.3.1. Nội dung của mối quan hệ
Trong bất kỳ lĩnh vực tố tụng nào, giai đoạn xét xử cũng
được coi là giai đoạn quan trọng nhất, bởi đây là giai đoạn công khai
giải quyết các vấn đề về nội dung vụ án, quyết định đến các quyền cơ
bản của công dân. Để góp phần bảo đảm Toà án xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy
định Viện kiểm sát có vị trí, nhiệm vụ quan trọng: Vừa là cơ quan
thực hành chức năng công tố (thực hiện việc buộc tội) vừa là cơ quan
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Toà án…[24].
Khi thực hiện chức năng công tố tại phiên toà, Viện kiểm sát
căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, pháp luật hình sự, pháp luật
tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát,… bằng những hoạt động
nghiệp vụ của mình, Viện kiểm sát góp phần quan trọng cùng Toà án
làm sáng tỏ sự thật khách quan trọng vụ án hình sự, xử lý đúng
người, đúng tội, chống oan, sai, lọt người, lọt tội. Thông qua hoạt
động công tố ở giai đoạn xét xử Viện kiểm sát có quyền kiến nghị
các cơ quan, tổ chức, có biện pháp khắc phục, sửa chữa những sơ hở,
thiếu sót trong công tác quản lý, các nguyên nhân và điều kiện phát
sinh tội phạm.
1.3.2. Các hình thức quan hệ
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Toà án được thông qua
10
các phương thức như: Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
pháp luật hoặc thông qua việc thực hành quyền, nghĩa vụ trong tố
tụng hình sự; các phương thức khác.
Trong quá trình xét xử, Toà án không thể tuỳ tiện làm trái thủ
tục tố tụng, do đó pháp luật quy định Viện kiểm sát ngoài chức năng
công tố còn có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, đó là giám sát
việc tuân thủ của Hội đồng xét xử tại phiên toà, cũng như giám sát
hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền. Trong trường hợp vi
phạm thủ tục tố tụng tại phiên toà thì Kiểm sát viên có ý kiến trực
tiếp, ví dụ: Hội đồng xét xử không hỏi người tham gia tố tụng có ý
kiến về việc có yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng thì Kiểm sát
viên đề nghị Hội đồng xét xử hỏi. Mặt khác sau khi xét xử Viện kiểm
sát có quyền ban hành kiến nghị yêu cầu Toà án khắc phục những vi
phạm trong hoạt động xét xử… Qua đó giúp cho Toà án tránh được
những sai sót, vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế.
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TỈNH
QUẢNG BÌNH
2.1. Cơ sở pháp lý về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân và Toà án nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Tòa án nhân
dân trong giải quyết các vụ án hình sự được thực hiện trên cơ sở
những quy định của các văn bản pháp luật sau đây:
- Điều 2 Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
- Khoản 1 Điều 4 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sữa đổi
11
bổ sung năm 2009.
- Điều 17 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014
- Điều 8 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014
Tóm lại, mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Tòa án trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự được thể hiện ở các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành gồm: Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ
luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân và các văn bản dưới luật khác phù hợp với các quy
định của các văn bản pháp luật nêu trên.
2.2. Đặc điểm có liên quan và thực trạng mối quan hệ
giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân trong giải
quyết vụ án hình sự tại tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Đặc điểm có liên quan đến mối quan hệ giữa Viện
kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân tại tỉnh Quảng Bình
2.2.1.1. Về vị trí địa lý
2.2.1.2. Về dân cư
2.2.1.3. Về kinh tế xã hội
2.2.1.4. Về tình hình tội phạm hìn sự
2.2.2. Thực trạng mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân
dân và Toà án nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự tại tỉnh
Quảng Bình
2.2.2.1. Tổng quan về kết quả truy tố và xét xử các vụ án
hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
Trong những năm gần đây, kết quả thực hiện mối quan hệ
giữa Viện kiểm sát và Toà án đã có nhiều tiến bộ. Mặc dù số vụ án
hình sự mà Viện kiểm sát quyết định truy tố chuyển cho Toà án xét
xử ngày càng tăng, tuy nhiên tỷ lệ xét xử ngày càng cao, cơ bản khắc
phục được tình trạng án tồn động.
Từ năm 2012 đến hết năm 2016 không có trường hợp nào xử
12
oan người không phạm tội và không có vụ án nào bị huỷ do bỏ lọt tội
phạm.
2.2.2.2. Thực trạng quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và
Toà án nhân dân tại tỉnh Quảng Bình khi Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử và kiểm sát xét xử
Từ năm 2012 đến hết năm 2016, Viện kiểm sát nhân dân hai
cấp tỉnh Quảng Bình đã quyết định truy tố 2.601 vụ/ 4.685 bị can.
Trong giai đoạn truy tố, mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với
Tòa án được thực hiện chặt chẽ nhằm truy tố bị can đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật. Trách nhiệm chính trong mối quan hệ này thuộc
về cơ quan Viện kiểm sát.
Trong những năm qua, Viện kiểm sát các cấp đã quan tâm
đến việc kháng nghị nên số lượng và chất lượng kháng nghị đã
được nâng lên rõ rệt. Từ những kết quả trên có thể khẳng định rằng,
về cơ bản công tác thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát các
cấp trong giai đoạn xét xử của vụ án hình sự trong những năm gần
đây đã bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
hạn chế đáng kể tình trạng để lọt tội phạm và người phạm tội, bảo
đảm việc xét xử các vụ án hình sự được tiến hành theo quy định của
pháp luật dân chủ công minh, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của bị cáo, góp phần quan trọng trong việc đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm.
2.2.2.3. Thực trạng quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và
Toà án nhân dân tại tỉnh Quảng Bình khi Toà án xét xử vụ án
Trong quá trình chuẩn bị xét xử Tòa án đã phân công Thẩm
phán làm chủ tọa phiên tòa, chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử theo quy
định của pháp luật. Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán tiến
hành nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, xác định tính khách quan của
các chứng cứ, xác định tính lô gic của quá trình điều tra chứng minh
13
vụ án, xác định những căn cứ để đưa ra quyết định chính thức khi xét
xử đó là bản án.
Trong quá trình xét xử các vụ án hình sự, phần lớn các Kiểm
sát viên duy trì công tố tại phiên toà đã nắm vững hồ sơ chứng cứ và
các quy định của Bộ luật hình sự về tội danh và hình phạt; đã thực
hiện việc luận tội sắc bén và có hiệu quả. Các Kiểm sát viên đã nghiên
cứu đề xuất với Hội đồng xét xử mức hình phạt thoả đáng, nghiêm
minh đối với những bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng, những bị cáo tái phạm nguy hiểm, Viện kiểm sát các cấp đã phối
hợp cùng Cơ quan điều tra, Toà án xác định hàng trăm vụ án trọng
điểm, trong đó có nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng.
Tuy nhiên, trong thực tế trong mối quan hệ giữa Viện kiểm
sát với Toà án nhiều lúc diễn ra chưa được như mong muốn, làm ảnh
hưởng đến chất lượng xét xử.
Vì vậy, mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Toà án trong giai
đoạn xét xử, đặc biệt là tại phiên toà phải được diễn ra thống nhất. Sự
thống nhất được thể hiện trên cơ sở quy định của pháp luật, cụ thể là
tuân theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, nhằm mục đích
bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
2.2.2.4. Thực trạng quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và
Toà án nhân dân tại tỉnh Quảng Bình khi thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn khác trong giải quyết vụ án hình sự
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Tòa án tỉnh Quảng Bình
thời gian qua đã được thực hiện thường xuyên, chặt chẽ, trên cơ sỡ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi nghành theo luật định, tuân
thủ nghiêm chỉnh các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng
hình sự, và các văn bản quy phạm pháp luật khác của cấp trên ban
14
hành quy chế phối hợp giữa các nghành. Từ đó trong từng hoạt động,
từng giai đoạn cụ thể trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ đã đạt được
những kết quả quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm góp
phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ trật tự
pháp luật pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, góp phần thực
hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội tại địa phương.
2.2.2.5. Những tồn tại, hạn chế trong quan hệ giữa Viện kiểm
sát nhân dân và Toà án nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự tại
tỉnh Quảng Bình và nguyên nhân
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, mặt tồn tại còn khá phổ biến
là Kiểm sát viên kiểm tra hồ sơ vụ án chưa kỹ, chưa đầy đủ và đúng
với quy chế kiểm sát xét xử nên không phát hiện được thiếu sót, vi
phạm trong giai đoạn điều tra, truy tố dẫn đến số vụ án phải trả lại hồ
sơ điều tra bổ sung còn nhiều.
Năm 2012, Toà án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung 20 vụ/68
bị cáo [36]. Năm 2013, Toà án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung 16
vụ/27 bị cáo [37]. Năm 2014, Toà án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung
18 vụ/47 bị cáo [38]. Năm 2015, Toà án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ
sung 27 vụ/54 bị cáo [39]. Năm 2016, Toà án trả hồ sơ yêu cầu điều tra
bổ sung 13 vụ/25 bị cáo [40].
Việc thực hành quyền công tố tại phiên toà trong nhiều vụ án
còn kém hiệu quả, không chủ động phối hợp cùng Toà án đề làm rõ
hành vi phạm tội của bị cáo dẫn đến có trường hợp không bảo vệ
được cáo trạng, xác định không đúng tội danh hoặc đề nghị xử lý tội
phạm không đúng pháp luật, đề nghị cho hưởng án treo hoặc đề nghị
cải sửa án sơ thẩm thiếu căn cứ; việc kiểm sát chấp hành các thủ tục
tố tụng tại phiên toà còn bị xem nhẹ, nhiều trường hợp Kiểm sát viên
còn bỏ qua hoặc không phát hiện được vị phạm của Hội đồng xét xử
15
để yêu cầu khắc phục, còn bỏ lọt những bản án, quyết định của Toà
án có vi phạm nghiêm trọng nhưng không được kháng nghị.
Việc tham gia xét hỏi tại phiên toà của Kiểm sát viên còn
thiếu chủ động, chưa nhạy bén, Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ để
tham gia chưa dự kiến các tình huống xảy ra để đề ra nội dung tham
gia thẩm vấn nhất là đối với những vụ trong quá trình điều tra, truy tố
mà bị cáo không nhận tội hoặc chứng cứ còn có điểm chưa chắc.
Việc tranh luận vời người bào chưa và người tham gia tố
tụng khác tại phiên toà có lúc chưa đáp ứng yêu cầu. Còn xảy ra tình
trạng Kiểm sát viên sau khi luận tội xong cho là hết nhiệm vụ, nên ít
chú ý đến phát biểu của người bào chữa. Đáng lưu ý có trường hợp
lời bào chữa có những nội dung sai sự thật, khác với nội dung buộc
tội, nhưng Kiểm sát viên vẫn im lặng không tích cực tranh luận để
làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bác bỏ việc bào chữa sai trái.
Ngoài ra, ở nhiều vụ án khi tranh luận, Kiểm sát viên chưa chú ý vào
những vấn đề cơ bản đang còn những ý kiến khác nhau để đưa ra
những chứng cứ cụ thể đấu tranh, thuyết phục những quan điểm
không đúng của người bào chữa, mà nêu chung chung hoặc khẳng
định ngay là có đủ căn cứ như cáo trạng truy tố. Tình trạng một bộ
phận Kiểm sát viên chỉ quan tâm đến việc buộc tội bị cáo, không chú
trọng đúng mức việc phát hiện kịp thời những vi phạm của Toà án và
những người tham gia tố tụng để đề ra yêu cầu khắc phục hoặc có
phát hiện vị phạm nhưng lại nể nang, ngại va chạm, không yêu cầu
khắc phục, không kháng nghị, kiến nghị. Từ dó dẫn đến tình trạng
còn nhiều bản án quyết định của Toà án có vi phạm pháp luật bị Toà
án cấp trên cải sửa hoặc huỷ án. Tỷ lệ kháng nghị, kết luận của Viện
kiểm sát tại phiên toà phúc thẩm không được Hội đồng xét xử chấp
nhân còn cao.
Trong những năm qua, chất lượng xét xử tuy được nâng lên
16
song so với yêu cầu của Nghị quyết 08/NQ - TW ngày 02/01/2002 và
Nghị quyết số 49/NQ – TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về cải
cách công tác tư pháp nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, lúng túng
nhất là về hình thức tổ chức phiên tòa, phương pháp trình tự điều
hành phiên tòa của chủ tọa, chất lượng tham gia thẩm vấn của Hội
thẩm nhân dân, trong tranh luận của Kiểm sát viên còn hạn chế. Một
số vụ án trước khi đưa ra xét xử có sự trao đổi, bàn bạc với các
nghành về đánh giá tính chất, mức độ của vụ án cũng như yêu cầu
chính trị tại địa phương, nhưng diễn biến tại phiên toà vẫn còn lúng
túng.
Việc đề xuất mức xử phạt, loại hình phạt giữa Viện kiểm sát
và quyết định loại hình phạt, mức xử phạt của Tòa án còn chênh lệch
nhau quá lớn. Việc xét xử một số vụ án chưa nghiêm, chưa phù hợp
với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng chế định án treo
chưa chính xác, xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà
điều luật quy định chưa đúng, có bị cáo bị phạt cải tạo không giam
giữ nhưng không tuyên khấu trừ phần thu nhập không nêu rõ lý do.
Chất lượng xét xử một số vụ án (nhất là ở cấp huyện) còn thấp dẫn
đến cấp phúc thẩm xét xử cải sửa nhiều. Có vụ án truy tố, xét xử sai
thẩm quyền, vi phạm tố tụng, chứng cứ buộc tội không đủ buộc cấp
phúc thẩm phải hủy án để điều tra, truy tố, xét xử lại.
Việc quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung một số vụ
án còn biểu hiện chủ quan, nóng vội, thiếu căn cứ thuyết phục nhưng
chậm khắc phục, kéo dài tố tụng không cần thiết làm cho dư luận xã
hội không đồng tình.
Những hạn chế thiếu sót trong việc đảm bảo mối quan hệ
giữa hai ngành ở giai đoạn xét xử các vụ án hình sự tổng quát lại có
thể thấy toát lên những nguyên nhân chính sau đây:
- Nguyên nhân khách quan
17
+ Tình hình tội phạm trong nước nói chung, trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình nói riêng, diễn biến ngày càng phức tạp cả về tính chất,
mức độ nguy hiểm và thủ đoạn phạm tội. Công tác dự báo tình hình
tội phạm chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn nên còn bị động…
+ Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định cụ thể
trách nhiệm phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng vì thế nhận
thức về trách nhiệm trong việc phối hợp trong truy tố, xét xử các vụ
án hình sự chưa cao, chưa được đồng bộ, thống nhất ảnh hưởng trực
tiếp đến việc tổ chức thực hiện đấu tranh phòng và chống tội phạm.
+ Một số điều luật trong Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình
sự quy định còn chung chung, chưa cụ thể.
+ Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Viện kiểm
sát là cơ quan thực hành quyền công tố, nhưng chưa có những quy
định để đảm bảo cơ chế thực hiện chức năng này trong các giai đoạn
tố tụng, nhất là trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự.
+ Hệ thống biểu mẫu nhất là các biểu mẫu văn bản tố tụng
còn nhiều điểm bất hợp lý.
+ Biên chế, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
cán bộ Viện kiểm sát, Tòa án còn nhiều bất cập.
- Nguyên nhân chủ quan
+ Công tác tổ chức cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố
tụng nói chung và Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân nói riêng
còn hạn chế.
+ Nhiều cán bộ tiến hành tố tụng và chỉ đạo tố tụng chưa
quán triệt quan điểm đổi mới và cải cách tư pháp của Đảng đã được
thể chế nên chậm đổi mới tư duy và phương thức công tác, hình thức
tiến hành tố tụng vẫn theo nếp cũ và kinh nghiệm cũ nên chất lượng
tố tụng chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới.
+ Trách nhiệm của mỗi nghành trong phối hợp có nơi, có lúc
18
chưa đầy đủ, thiếu tính chủ động và chưa làm hết trách nhiệm vai trò
của mỗi ngành.
+ Tinh thần trách nhiệm của một bộ phận Thẩm phán, Kiểm
sát viên còn chưa cao.
CHƯƠNG 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ TOÀ ÁN
NHÂN DÂN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Các yêu cầu nâng cao hiệu quả quan hệ giữa Viện
kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân trong giải quyết vụ án
hình sự
3.1.1. Yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa
Trong mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Toà án phải luôn
đảm bảo yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu pháp chế xã hội
chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc rất quan trọng của pháp luật
tố tụng hình sự được quy định trong Hiến pháp 2013.
Theo đó, mối quan hệ giữa hai cơ quan phải tuân theo các
quy định của luật pháp, không được vì lợi ích cục bộ của hai cơ quan
mà có những hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích của Nhà nước, xã hội và công dân. Việc khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử đòi hỏi Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và Toà án phải thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan và phải được tiến
hành trên cơ sở có căn cứ, đúng pháp luật.
3.1.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp
Các nghị quyết của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49/NQ-TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đặt ra yêu cầu:
19
Nâng cao chất lượng công tác điều tra, đảm bảo việc khởi tố,
điều tra là có căn cứ đúng pháp luật, đảm bảo tỷ lệ điều tra khám phá
tội phạm cao, thời hạn điều tra giải quyết vụ án nhanh có hiệu quả,
tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội và hạn chế đến
mức thấp nhất tình trạng trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung.
Viện kiểm sát cần thực hiện tốt các chức năng công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra.
Khi xét xử, Toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan.
Tăng cường sự phối hợp giữa các Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của từng cơ quan, không hửu khuynh hoặc đùn đẩy trách
nhiệm.
3.1.3. Yêu cầu bảo vệ quyền con người
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Toà án trong giải quyết
các vụ án hình sự thường xuyên đụng chạm đến các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, trong khi chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta
luôn coi trọng con người và mọi hoạt động đều phục vụ lợi ích của
con người.
Yêu câu này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng phải đảm
bảo và tôn trọng các quyền, lợi ích cơ bản của công dân, nhất là
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại, quyền bất
khả xâm phạm về nơi ở, quyền được đảm bảo bí mật và an toàn thư
tín, điện thoại, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm. Vì vậy, trong mối quan
hệ giữa Viện kiểm sát và Toà án phải tôn trọng và đảm bảo các quyền
lợi của công dân, nhất là khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn liên
quan đến quyền, lợi ích của công dân như: “bắt, tạm giữ, tạm giam,
khám xét, kiểm tra thư tín điện tín, kê biên tài sản…”.
20
3.1.4. Yêu cầu của nguyên tắc điều tra, truy tố, xét xử kịp
thời, nghiêm minh, đúng pháp luật
Quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm phải đảm bảo
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mọi tình tiết của vụ án phải
được chứng minh, làm rõ đúng như thực tế đã xảy ra. Trong quá trình
thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ những người tiến
hành tố tụng phải có thái độ khách quan, không suy diễn chủ quan,
không định kiến mà có thái độ nghiêm túc, vô tư. Phải đảm bảo mọi
hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng,
công minh theo đúng pháp luật (Điều 3 Bộ luật hình sự năm 1999)
[25].
Quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều phải làm rõ tất cả các
tình tiết của vụ án trên mọi phương diện để phục vụ cho công tác
phòng ngừa và điều tra khám phá tội phạm.
Để đáp ứng được yêu cầu này, đòi hỏi những người tiến hành
tố tụng phải nắm vững pháp luật, có nghiệp vụ cao, có phẩm chất
nghề nghiệp, có tri thức xã hội và có phẩm chất đạo đức để vận dụng
sáng tạo những tri thức đó trong thực tiễn.
3.1.5 Yêu cầu của công tác phòng, chống tội phạm
Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong
những năm tới vẫn diễn biến phức tạp, gia tăng cả về số vụ phạm tội
và tính chất, mức độ phạm tôi rất nghiêm trọng.
Thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm sẽ ngày càng tinh
vi xảo quyệt, có sử dụng phương tiện khoa học công nghệ cao, có thể
có sự tham gia của tội phạm nước ngoài; tính tổ chức của tội phạm
ngày càng cao, sẽ gây khó khăn cho quá trình điều tra, xử lý tội
phạm. Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có Viện kiểm
sát và Toà án phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện
thuận lợi cho nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mới hoàn
21
thành được nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao phó.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ giữa Viện
kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân trong giải quyết vụ án
hình sự
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về quan hệ giữa
Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân trong giải quyết vụ án
hình sự
3.2.2. Ban hành các văn bản liên tịch về quan hệ giữa Viện
kiểm sát và Toà án trong giải quyết vụ án hình sự
3.2.3. Nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ và nhận thức bảo
đảm mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân
dân trong giải quyết vụ án hình sự đúng pháp luật
3.2.4. Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát
3.2.5. Nâng cao chất lượng xét xử của Toà án
KẾT LUẬN
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân
dân trong giải quyết các vụ án hình sự, là mối quan hệ bắt buộc và
hết sức quan trọng. Mối quan hệ giữa hai cơ quan này trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình đã từng bước đáp ứng được yêu cầu của quan hệ
phối hợp, chế ước lẫn nhau trong hoạt động tố tụng hình sự, và đã
phục vụ tốt yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, trên
thực tế đã có lúc, có nơi, có trường hợp giữa Viện kiểm sát với Toà
án đã nẩy sinh một số vướng mắc, bất cập làm ảnh hưởng không nhỏ
đến hiệu quả quan hệ, hậu quả có một số vụ án phải kéo dài thời gian
điều tra, truy tố, xét xử; thậm chí bỏ lọt tội phạm.
Trong Luận văn đã tiến hành nghiên cứu lý luận về mối
quan hệ giữa Viện kiểm sát và Toà án qua các văn bản pháp luật, các
22
tài liệu nghiên cứu chuyên đề. Nghiên cứu các văn bản quy định về
chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan. Qúa trình khảo sát
thực tế, nghiên cứu các báo cáo tổng kết, sơ kết, nghiên cứu hồ sơ các
vụ án lớn, trao đổi trực tiếp với lãnh đạo, cán bộ trực tiếp làm nhiệm
vụ trong Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân; trong đó tập trung
nghiên cứu về quá trình thực hiện mối quan hệ, những kết quả đã đạt
được và các sai sót, nguyên nhân tồn tại thiếu sót trong quá trình thực
hiện mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Toà án cả về lý luận và
thực tiễn trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trong những năm gần đây.
Luận văn cũng đã có những dự báo về tình hình tội phạm
trong những năm tới, quán triệt về cải cách tư pháp; những dự báo
này có thể chưa chính xác vì còn phụ thuộc vào các yếu tố khách
quan và chủ quan, phụ thuộc vào quá trình thực hiện các biện pháp
phòng ngừa, kết quả điều tra, xử lý các vụ án hình sự của các cơ quan
được giao nhiệm vụ chuyên trách phòng chống các loại tội phạm.
Qua đó luận văn cũng đưa ra một số giải pháp cơ bản, những giải
pháp đề cập đến vấn đề hoàn thiện hệ thống lý luận về mối quan hệ,
vấn đế hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, vấn đề tăng cường xây
dựng lực lượng, tăng cường trang bị phương tiện, vấn đề khắc phục
những tồn tại, thiếu sót trong thực hiện mối quan hệ giữa Viện kiểm
sát với Toà án trong giải quyết các vụ án hình sự.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo đã và đang từng
bước đưa đất nước phát triển bền vững trên trường Quốc tế, cải cách
tư pháp là vấn đề tất yếu để đảm bảo cho việc hội nhập và phát triển
đất nước. Điều đó đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có
Viện kiểm sát và Toà án phải nhận thức rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình để thực hiện có hiệu quả, nhưng phải thấy được
tầm quan trọng của sự phối hợp giữa hai cơ quan trong giải quyết các
vụ án hình sự, góp phần tích cực vào sự nghiệp giữ vững an ninh
23
quốc gia và trật tự an toàn xã hội tại địa phương cũng như trong
phạm vi cả nước.
Mỗi cán bộ trong Viện kiểm sát, Toà án phải nhận thức rõ
hơn trách nhiệm của mình, không ngừng học tập, rèn luyện để nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đồng thời phải rèn luyện phẩm
chất đạo đức để vận dụng một cách chủ động sáng tạo trong công tác
giải quyết các vụ án hình sự. Có như thế mới giữ vững được an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và
nhân dân giao phó.
Do điều kiện và khả năng nghiên cứu còn nhiều hạn chế, nên
không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, tác giã rất mong nhận
được sự đóng góp, xây dựng của các nhà khoa học và bạn đọc.
24