Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích nhà lãnh đạo chuyên nghiệp về tầm nhìn toàn cầu và hiểu biết sâu rộng về hội nhập kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.75 KB, 14 trang )

PHÂN TÍCH NHÀ LÃNH ĐẠO CHUYÊN NGHIỆP VỀ TẦM NHÌN TOÀN
CẦU VÀ HIỂU BIẾT SÂU RỘNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ

1. Trong điều kiện hiện nay, bất kỳ nhà lãnh đạo doanh nghiệp chuyên
nghiệp nào cũng phải có tầm nhìn toàn cầu và hiểu biết sâu rộng về hội nhập kinh tế
quốc tế.
2. Trước xu thế tự do hóa thương mại, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật
ngày càng được nhiều quốc gia sử dụng như là một công cụ hữu hiệu để bảo hộ sản
xuất trong nước.

1


MỤC LỤC

MỤC LỤC.............................................................................2
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU....................................................3
1. Trong điều kiện hiện nay, bất kỳ nhà lãnh đạo doanh nghiệp chuyên nghiệp nào
cũng phải có tầm nhìn toàn cầu và hiểu biết sâu rộng về hội nhập kinh tế quốc tế....3
1.1 Tác động của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.......................................3
1.2 Nhà lãnh đạo chuyên nghiệp...........................................................................6
1.3 Nhà lãnh đạo chuyên nghiệp trước hội nhập kinh tế quốc tế...........................8
2. Trước xu thế tự do hóa thương mại, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật ngày
càng được nhiều quốc gia sử dụng như là một công cụ hữu hiệu để bảo hộ sản xuất
trong nước.................................................................................................................9
2.1 Tính cấp thiết của việc đề ra các tiêu chuẩn kỹ thuật trước xu thế tự do hóa
thương mại............................................................................................................9
2.2 Phân loại về tiêu chuẩn kỹ thuật sử dụng trước xu thế tự do hóa thương mại
............................................................................................................................ 10
2.3 Mục đích của việc tiêu chuẩn kỹ thuật sử dụng trước xu thế tự do hóa thương
mại....................................................................................................................... 10


2.4 Hàng rào kỹ thuật trong tự do hóa thương mại..............................................10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................14

2


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Trong điều kiện hiện nay, bất kỳ nhà lãnh đạo doanh nghiệp chuyên nghiệp
nào cũng phải có tầm nhìn toàn cầu và hiểu biết sâu rộng về hội nhập kinh tế
quốc tế.
1.1 Tác động của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã dẫn đến một xu thế lớn đang
chi phối sự phát triển của thế giới hiện đại, đó là quá trình toàn cầu hóa. Xét về bản
chất toàn cầu hóa là quá trình gia tăng mạnh mẽ những mối liên hệ ảnh hưởng, tác
động lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị giữa các
quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Trong các nội dung trên thì toàn cầu hóa vừa
là trung tâm, vừa là động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa các lĩnh vực khác. Về
bản chất, toàn cầu hóa là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi
biên giới quốc gia và khu vực, tạo ra sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong
sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới hội nhập và thống nhất.
Tự do hóa các yếu tố của tái sản xuất xã hội mang tính toàn cầu được thể hiện
qua tự do hóa thương mại đang trở thành nội dung quan trọng của quá trình kinh tế
quốc tế. Mục tiêu của hầu hết các thể chế kinh tế thương mại song phương và đa
phương, đặc biệt là WTO, đều tập trung giải quyết vấn đề tiếp cận thị trường thông
qua các cam kết về tự do hóa thương mại. Đây là quá trình dỡ bỏ dần những cản trở
trong hoạt động thương mại, xóa bỏ sự phân biệt đối xử, tạo lập sự cạnh tranh bình
đẳng, nhằm làm cho hoạt động thương mại trên phạm vi quốc tế ngày càng tự do hơn
thông qua việc cắt giảm dần thuế quan; giảm bớt, tiến tới loại bỏ hàng rào phi thuế
quan, như hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, quản lý ngoại hối, phụ thu hàng

nhập khẩu, các loại lệ phí và nhiều cản trở vô hình khác; bảo đảm cạnh tranh công
bằng và không phân biệt đối xử.
Đẩy mạnh tự do hóa các hoạt động tài chính và đầu tư quốc tế được đẩy mạnh.
Toàn cầu hóa trong lĩnh vực tài chính được đẩy mạnh thông qua việc tự do hóa rộng
rãi các giao dịch tài chính quốc gia và phát triển các thị trường tài chính quốc tế,
hướng tới một thị trường tài chính mang tính toàn cầu. Tự do hóa tài chính bao gồm
các nội dung cơ bản, như: nới lỏng kiểm soát tín dụng; tự do hóa lãi suất; tự do hóa
tham gia hoạt động ngân hàng và các dịch vụ tài chính trên toàn thế giới, không phân
3


biệt biên giới; tự do hóa việc di chuyển của các luồng vốn quốc tế. Quá trình này dẫn
đến hệ thống các nền tài chính quốc gia hội nhập và tùy thuộc, tác động lẫn nhau ngày
càng mạnh mẽ.
Các doanh nghiệp tiếp cận được với đầu vào nhập khẩu rẻ hơn sẽ tạo điều kiện
giảm bớt chi phí, tăng khả năng cạnh tranh. Trong điều kiện Nhà nước thực hiện bảo
hộ đối với một ngành sẽ dẫn đến giá hàng hóa của ngành đó cao hơn so với thị trường
và vì thế những ngành có liên quan, đặc biệt là những ngành sử dụng sản phẩm của
ngành được bảo hộ làm nguyên liệu sản xuất sẽ phải chịu chi phí đầu vào lớn. Nhưng
nhờ việc bãi bỏ các rào cản đối với các luồng lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu
tư,... giá của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, kinh doanh trong điều kiện
cạnh tranh sẽ có xu hướng giảm do không phải/hoặc giảm bớt các chi phí cho việc
nhập khẩu. Do vậy, tự do hóa thương mại góp phần giảm chi phí và tăng năng lực
cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp. Thương mại tự do còn cho
phép các doanh nghiệp giảm các chi phí giao dịch, kinh doanh nhờ các nguyên tắc
chung được thống nhất.
Xét về mặt tích cực, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần nâng cao sức cạnh tranh
và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong tiến trình hội nhập, sự bảo
hộ của Nhà nước đối với doanh nghiệp sẽ phải giảm dần theo các cam kết quốc tế, làm
gia tăng mạnh mẽ áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, đây là một thách thức rất lớn, nhưng

cũng là cơ hội để doanh nghiệp tự vươn lên khẳng định mình. Bởi vì, việc giảm bớt sự
bảo hộ của Nhà nước sẽ tạo sức ép và động lực để các doanh nghiệp Việt Nam buộc
phải đổi mới quản lý, công nghệ, cải tiến sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh mới có thể tồn tại trên thị trường. Các doanh nghiệp có được
môi trường kinh doanh thuận lợi và ổn định kể cả trên thị trường thế giới và trong
nước. Các nguyên tắc, quy định của các tổ chức liên kết kinh tế quốc tế đều bảo đảm
cho các doanh nghiệp có được cơ hội tiếp cận thị trường xuất khẩu, đầu tư và sản xuất,
kinh doanh với các điều kiện ổn định, minh bạch và có khả năng dự đoán trước. Hội
nhập kinh tế quốc tế còn tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận
công nghệ, kỹ thuật hiện đại, học hỏi những kinh nghiệm quản lý sản xuất, kinh doanh
tiên tiến của các nước, từ đó góp phần nâng cao năng lực quản lý và sản xuất kinh
doanh. Về mặt lý thuyết, kinh tế quốc tế mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia. Tuy
nhiên, trên thực tế lợi ích của quá trình này phân chia không đều, nó phụ thuộc vào
4


khả năng cạnh tranh kinh tế của mỗi quốc gia. Nói cách khác, kinh tế quốc tế dẫn đến
sự phân phối không công bằng các cơ hội và lợi ích kinh tế giữa các khu vực, quốc gia
và từng nhóm dân cư. Vì vậy, nó làm gia tăng thêm tình trạng bất bình đẳng, làm sâu
sắc thêm sự phân hóa giàu nghèo giữa các quốc gia.
Xét về mặt tiêu cực, kinh tế quốc tế có thể mang đến những tác động xấu tới
nền kinh tế các quốc gia, kể cả quốc gia giàu lẫn nghèo. Bởi vì, nó đưa đến tình trạng
cạnh tranh gay gắt, nảy sinh vấn đề phá sản, thất nghiệp, làm trầm trọng thêm các vấn
đề về lao động, xã hội. Xu hướng kinh tế quốc tế càng phát triển thì tỷ lệ thất nghiệp
lại càng gia tăng ở một số quốc gia. Phong trào chống lại toàn cầu hóa đang diễn ra
khá mạnh mẽ, nhất là nhóm dân cư chịu nhiều tác động tiêu cực của quá trình kinh tế
quốc tế, như nông dân, các chủ trang trại...
Các nước đang phát triển hiện đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng
khốc liệt và không bình đẳng trong các quan hệ kinh tế - thương mại. Tham gia tự do
hóa thương mại buộc tất cả các nước phải chấp nhận "luật chơi" tự do cạnh tranh,

nghĩa là phải mở cửa thị trường, dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối
với hàng hóa và dịch vụ nước ngoài, loại bỏ các hạn chế đầu tư. Trong điều kiện hầu
hết các nền kinh tế của các nước đang phát triển còn đang ở một trình độ thấp kém thì
chính sự tự do cạnh tranh này đặt họ trước những thách thức vô cùng to lớn.
Kinh tế quốc tế mở ra cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, song chính
điều đó lại bao hàm khả năng phụ thuộc rất lớn vào bên ngoài của các quốc gia. Mức
độ phụ thuộc này thể hiện trên hai chỉ tiêu chính là tỷ trọng thương mại trong tổng
GDP và tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài, nhất là vốn ngắn hạn trong tổng vốn đầu tư phát
triển. Sự lệ thuộc này dồn các nước vào tình thế phải đối mặt với nhiều rủi ro do biến
động thị trường, giá cả, thậm chí cả các sự cố về xung đột chính trị, sắc tộc ở một nơi
nào đó trên thế giới.
Các doanh nghiệp sẽ phải chịu gia tăng sức ép cạnh tranh của hàng hóa nhập
khẩu và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài ngay tại thị trường nội địa. Bởi vì, khi
hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, thị trường nội địa phải "mở cửa", các rào
cản thuế quan cũng như phi thuế quan bị giảm bớt và loại bỏ, các doanh nghiệp nước
ngoài được tự do tham gia buôn bán, cung cấp hàng hóa, dịch vụ như doanh nghiệp
trong nước trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử. Bên cạnh đó, các hình thức
hỗ trợ truyền thống rất phổ biến của Nhà nước cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế
5


bao cấp như: trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu ưu đãi, thưởng xuất khẩu, độc
quyền kinh doanh... cũng phải từng bước cắt giảm, xóa bỏ. Trong khi các hàng hóa,
dịch vụ nhập khẩu do nước ngoài cung cấp đa dạng, phong phú với chất lượng và giá
cả thấp hơn, các nhà cung cấp "trường vốn" hơn và dày dạn kinh nghiệm trong cạnh
tranh quốc tế, chưa nói tới tâm lý chung của người tiêu dùng vẫn chủ yếu là "sính
hàng ngoại". Nhiều doanh nghiệp trong nước có nguy cơ bị mất thị phần của mình,
thậm chí bị phá sản.
Khó khăn rất lớn đối với các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập là khả năng
cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu so với các

nước trong khu vực và thế giới. Điều này được phản ánh ở hàm lượng tri thức và công
nghệ trong sản phẩm thấp, yếu tố vốn trong cơ cấu giá thành sản phẩm không cao, chủ
yếu dựa vào yếu tố lao động hoặc điều kiện tự nhiên, trong khi lợi thế về lao động
hiện nay đang giảm dần. Chất lượng hàng hóa, dịch vụ nhìn chung chưa tốt; chưa đa
dạng phong phú về chủng loại; chưa có sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ nào có ưu thế
rõ rệt trên thị trường thế giới nhờ vào chất lượng và thương hiệu mạnh...
1.2 Nhà lãnh đạo chuyên nghiệp
Nhà lãnh đạo chuyên nghiệp là người hội tụ các đặc điểm:
Nhà lãnh đạo chuyên nghiệp là người luôn có tầm nhìn xa. Một tầm nhìn xa sẽ
giúp lãnh đạo vạch trước những chiến lược hoạt động dài hạn, dự đoán trước những
biến động có thể xảy ra trong tương lai để chuẩn bị,tìm cách thích nghi và đón đầu cơ
hội. Họ là người biết đánh giá dựa trên năng lực và kết quả công việc. Họ sẽ dùng con
số, sự kiện, thành tích… làm thước đo chứ không phải bằng những con đường khác
Nhà lãnh đạo chuyên nghiệp là người biết cách tạo lập mối quan hệ. Đây là yếu
tố cơ bản nhất của người lãnh đạo chuyên nghiệp. Họ phải biết tạo dựng mối quan hệ
tốt với người khác, tạo cho họ sự tin tưởng và truyền tải đến họ những lí do thật sự
thuyết phục. Chìa khóa thành công chính là thiết lập các mối quan hệ, chấp nhận cả
những khác biệt và tạo sự tin tưởng lẫn nhau. Để tạo sự tin tưởng là rất khó bởi cần
phải có thời gian, thành quả cụ thể. Vì vậy, cần kiên nhẫn, đừng bao giờ ảo tưởng rằng
mọi việc sẽ thành công chỉ trong ngày một ngày hai.
Nhà lãnh đạo chuyên nghiệp là người có định hướng mục tiêu cụ thể. Mọi nỗ
lực quản lý của nhà lãnh đạo chuyên nghiệp đều trở thành vô nghĩa nếu như họ không
có mục tiêu rõ ràng. Nói cách khác, nếu như họ không biết lái con tàu của mình đi về
6


đâu, cho dù nhà lãnh đạo đó có cố đến mấy thì vẫn là vô dụng. Bởi vậy, nhà lãnh đạo
nên xác định mục tiêu của nhóm, của phòng hay của toàn công ty trước khi bắt tay vào
công việc của một người lãnh đạo. Thực tế, điều này không có gì là khó hiểu bởi một
khi biết được định hướng, mục đích cụ thể, nhà lãnh đạo sẽ đưa ra được chiến lược

phù hợp, tạo động lực để mọi người cùng phấn đấu.
Nhà lãnh đạo chuyên nghiệp là người phong phú về kỹ năng. Họ hiểu rõ hơn ai
hết tầm quan trọng của những kỹ năng mềm. Do đó, trong họ luôn sẵn sàng các kỹ
năng cho từng công việc cụ thể trong từng hoàn cảnh cụ thể: Kỹ năng lập kế hoạch
chiến lược, tố chức, thiết lập mục tiêu, phân tích và ra quyết định, giải quyết vấn đề,
giao tiếp truyền thông tin một cách hiệu quả, kỹ năng viết lách, trình bày thuyết trình
một cách xuất sắc, quản lý thời gian…Một nhà lãnh đạo chuyên nghiệp luôn biết cách
quản lý stress (căng thẳng ) để cân bằng cuộc sống và công việc….
Nhà lãnh đạo chuyên nghiệp là người có nhiều kinh nghiệm. Không người nào
lại có nhiều kinh nghiệm nhờ sự trải nghiệm từ thực tế bản thân như một nhà lãnh đạo.
Con đường từ một lãnh đạo bình thường để trở thành một lãnh đạo chuyên nghiệp
không phải dễ dàng, không đơn giản cứ có nhiều tiền, nhiều bằng cấp học vị cao hoặc
“sống lâu lên lão làng" là có thế trở thành một lãnh đạo chuyên nghiệp. Một lãnh đạo
chuyên nghiệp đã phải không ngừng cố gắng học hỏi và trải nghiệm từ vị trí thấp đến
vị trí cao, từ qui mô nhỏ đến qui mô lớn, từ đơn giản đến phức tạp và từ thất bại đến
thành công…Từng kinh nghiệm được các nhà lãnh đạo phân tích, rút tỉa và đúc kết
thành giá trị tri thức của một nhà lãnh đạo chuyên nghiệp. Họ đã biến những suy nghĩ,
hành động, sự trải nghiệm tích cực thành những hành động tích cực trong vai trò là
người thuyền trưởng dẫn đường.
Nhà lãnh đạo chuyên nghiệp là người có thái độ sống và làm việc tích cực. Một
nhà lãnh đạo chuyên nghiệp khác với một nhà lãnh đạo giỏi. Một lãnh đạo giỏi có thể
điều hành một công ty phát triển, lợi nhuận cao nhưng chưa chắc việc kinh doanh có
ích cho xã hội và còn làm tổn hại đến xã hội. Nhưng một nhà lãnh đạo chuyên nghiệp
không những giỏi về chiến lược, quản trị, kinh doanh tốt mà còn có thái độ sống tích
cực, có ích cho cộng đồng và có trách nhiệm với xã hội. Họ kinh doanh vì triết lý
“mục đích cao cả nhất của kinh doanh không nằm ở việc tích lũy tài sản mà là ở việc
tạo ra lợi ích cho tất cả mọi người”.

7



1.3 Nhà lãnh đạo chuyên nghiệp trước hội nhập kinh tế quốc tế
Trong điều kiện hiện nay, bất kỳ nhà lãnh đạo doanh nghiệp chuyên
nghiệp nào cũng phải có tầm nhìn toàn cầu và hiểu biết sâu rộng về hội nhập kinh tế
quốc tế. Ngày nay, khi nền kinh tế đang ngày càng phát triển trong bối cảnh toàn cầu
hóa, một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường cần có chiến lược kinh doanh
phù hợp. Và để thành công hơn nữa, đã đến lúc các doanh nghiệp phải đổi mới chiến
lược kinh doanh - đổi mới trong tư duy và định hướng về lĩnh vực, địa bàn, cách thức
và các nguồn lực kinh doanh để cạnh tranh, tồn tại và phát triển hơn nữa. Đại đa số
các doanh nghiệp đều coi việc xây dựng chiến lược kinh doanh là một trong những
nhiệm vụ hàng đầu. Lãnh đạo các doanh nghiệp lớn hàng năm dùng đến 40% thời gian
để nghiên cứu nhằm đưa ra chiến lược kinh doanh phù hợp cho doanh nghiệp mình.
Nếu một doanh nghiệp không đổi mới có nghĩa là doanh nghiệp đang đứng im trong
dòng chảy của thời đại. Một doanh nghiệp không chịu thay đổi, không đầu tư cho sáng
tạo chắc chắn sẽ bị tụt hậu so với các doanh nghiệp khác và so với nhu cầu ngày càng
cao của xã hội. Khi đó, những cơ hội sẽ dần vụt qua, và doanh nghiệp chẳng mấy chốc
sẽ tụt hậu và sớm bị đào thải khỏi thương trường khốc liệt.
Đồng thời, chiến lược kinh doanh cũng liên quan tới tầm nhìn và mục đích của
doanh nghiệp - bởi chiến lược về bản chất là việc hoạch định hướng đi nhắm đến mục
tiêu đã đặt ra. Về tầm nhìn, mục tiêu mỗi doanh nghiệp lại có sự khác biệt - có doanh
nghiệp coi mục tiêu trọng tâm là tăng doanh thu, giành thị phần trên thị trường; có
doanh nghiệp lại lựa chọn tăng lợi nhuận... bởi vậy chiến lược kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp cũng sẽ khác biệt. Một doanh nghiệp lựa chọn lợi nhuận cao là mục tiêu
chiến lược sẽ tập trung vào phục vụ các nhóm khách hàng hay phân khúc thị trường
đem lại lợi nhuận cao bằng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hoặc hiệu suất chi phí
vượt trội. Ngược lại, nếu lựa chọn mục tiêu tăng trưởng thị phần, doanh nghiệp phải
đa dạng hóa dòng sản phẩm để thu hút các khách hàng ở nhiều phân đoạn thị trường
khác nhau. Tuy nhiên qua đây có thể thấy, đổi mới chiến lược kinh doanh phải theo
định hướng, tầm nhìn, mục tiêu đặt ra; nhưng trong trường hợp cần thiết, có thể phải
xem xét điều chỉnh lại tầm nhìn, mục tiêu cho phù hợp.

Có thể lãnh đạo doanh nghiệp Việt phải đổi mới chiến lược kinh doanh để có
hình thái tổ chức cũng như phương thức kinh doanh mới mẻ, thích ứng với thời đại

8


mới; nhưng trong bối cảnh đầy biến động như hiện nay, cần chú ý đến năng lực cốt lõi
và các giá trị nền tảng cơ bản bất biến của doanh nghiệp.
Lãnh đạo doanh nghiệp cần phải biết cân bằng những áp lực ngắn hạn để cho
thấy kết quả ngay trong khi vẫn giữ liên kết với tầm nhìn dài hạn và đặc biệt cần duy
trì sự tập trung không ngừng vào khách hàng. Bất kỳ sự thay đổi chiến lược kinh
doanh nào cũng phải được xây dựng dựa trên việc xác định và hiểu biết đúng đắn về
nhu cầu của khách hàng. Khi đã xác định đúng đối tượng khách hàng chính, lãnh đạo
doanh nghiệp có thể tập trung các tài nguyên hiện có cần thiết để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng và giảm thiểu lượng tài nguyên dành cho những đối tượng khác. Điều này
sẽ mang lại thành công nhờ lợi thế cạnh tranh.
Cuối cùng, một vấn đề nữa cần phải xem xét - đó là những điều kiện để đổi
mới chiến lược kinh doanh thành công. Những yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo sự
thành công của đổi mới chiến lược là: phải thích ứng với nhu cầu thị trường cũng như
năng lực riêng của từng doanh nghiệp, đồng thời có tính ưu việt về kỹ thuật, và sự
cam kết, ủng hộ của Ban lãnh đạo doanh nghiệp.
2. Trước xu thế tự do hóa thương mại, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật ngày
càng được nhiều quốc gia sử dụng như là một công cụ hữu hiệu để bảo hộ sản
xuất trong nước.
2.1 Tính cấp thiết của việc đề ra các tiêu chuẩn kỹ thuật trước xu thế tự do hóa
thương mại
Trong nhiều năm gần đây, ngày càng có nhiều quốc gia áp dụng các quy định,
tiêu chuẩn kỹ thuật trong các hoạt động thương mại quốc tế. Điều đó có tác dụng to
lớn trong bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng về sự an toàn trong sử dụng, tiêu thụ
sản phẩm thông qua chất lượng sản phẩm tiêu dùng được đảm bảo. Xuất phát từ tác

dụng to lớn này, các quốc gia đã và đang tăng cường xây dựng và thực hiện một chính
sách bao gồm các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng trong hoạt động thương
mại trong nước cũng như thương mại quốc tế.
Khi một quốc gia muốn xuất khẩu sản phẩm của nước mình ra nước ngoài,
ngoài việc sản phẩm đó đáp ứng được các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật trong nước
còn phải phù hợp với các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước nhập khẩu.
Đây mới chính là yếu tố quyết định đến việc sản phẩm của quốc gia đó có xuất khẩu
được hay không cũng như có thể được thị trường nước nhập khẩu chấp nhận hay
9


không. Điều này đã làm nảy sinh yêu cầu cần có sự phù hợp, tương thích giữa các quy
định, tiêu chuẩn kỹ thuật của các quốc gia khác nhau. Để đạt được sự tương thích cần
thiết giữa các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước khác nhau đòi hỏi chi phí rất
lớn như: Chi phí dịch thuật các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật của nước ngoài; chi phí
thuê chuyên gia kỹ thuật nước ngoài để giải thích, giảng giải về các quy định, tiêu
chuẩn kỹ thuật đó; chi phí điều chỉnh sản phẩm trong nước sao cho phù hợp với các
quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật nước ngoài… Ngoài ra, nhà sản xuất còn phải chứng
minh được sản phẩm của mình đáp ứng được yêu cầu của các quy định, tiêu chuẩn kỹ
thuật. Tất cả những chi phí, thủ tục trên đều đòi hỏi nhà sản xuất phải bỏ ra một chi
phí rất lớn cũng như tiêu tốn rất nhiều thời gian. Thậm chí, những chi phí này còn tăng
lên rất nhiều khi xuất khẩu sản phẩm sang nhiều nước nhập khẩu khác nhau do mỗi
một quốc gia lại ban hành và áp dụng một bộ quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật riêng.
2.2 Phân loại về tiêu chuẩn kỹ thuật sử dụng trước xu thế tự do hóa thương mại
+ Các quy định kỹ thuật. Đó là những quy định mang tính bắt buộc đối với các
bên tham gia. Điều đó có nghĩa nếu các sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng được các
quy định kỹ thuật sẽ không được phép bán trên thị trường.
+ Các tiêu chuẩn kỹ thuật. Ngược lại với các quy định kỹ thuật, các tiêu chuẩn
kỹ thuật được đưa ra chủ yếu mang tính khuyến nghị, tức là các sản phẩm nhập khẩu
được phép bán trên thị trường ngay cá khi sản phẩm đó không đáp ứng được các tiêu

chuẩn kỹ thuật.
+ Các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn. Các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn là các
thủ tục kỹ thuật như: Kiểm tra, thẩm tra, thanh tra và chứng nhận về sự phù hợp của
sản phẩm với các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật.
2.3 Mục đích của việc tiêu chuẩn kỹ thuật sử dụng trước xu thế tự do hóa thương mại
 Bảo vệ sức khỏe và an toàn cho người tiêu dùng.
 Bảo vệ đời sống của động thực vật.
 Bảo vệ môi trường.
 Ngăn chặn các thông tin không chính xác.
 Các mục đích khác liên quan đến các quy định về chất lượng, hàng hóa
 Mục đích chính trị quốc gia,…
2.4 Hàng rào kỹ thuật trong tự do hóa thương mại
10


Đứng trước xu thế toàn cầu hóa, hàng rào thuế quan không còn tác dụng, để có
thể bảo hộ sản xuất trong nước cũng như có thể cạnh tranh với nền kinh tế quốc tế, các
quốc gia đã sử dụng hàng rào thuế quan và phi thuế quan để ứng phó với các tác động
tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa.
Thuế quan là tên gọi chung chỉ các sắc thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu. Thuế quan ra đời với 2 mục đích chính là: góp phần đảm bảo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước; và bảo hộ sản xuất trong nước. Bằng cách đánh thuế cao vào
hàng hóa nhập khẩu, nhà nước tạo áp lực tăng giá bán của hàng hóa nhập khẩu, qua
đó, giúp các nhà sản xuất trong nước có lợi thế trong cạnh tranh về giá với hàng hóa
nhập khẩu. Như vậy, thuế quan chính là hàng rào mang tính chất kinh tế đối với hàng
hóa nhập khẩu.
Bên cạnh hàng rào thuế quan, hàng hóa nhập khẩu từ quốc gia này vào quốc
gia khác còn có thể phải đối mặt với các hàng rào phi thuế quan. Dưới tác động của xu
thế toàn cầu hóa, hàng rào thuế quan tỏ ra không còn tác dụng, các quốc gia bắt đầu
chú trọng đến hàng rào phi thuế quan, trong đó đặc biệt coi trọng các quy định về tiêu

chuẩn kỹ thuật. Hàng rào phi thuế quan được hiểu là các cách thức ngăn chặn hoặc
gây trở ngại cho hàng hóa nhập khẩu nhưng không phải là đánh thuế nhập khẩu. Hàng
rào phi thuế quan có 2 nhóm chính là: hàng rào hành chính và rào cản kỹ thuật.
Thứ nhất, hàng rào hành chính là các quy định có tính chất mệnh lệnh hành
chính nhà nước nhằm ngăn chặn hoặc hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu. Hàng rào hành
chính bao gồm các quy định pháp luật về cấm nhập, cấm xuất, giấy phép, hạn ngạch
(quota), hạn chế xuất khẩu tự nguyện, tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc. Cụ thể:
- Cấm nhập hoặc cấm xuất là những quy định pháp lý mà một quốc gia không
cho phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu những hàng hóa nhất định. Đối với những hàng
hóa có ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sức khỏe con người, an ninh, quốc phòng và
môi trường thì cấm nhập, cấm xuất là cần thiết. Tuy nhiên, đối với những hàng hóa
thông thường nếu quy định cấm nhập hoặc cấm xuất thì đây chính là biện pháp hành
chính tạo ra hàng rào ngăn cản tự do thương mại quốc tế.
- Giấy phép nhập khẩu là một trong những cách thức tạo ra rào cản đối với tự
do hóa thương mại bằng cách yêu cầu nhà nhập khẩu phải đệ đơn để được cấp giấy
phép nhập khẩu cho những loại hàng hóa nhất định. Trong thực tiễn, các thủ tục hành
chính này đã tạo ra những rào cản không nhỏ đối với hàng hóa nhập khẩu.
11


- Hạn ngạch (quota) là quy định lượng tối đa theo giá trị hoặc theo khối lượng
đối với hàng hóa nhập khẩu hoặc xuất khẩu trong một thời kỳ nhất định. Hạn ngạch có
thể quy định cho từng nhà nhập khẩu/xuất khẩu hoặc quy định cho từng quốc gia có
hàng hóa xuất khẩu sau đó quốc gia này lại phân bổ hạn ngạch cho các nhà xuất khẩu
của quốc gia đó.
- Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là thỏa thuận giữa nước xuất khẩu và nước nhập
khẩu về giới hạn tối đa theo giá trị hoặc theo khối lượng của một mặt hàng nào đó
xuất khẩu từ một nước vào nước kia. Cách thức này gần giống như hạn ngạch nhưng
khác ở chỗ, trong khi hạn ngạch là quy định đơn phương của một quốc gia thì hạn chế
xuất khẩu tự nguyện là sản phẩm của một hiệp định song phương.

- Tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc là một cách thức ngăn cản hàng hóa nhập khẩu,
theo đó một quốc gia quy định một mặt hàng nào đó phải đạt một tỷ lệ nội địa hóa mới
được tiêu thụ tại quốc gia đó.
Thứ hai, rào cản kỹ thuật, bản thân nó chỉ là những quy chuẩn kỹ thuật do một
quốc gia quy định đối với hàng hóa. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp nó lại được sử
dụng như là một cách thức để cản trở hàng hóa nhập khẩu vào thị trường nội địa. Bởi
vậy, những quy chuẩn kỹ thuật này được gọi là rào cản kỹ thuật. Ngoài hai nhóm hàng
rào phi thuế quan có tính chất chính thống nêu trên, còn có những rào cản phi thuế
quan không chính thống khác như sự nhũng nhiễu của công chức hải quan, sự không
rõ ràng của các quy định về xuất xứ hàng hóa, sự chậm trễ trong thực hiện các thủ tục
thông quan…
Một số nước lợi dụng các quy định của các hiệp định TBT ( Hiệp định về hàng
rào kỹ thuật trong thương mại) và SPS ( Biện pháp kiểm dịch động thực vật) để tạo ra
rào cản đối với hàng hóa nhập khẩu mà biện pháp chủ yếu là áp dụng hàng rào kỹ
thuật mới lạ, khó đáp ứng, tiêu biểu là Mỹ, Nhật Bản và các nước thuộc EU. Chẳng
hạn như, tất cả sản phẩm nhập khẩu vào EU phải thỏa mãn điều kiện của “Hệ thống
tiêu chuẩn hóa châu Âu”. Việc xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật của EU do ba cơ quan
đảm nhiệm: Ủy ban Tiêu chuẩn hóa kỹ thuật điện tử châu Âu, Ủy ban tiêu chuẩn hóa
châu Âu, Viện Tiêu chuẩn viễn thông châu Âu. Hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật làm rào
cản thương mại phi thuế quan của EU được chia thành năm nhóm: tiêu chuẩn chất
lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu
chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động. Tại Nhật Bản, Luật Tiêu chuẩn
12


nông nghiệp quy định các sản phẩm: đồ uống, thực phẩm chế biến, dầu ăn và mỡ, các
sản phẩm nông, lâm, thủy sản chế biến nhập khẩu vào Nhật Bản phải có dấu tiêu
chuẩn “Japan Agricultural Standard - JAS” (dấu chứng nhận tiêu chuẩn nông nghiệp
Nhật Bản). Luật Vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản áp dụng cho tất cả các hàng hóa có
liên quan đến thực phẩm, các loại gia vị, dụng cụ chứa thực phẩm, máy móc chế biến

thực phẩm. Các quốc gia khi xuất khẩu hàng hóa có liên quan đến thực phẩm vào thị
trường Nhật Bản gặp rất nhiều khó khăn về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm.
Nhiều Doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu hiểu biết hoặc lúng túng trước các
quy chuẩn kỹ thuật khắt khe cũng như pháp luật của các nước phát triển đối tác. Do
vậy, cần áp dụng nhiều biện pháp tổng hợp để nâng cao nhận thức cho các Doanh
nghiệp về các biện pháp mà các nước phát triển đang áp dụng để bảo hộ sản xuất
trong nước, đặc biệt là các quy chuẩn kỹ thuật và kiểm dịch động, thực vật. Đồng thời,
có sự trợ giúp tích cực để các Doanh nghiệp Việt Nam đổi mới công nghệ và quy trình
sản xuất nhằm đáp ứng các đòi hỏi đó. Việc trợ giúp pháp lý để các Doanh nghiệp làm
việc với các cơ quan tố tụng nước ngoài khi đối mặt với các vụ kiện chống bán phá
giá cũng rất cần thiết nhằm hạn chế bị xử ép trong những trường hợp này.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Bài giảng môn học Quản trị kinh doanh Quốc tế, PGS. TS, Ngô Thị
Tuyết Mai, 2014.
2) Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung cho AFTA, Lưu Đình Khánh, 2013.
3) Thỏa thuận ưu đãi thương mại PTA, Nguyễn Hương Mừng, 2013.
4) Hội nhập các ngành ưu tiên, Lương Thu Hương, 2013.
5) Nhà lãnh đạo chuyên nghiệp, Trần Mạnh Hùng, 2013.

14



×