Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

DSpace at VNU: Đa dạng hóa loại hình kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.74 KB, 22 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-----------------------

NGUYỄN THU QUỲNH

ĐA DẠNG HOÁ LOẠI HÌNH KINH DOANH
NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Chuyên ngành:
Mã số: 60 34 05

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai

Hà Nội - 2009


CHƢƠNG 1. MỞ ĐẦU
1.1. I. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế thế giới đang chuyển mình vận động theo xu hướng quốc tế
hóa, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vì vậy đòi hỏi nước ta phải thực
hiện đường lối đổi mới cho phù hợp với tiến trình phát triển chung của nhân loại.
Trên quan điểm đó, Đảng và Nhà nước ta đang từng bước thực hiện triệt để
đường lối đổi mới kinh tế theo xu hướng hội nhập. Hiện nay Việt Nam cũng đã
trở thành thành viên chính thức của WTO từ năm 2007. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết
đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là phải nhận diện được những cơ hội cũng như
thách thức trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng để kịp thời có những bước cải cách
thích hợp nhằm hạn chế tối đa những rủi ro đối với nền kinh tế trong nước, cũng


như đảm bảo để Việt Nam trở thành nước có vị thế trên trường quốc tế. Không
nằm ngoài quỹ đạo chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã và đang
không ngừng đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường và trở
thành một trong những ngân hàng chủ lực trong lĩnh vực đầu tư và phát triển.
Tuy nhiên, cho đến nay hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Các hoạt động của ngân hàng vẫn chủ
yếu là hoạt động ngân hàng truyền thống, chưa đa dạng nên chưa đáp ứng được
các nhu cầu khác nhau của khách hàng.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập và
cũng đã có những cam kết trong việc tham gia hội nhập của mình với các thể chế
tài chính trong khu vực và quốc tế. Theo những cam kết đó các Ngân hàng thương
mại đã có những lộ trình cụ thể để thực hiện và tuân theo. Tiến tới hội nhập Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam sẽ có những thuận lợi, cơ hội để nâng cao vị
thế của mình bên cạnh đó cũng gặp không ít những thách thức, khó khăn trong
thời gian tới.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, việc triển khai nghiên cứu đề tài là thực
sự cần thiết


1.2. II.

Tình hình nghiên cứu

Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu và bài viết trên các tạp chí
đề cập đến vấn đề phát triển dịch vụ ngân hàng Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
-

Luận văn “Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt
Nam” của tác giả Lê Thị Hồng Điều nghiên cứu về những nguyên nhân

dẫn đến rủi ro tín dụng thời gian qua tại BIDV, từ đó đưa ra những giải
pháp nhằm quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng này được tốt hơn

-

Luận văn “Cơ chế quản lý vốn tập trung tại Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam”, tác giả Trương Võ Kim Ngân nghiên cứu và đưa ra
những cơ sở lý luận về quản trị vốn tự có của các NHTM, quá trình triển
khai ứng dụng cơ chế quản lý vốn tập trung tại BIDV, từ đó rút ra những
thành tựu và tồn tại trong thực tiễn ứng dụng đồng thời đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tập trung tại BIDV

-

Luận văn “Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam trong quá trình hội nhập”, tác giả
Thân Thị Vân đã nghiên cứu lý luận và thực trạng năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam từ đó đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh như: nâng cao năng lực tài chính,
tăng vốn điều lệ...
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình và bài viết đề cập cụ thể, chi

tiết đến vấn đề phát triển dịch vụ ngân hàng để nâng cao năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập
WTO
Do đó, với đề tài: “Đa dạng hóa loại hình kinh doanh nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”, tác giả
muốn đóng góp một cách nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về đa dạng hóa các loại
hình dịch vụ ngân hàng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhằm tăng
vị thế, năng lực cạnh tranh của ngân hàng này trong quá trình hội nhập và phát

triển.


III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích nghiên cứu:
-

Làm sáng tỏ lý luận cạnh tranh, tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của
ngân hàng TMCP, những luận cứ khoa học về sự cần thiết phải nâng cao
năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam góp phần phát triển kinh tế
trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.

-

Làm rõ thực trạng về năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam và
những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam.
 Nhiệm vụ nghiên cứu:

-

Đánh giá những đóng góp cho nền kinh tế và những tồn tại trong năng lực
cạnh tranh của các NHTM Việt Nam, đồng thời phân tích một số nguyên
nhân của những tồn tại này và đưa ra những đề xuất để nâng cao năng lực
cạnh tranh của các NHTM Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế trong thời
kỳ hội nhập.

- Phân tích thực trạng kinh doanh của các loại hình dịch vụ ngân hàng tại
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, từ đó đưa ra những kết quả đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân cơ bản về vai trò đóng góp của từng
loại hình kinh doanh vào tăng trưởng của ngân hàng, nâng cao năng lực

cạnh tranh của ngân hàng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đa dạng hóa các loại hình kinh doanh để
nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
- Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các NHTM
về nhân lực, quản trị, tài chính, sản phẩm dịch vụ, công nghệ, uy tín thương
hiệu và mạng lưới; những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
các NHTM như môi trường vĩ mô mà các NHTM đang hoạt động.
- Thực trạng kinh doanh của các loại hình dịch vụ (huy động vốn, tín dụng,
thanh toán trong nước và nước ngoài) tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển


Việt Nam để rút ra những điểm mạnh và hạn chế từ đó đề ra một số giải
pháp nhằm đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng để nâng cao năng
lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Giải pháp và những kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Phạm vi thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu toàn bộ hệ thống Ngân hàng Đầu
tư và phát triển Việt Nam trên cơ sở một số lĩnh vực hoạt động chính của BIDV
(huy động vốn, tín dụng, thanh toán trong và ngoài nước), số liệu vể các lĩnh vực
hoạt động của hệ thống BIDV trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2008.
V. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở phân tích số liệu quá khứ
từ các thông tin tài liệu, báo cáo đã được công bố và định hướng phát
triển Ngành để đưa ra xu hướng vận động và phát triển của đối tượng
nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, so sánh: Trên cơ sở thống kê các số liệu thu thập
được trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể của từng năm, so sánh hiệu
quả hoạt động qua các năm và với một số ngân hàng khác trong cùng một

lĩnh vực hoạt động cũng như là thời gian hoạt động
- Phương pháp tư duy lôgic: Dựa trên những số liệu thực tế để đánh giá
mức độ hiệu quả hoạt động kinh doanh của các lĩnh vực dịnh vụ, thế
mạnh cần phát huy cũng như là vị thế năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt Nam trong quá trình hội nhập, làm cơ sở để
vạch ra những chiến lược giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của Ngân hàng này.
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: trên cơ sở những số
liệu trong quá khứ làm căn cứ để đưa ra những đánh giá, nhận định tình
hình hoạt động của ngân hàng.


1.3. VI.

Dự kiến những đóng góp mới của luận văn

Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh, khái
quát xu thế cạnh tranh của các NHTM trong thời gian tới, đánh giá những điểm
mạnh, điểm yếu, thời cơ và thách thức của các NHTM Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Phân tích đầy đủ và toàn diện hơn về các loại hình dịch vụ của ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt Nam, những kết quả đã đạt được cũng như là những
hạn chế trong các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của ngân hàng này trong thời gian
qua
Đưa ra định hướng phát triển trên cơ sở đa dạng hóa mảng dịch vụ này
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
đặc biệt là trong giai đoạn Việt Nam vừa gia nhập WTO.
1.4. VII.

Bố cục của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đa dạng hóa loại hình kinh doanh
của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng đa dạng hóa loại hình kinh doanh nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp đa dạng hóa loại hình kinh doanh nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong giai
đoạn tới.


CHƢƠNG 2. Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về đa dạng hóa loại hình kinh
doanh của Ngân hàng thƣơng mại
2.1. 1.1.

Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại

2.1.1. 1.1.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Trước hết chúng ta cùng tìm hiểu khái niệm về năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, theo WEF (1997) báo cáo về khả năng cạnh tranh toàn cầu thì năng
lực cạnh tranh được hiểu là khả năng , năng lực mà doanh nghiệp có thể duy trì vị
trí của nó một cách lâu dài và có ý chí trên thị trường cạnh tranh, bảo đảm thực
hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng với tỷ lệ đòi hỏi tài trợ những mục tiêu của
doanh nghiệp, đồng thời đạt được những mục tiêu của doanh nghiệp đặt ra. Năng
lực cạnh tranh có thể chia làm 3 cấp:
- Năng lực cạnh tranh quốc gia: là năng lực của một nền kinh tế đạt được
tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định kinh tế, xã
hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là khả năng duy trì và mở rộng thị

phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong và
ngoài nước. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp, lợi nhuận và thị phần mà doanh nghiệp đó đạt
được.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ: được đo bằng thị phần của
sản phẩm dịch vụ thể hiện trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh của nó. Nó dựa vào chất
lượng, tính độc đáo của sản phẩm, dịch vụ, yếu tố công nghệ chứa trong
sản phẩm dịch vụ đó.
Cũng giống như mọi doanh nghiệp, Ngân hàng thương mại cũng là một doanh
nghiệp và là một doanh nghiệp đặc biệt, vì thế Ngân hàng thương mại cũng tồn tại
vì mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Do vậy, các Ngân hàng thương mại cũng tìm
đủ mọi biện pháp để cung cấp sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao với nhiều lợi
ích cho khách hàng, với mức giá và chi phí cạnh tranh nhất, bên cạnh sự đảm bảo
về tính chính xác, độ tin cậy và sự tiện lợi nhất nhằm thu hút khách hàng, mở


rộng thị phần nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng. Do vậy, cạnh
tranh trong Ngân hàng thương mại cũng là sự tranh đua, giành giật khách hàng dựa
trên tất cả những khả năng, tiềm lực, lợi thế mà ngân hàng có được để đáp ứng
tốt nhất nhu cầu của khách hàng thông qua việc cung cấp những sản phẩm dịch vụ
có chất lượng cao, mang tính đặc trưng riêng của mình so với các Ngân hàng
thương mại khác trên thị trường, tạo ra lợi thế cạnh tranh, làm tăng lợi nhuận
ngân hàng, tạo được uy tín, thương hiệu và vị thế trên thương trường.
Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại là khả năng của ngân hàng đó
tạo ra, duy trì và phát triển liên tục những lợi thế nhằm mục đích tối đa hóa lợi
ích của cổ đông trên cơ sở mở rộng thị phần, đạt được những mức lợi nhuận cao
hơn mức trung bình ngành đồng thời đảm bảo được sự hoạt động kinh doanh an
toàn, lành mạnh và có khả năng chống đỡ rủi ro cao và vượt qua những biến động
bất lợi trong môi trường kinh doanh.

2.1.2. 1.1.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương
mại
1.1.2.1. Năng lực tài chính:
Năng lực tài chính của Ngân hàng thương mại được thể hiện qua các yếu
tố sau:
 Vốn tự có:
Về mặt lý thuyết, vốn điều lệ và vốn tự có đang đóng vai trò rất quan trọng
trong hoạt động ngân hàng. Vốn điều lệ cao sẽ giúp ngân hàng tạo được uy tín
trên thị trường và tạo lòng tin nơi công chúng. Vốn tự có thấp đồng nghĩa với sức
mạnh tài chính yếu và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng thấp.
Quy mô và khả năng huy động vốn:
Khả năng huy động vốn là một trong những tiêu chí đánh giá tình hình hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng. Khả năng huy động vốn còn thể hiện tính
hiệu quả, năng lực và uy tín của ngân hàng đó trên thị trường. Khả năng huy động
vốn tốt cũng có nghĩa là ngân hàng đó sử dụng các sản phẩm dịch vụ, hay công cụ
huy động vốn có hiệu quả, thu hút được khách hàng.
 Khả năng thanh khoản:


Theo chuẩn mực quốc tế, khả năng thanh toán của ngân hàng thể hiện qua tỷ
lệ giữa tài sản “có” có thể thanh toán ngay và tài sản “nợ” phải thanh toán ngay.
Chỉ tiêu này đo lường khả năng ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu tiền mặt
của người tiêu dùng. Khi nhu cầu về tiền mặt của người gửi tiền bị giới hạn, thì
uy tín của ngân hàng đó bị giảm một cách đáng kể, kết quả là ngân hàng đó sẽ bị
phá sản nếu để điều này xảy ra.
 Khả năng sinh lời:
Khả năng sinh lời là thước đo đánh giá tình hình kinh doanh của Ngân hàng
thương mại. Mức sinh lời được phân tích qua các thông số sau:

(tỷ lệ thu nhập sau thuế trên vốn tự có – return on equity)

ROE: thể hiện tỷ lệ thu nhập của một đồng vốn chủ sở hữu

(tỷ lệ thu nhập sau thuế trên tổng tài sản – return on assets)
ROA: thể hiện khả năng sinh lời trên tổng tài sản - đánh giá công tác quản
lý của ngân hàng, cho thấy khả năng chuyển đổi tài sản của ngân hàng thành thu
nhập ròng.
 Mức độ rủi ro:
Mức độ rủi ro của ngân hàng thường được đo lường bằng 2 chỉ tiêu cơ bản
sau:
- Hệ số an toàn vốn (CAR: capital adequacy ratio): Chính là tỷ lệ giữa vốn
chủ sở hữu trên tổng tài sản có rủi ro chuyển đổi (theo ủy ban giám sát tín
dụng Basel). Theo chuẩn quốc tế thì CAR tối thiểu phải phải đạt 8%. Tỷ lệ
này càng cao cho thấy khả năng tài chính của ngân hàng càng mạnh, càng
tạo được uy tín, sự tin cậy của khách hàng với ngân hàng càng lớn.


- Chất lượng tín dụng (tỷ lệ nợ quá hạn): Chất lượng tín dụng thể hiện
chủ yếu thông qua tỷ lệ nợ quá hạn/tổng nợ. Nếu tỷ lệ này thấp cho thấy
chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại đó tốt, tình hình tài chính
của ngân hàng đó lành mạnh và ngược lại thì tình hình tài chính của
NHTM đó cần được quan tâm.
1.1.2.2. Tính đa dạng của sản phẩm dịch vụ:
Với đặc tính riêng của ngân hàng là các sản phẩm dịch vụ hầu như không có sự
khác biệt thì các Ngân hàng thương mại phát huy khả năng cạnh tranh của mình
không chỉ bằng những sản phẩm cơ bản mà còn thể hiện ở tính độc đáo, sự đa
dạng của sản phẩm dịch vụ của mình.
Một ngân hàng có thể tạo ra sự khác biệt riêng cho từng loại sản phẩm của
mình trên cơ sở những sản phẩm truyền thống sẽ làm cho danh mục sản phẩm của
mình trở lên đa dạng hơn, điều này sẽ đáp ứng được hầu hết các nhu cầu khác
nhau của những khách hàng khác nhau, từ đó dễ dàng chiếm lĩnh thị phần và làm

tăng sức cạnh tranh của ngân hàng.
Ngoài ra, các Ngân hàng thương mại còn sử dụng các sản phẩm dịch vụ bổ trợ
khác để thu hút khách hàng, tạo thu nhập cho ngân hàng như cung cấp sao kê định
kỳ, tư vấn tài chính….
1.1.2.3. Nguồn nhân lực:
Trong một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ như Ngân hàng thương mại thì yếu
tố con người có vai trò quan trọng trong việc thể hiện chất lượng của dịch vụ. Đội
ngũ nhân viên của ngân hàng chính là người trực tiếp đem lại cho khách hàng
những cảm nhận về ngân hàng và sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, đồng thời tạo
niềm tin của khách hàng đối với mình. Đó chính là những đòi hỏi quan trọng đối
với đội ngũ nhân viên ngân hàng, từ đó giúp ngân hàng chiếm giữ thị phần cũng
như tăng hiệu quả kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Năng lực cạnh tranh về nguồn nhân lực của các Ngân hàng thương mại phải
được xem xét trên cả hai khía cạnh số lượng và chất lượng lao động.
 Về số lượng lao động:


Để có thể mở rộng mạng lưới nhằm gia tăng thị phần và phục vụ khách hàng,
các Ngân hàng thương mại nhất định phải có lực lượng lao động đủ về số
lượng. Tuy nhiên, cũng cần so sánh chỉ tiêu này trong mối tương quan với hệ
thống mạng lưới và hiệu quả kinh doanh để nhìn nhận năng suất lao động của
người lao động trong ngân hàng.
 Về chất lượng lao động:
Chất lượng nguồn nhân lực trong ngân hàng thể hiện qua các tiêu chí:
- Trình độ văn hóa của đội ngũ lao động: bao gồm trình độ học vấn và các kỹ
năng hỗ trợ như ngoại ngữ, tin học, khả năng giao tiếp, thuyết trình, ra quyết
định, giải quyết vấn đề,… Tiêu chí này khá quan trọng vì nó là nền tảng thể
hiện khả năng của người lao động trong ngân hàng có thể học hỏi, nắm bắt
công việc để thực hiện tốt kỹ năng nghiệp vụ.
- Kỹ năng quản trị đối với nhà điều hành, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và

kỹ năng thực hiện nghiệp vụ đối với nhân viên: đây là tiêu chí quan trọng
quyết định đến chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng.
Ngân hàng thương mại cần một đội ngũ nhân viên với kỹ năng nghiệp vụ cao,
có khả năng tư vấn cho khách hàng để tạo được lòng tin với khách hàng, qua
đó tạo được ấn tượng tốt về ngân hàng.
Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định đối
với năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại. Chất lượng nguồn nhân
lực là kết quả của sự cạnh tranh trong quá khứ đồng thời lại chính là năng lực
cạnh tranh của ngân hàng trong tương lai. Có một đội ngũ cán bộ thừa hành và
nhân viên giỏi, có khả năng sáng tạo và thực thi chiến lược sẽ giúp ngân hàng hoạt
động ổn định và phát triển bền vững. Có thể khẳng định nguồn nhân lực đủ về số
lượng và đầy đủ về chất lượng là một biểu hiện năng lực cạnh tranh cao của
Ngân hàng thương mại.
1.1.2.4. Năng lực công nghệ:
Trong lĩnh vực ngân hàng thì việc áp dụng công nghệ là một trong những yếu tố
tạo nên sức mạnh cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại. Để nâng cao chất
lượng sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng, ngoài yếu tố


con người thì nhu cầu công nghệ là vô cùng quan trọng và không thể thiếu, đặc
biệt là khi Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, khi mà
những cam kết về mở cửa hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng đang được tiến
hành theo đúng lộ trình, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt khi có sự tham gia đầy
đủ của các ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Công nghệ sẽ góp phần tạo nên
những chuyển biến mang tính độc đáo và tiện ích hơn, nó giúp nâng cao năng lực
cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam với các ngân hàng nước ngoài (vốn đã có
sẵn tiềm lực tài chính, trình độ công nghệ vượt trội). Ngày nay, các NHTM đang
triển khai phát triển những sản phẩm ứng dụng công nghệ cao, và sử dụng các sản
phẩm dịch vụ mang tính chất công nghệ làm thước đo cho sự cạnh tranh, đặc biệt
là trong lĩnh vực thanh toán và các sản phẩm dịch vụ điện tử khác. Công nghệ trong

thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế là yếu tố sống còn, quyết định vị thế, sự phát triển
và tồn tại của các Ngân hàng thương mại.
Trong diễn đàn quốc tế “banking vietnam“ khẳng định việc sử dụng công nghệ
thông tin là công cụ chính để khẳng định năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng
thương mại, sự phát triển các sản phẩm dịch vụ E-banking là xu hướng thời
thượng, công nghệ là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa các Ngân hàng thương mại
trong kinh doanh.
1.1.2.5. Năng lực quản trị điều hành ngân hàng:
Một yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh
của bất kỳ doanh nghiệp nào là vai trò của những người lãnh đạo, những quyết
định của họ có tầm ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
Năng lực quản trị, kiểm soát và điều hành của nhà lãnh đạo trong ngân hàng có
vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả, an toàn trong hoạt động
ngân hàng. Tầm nhìn của nhà lãnh đạo là yếu tố then chốt để ngân hàng có một
chiến lược kinh doanh đúng đắn trong dài hạn. Thông thường đánh giá năng lực
quản trị, kiểm soát, điều hành của một ngân hàng người ta xem xét đánh giá các
chuẩn mực và các chiến lược mà ngân hàng xây dựng cho hoạt động của mình.
Hiệu quả hoạt động cao, có sự tăng trưởng theo thời gian và khả năng vượt qua
những bất trắc là bằng chứng cho năng lực quản trị cao của ngân hàng.


Một số tiêu chí thể hiện năng lực quản trị của ngân hàng là:
- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: bao gồm chiến lược marketing (xây
dựng uy tín, thương hiệu), phân khúc thị trường, phát triển sản phẩm dịch vụ,...
- Cơ cấu tổ chức và khả năng áp dụng phương thức quản trị ngân hàng hiệu
quả.
- Sự tăng trưởng trong kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.1.2.6. Danh tiếng, uy tín và khả năng hợp tác:
Hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng luôn gắn liền với yếu tố uy tín của ngân
hàng đó, tâm lý của người tiêu dùng luôn là yếu tố quyết định sự sống còn đến

hoạt động của ngân hàng với hiệu ứng dây chuyền do tâm lý của người tiêu dùng
mang lại. Vì thế, danh tiếng và uy tín của Ngân hàng thương mại là yếu tố nội lực
vô cùng to lớn, nó quyết định sự thành công hay thất bại của ngân hàng đó trên
thương trường. Việc gia tăng thị phần, mở rộng mạng lưới hoạt động, tăng thu
nhập phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của Ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, uy tín của Ngân hàng thương mại chỉ được tạo lập sau một khoảng
thời gian khá dài thông qua hình thức sở hữu, đội ngũ nhân viên, việc ứng dụng
các sản phẩm mang tính công nghệ cao, việc đáp ứng đầy đủ và thỏa đáng các nhu
cầu của người tiêu dùng. Vì vậy, để tạo được uy tín và danh tiếng trên thương
trường, các Ngân hàng thương mại phải nỗ lực và luôn luôn cải biến sản phẩm
dịch vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và khó tính của khách hàng.
Ngày nay, ngoài danh tiếng và uy tín của mình, các Ngân hàng thương mại còn
phải thể hiện được sự liên kết lẫn nhau trong hoạt động kinh doanh của mình, sự
kiện một Ngân hàng thương mại hợp tác với một Tổ chức tín dụng có uy tín và
danh tiếng khách trên thương trường, hoặc sự hợp tác chiến lược giữa các ngân
hàng hay tổ chức tài chính, tập đoàn kinh tế lớn nào cũng góp phần nâng cao sức
mạnh cạnh tranh của Ngân hàng thương mại đó trên thương trường.
2.1.3. 1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
thương mại:
Các đặc điểm trong hoạt động kinh doanh của một Ngân hàng thương mại
thể hiện năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại đó, nhưng để phát huy


năng lực cạnh tranh trên, Ngân hàng thương mại còn chịu ảnh hưởng của các nhân
tố từ bên ngoài, đó là:
1.1.3.1. Môi trường kinh doanh:
Môi trường kinh doanh của Ngân hàng thương mại thể hiện ở các đặc điểm
sau:
 Tình hình kinh tế trong và ngoài nước:
- Nội lực của nền kinh tế của một quốc gia được thể hiện qua quy mô và mức

độ tăng trưởng của GDP, dự trữ ngoại hối, ….
- Độ ổn định của nền kinh tế vĩ mô thông qua các chỉ tiêu như chỉ số lạm phát,
lãi suất, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán quốc tế,….
- Độ mở cửa của nền kinh tế thể hiện qua các rào cản, sự gia tăng nguồn vốn
đầu tư trực tiếp, sự gia tăng trong hoạt động xuất nhập khẩu.
- Tiềm năng tài chính, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động
trên địa bàn trong nước cũng như xu thế chuyển hướng hoạt động của các
doanh nghiệp nước ngoài vào trong nước.
Các yếu tố này tác động đến khả năng tích lũy và đầu tư của người dân, khả
năng thu hút tiền gửi, cấp tín dụng và phát triển các sản phẩm của Ngân hàng
thương mại, khả năng mở rộng hoặc thu hẹp mạng lưới hoạt động của các ngân
hàng…. Từ đó làm giảm hay tăng nhu cầu mở rộng tín dụng, triển khai các dịch
vụ, mở rộng thị phần của Ngân hàng thương mại. Để đạt được các mục tiêu trên,
các Ngân hàng thương mại sẽ áp dụng các chiến lược khác nhau để nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình.
Sự biến động của nền kinh tế thế giới sẽ tác động đến lưu lượng vốn của
nước ngoài vào Việt Nam thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp.
Ngoài ra, chúng ảnh hưởng đến tình hình hoạt động chung của các Ngân hàng
thương mại, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có tham giao quan hệ thanh toán, mua
bán với các doanh nghiệp trong nước cũng như các Ngân hàng thương mại trong
nước. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng thương mại trong
nước và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại trong
nước.


 Hệ thống pháp luật, môi trường văn hóa, xã hội, chính trị:
Với đặc điểm đặc biệt trong hoạt động kinh doanh của NHTM chịu chi phối và
ảnh hưởng của rất nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, luật dân sự, luật xây dựng,
luật đất đai, luật cạnh tranh, luật các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, Ngân hàng
thương mại còn chịu sự quản lý chặt chẽ từ NHNN và được xem là một trung gian

để NHNN thực thi các chính sách tiền tệ của mình. Do vậy, sức mạnh cạnh tranh
của các Ngân hàng thương mại phụ thuộc rất nhiều vào chính sách tiền tệ, tài
chính của chính phủ và NHNN.
Ngoài những hệ thống và văn bản pháp luật trong nước, các Ngân hàng thương
mại còn phải chịu những quy định, chuẩn mực chung của tổ chức thương mại thế
giới (WTO) trong việc quản trị hoạt động kinh doanh của mình.
Do vậy, bất kỳ sự thay đổi nào trong hệ thống pháp luật, chuẩn mực quốc tế,
cũng như chính sách tiền tệ của NHNN đều sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng
lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại.
1.1.3.2. Sự gia tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế:
Với quá trình mở cửa nền kinh tế, tự do hóa và hội nhập thị trường tài chính
tiền tệ, sự cạnh tranh với ngành ngân hàng tất yếu sẽ ngày càng trở nên gay gắt và
quyết liệt. Hiện nay, cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại không chỉ dừng ở
các loại hình dịch vụ truyền thống (huy động cho vay) mà còn cạnh tranh ở thị
trường sản phẩm dịch vụ mới. Phân tích những yếu tố dưới đây có thể thấy được
nhu cầu dịch vụ ngân hàng tương lai gần sẽ ngày càng tăng cao:
 Sự biến đổi về cơ cấu dân cư, sự tăng dân số (đặc biệt là khu vực đô thị), sự
tăng lên của các khu công nghiệp, khu đô thị mới dẫn đến số doanh nghiệp và
cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng tăng lên rõ rệt.
 Thu nhập bình quân đầu người ở hầu hết các quốc gia đều được nâng lên,
qua đó các dịch vụ ngân hàng cũng sẽ có những bước phát triển tương ứng.
 Các hoạt động giao thương quốc tế ngày càng phát triển làm gia tăng nhu cầu
thanh toán quốc tế qua ngân hàng.


 Số lao động di cư giữa các quốc gia tăng lên nên nhu cầu chuyển tiền cũng
như thanh toán qua ngân hàng có chiều hướng tăng cao
Ngoài ra, thị trường tài chính càng phát triển thì khách hàng càng có nhiều sự
lựa chọn. Các yêu cầu của khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng cao
và khắt khe hơn cả về chất lượng, giá cả, các tiện ích lẫn phong cách phục vụ.

Đây vừa là động lực và áp lực buộc các ngân hàng phải đổi mới và hoàn thiện
mình hơn nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh
của mình.
1.1.3.3. Sự phát triển của thị trường tài chính và các ngành phụ trợ liên quan với
ngành ngân hàng
Thị trường tài chính trong nước phát triển mạnh là điều kiện để các ngân
hàng phát triển và gia tăng cùng đầu tư vào một ngành có lợi nhuận, từ đó dẫn đến
gia tăng mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau.
Mặt khác, đặc điểm hoạt động của các loại hình định chế tài chính có mối
liên hệ rất chặt chẽ và có sự bổ trợ lẫn nhau, như ngành bảo hiểm và thị trường
chứng khoán với ngân hàng. Sự phát triển của thị trường bảo hiểm và thị trường
chứng khoán một mặt chia sẻ thị phần với ngân hàng, mặt khác lại hỗ trợ cho sự
tăng trưởng của ngân hàng thông qua việc cắt giảm chi phí và tạo điều kiện để
các ngân hàng đa dạng hóa dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh nhờ tận dụng lợi thế
theo phạm vi, mở rộng mạng lưới khách hàng thông qua khách hàng kinh doanh
chứng khoán, mua bảo hiểm (phát triển dịch vụ cho vay và cầm cố chứng khoán,
giấy tờ có giá, mở rộng kênh huy động vốn….)
Ngoài ra, sự phát triển của ngân hàng còn phụ thuộc rất nhiều vào sự phát
triển của khoa học kỹ thuật cũng như sự phát triển của các ngành, lĩnh vực kinh
doanh khác như tin học viễn thông, giáo dục đào tạo, kiểm toán. Đây là những
ngành phụ trợ mà sự phát triển của nó sẽ giúp ngân hàng nhanh chóng đa dạnh hóa
các dịch vụ, tạo lập thương hiệu và uy tín, thu hút nguồn nhân lực cũng như có
những kế hoạch đầu tư hiệu quả trong một thị trường tài chính vững mạnh.


2.2. 1.2.

Đặc điểm loại hình kinh doanh của ngân hàng:

Có thể nói ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, loại hình kinh

doanh của ngân hàng được thể hiện dưới dạng sản phẩm dịch vụ, nên mô hình và
phương thức kinh doanh của ngân hàng cũng có những đặc điểm và đặc thù riêng
so với các loại hình doanh nghiệp khác. Trên cơ sở những loại hình kinh doanh
mà ngân hàng thực hiện, ngân hàng sẽ khai thác những đặc điểm và thế mạnh của
các loại hình kinh doanh của mình để tạo nên sự khác biệt nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của mình
Kinh doanh của ngân hàng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: sản phẩm ngân hàng mang tính vô hình. Không giống như sản
phẩm vật chất, sản phẩm dịch vụ ngân hàng mang tính vô hình tức là khách hàng
không thể nhìn thấy được, không nghe hay ngửi thấy được trứơc khi mua chúng
mà chỉ có thể cảm nhận và đánh giá chúng khi sử dụng. Quyết định mua và sử dụng
sản phẩm sẽ phụ thuộc vào uy tín, thương hiệu của ngân hàng đó, lời khuyên và
nhận xét của những người đã sử dụng sản phẩm đó, kinh nghiệm bản thân, những
đánh giá chủ quan dựa trên những biểu hiện vật chất bề ngoài của sản phẩm trực
tiếp hoặc có liên quan đến chất lượng sản phẩm. Vì thế, các ngân hàng cần vận
dụng những biểu hiện vật chất đó để “làm cho cái vô hình trở thành hữu hình”.
Thứ 2: sản phẩm ngân hàng mang tính không tách rời giữa quá trình sản xuất,
phân phối và sử dụng. Khác với sản phẩm vật chất, quá trình cung cấp và quá
trình tiêu dùng sản phẩm ngân hàng diễn ra đồng thời, đặc biệt là có sự tham gia
trực tiếp của khách hàng vào quá trình cung ứng đó. Điều này đòi hỏi ngân hàng
phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong việc cung ứng sản phẩm dịch
vụ, xác định nhu cầu của khách hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, phát
triển hoạt động chăm sóc khách hàng và hiện đại hoá hệ thống cung ứng.
Thứ 3: sản phẩm ngân hàng mang tính không ổn định và khó xác định về chất
lượng. Sản phẩm dịch vụ ngân hàng được cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau
như trình độ đội ngũ nhân viên, kỹ thuật công nghệ và trình độ khách hàng. Đồng
thời nó còn được thực hiện ở các không gian khác nhau nên đã tạo ra tính không
đồng nhất về cách thức thực hiện. Các yếu tố này lại thường xuyên biến động,



đặc biệt là đội ngũ nhân viên giao dịch trực tiếp là yếu tố quyết định tạo ra sự
không ổn định và khó xác định về chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Vì vậy,
các ngân hàng cần chú trọng nâng cao chất lượng quản trị nhân sự, áp dụng các
biện pháp kiểm soát chất lượng dịch vụ.
2.3. 1.3. Đa dạng hóa loại hình kinh doanh và vấn đề nâng cao năng lực cạnh
tranh cho ngân hàng trong bối cảnh hội nhập:
2.3.1. 1.3.1. Khái niệm đa dạng hoá:
Theo đại từ điển Kinh tế thị trường, đa dạng hoá kinh doanh là sách lược
kinh doanh của một xí nghiệp cùng một lúc kinh doanh từ hai ngành nghề trở lên;
xí nghiệp áp dụng kinh doanh đa dạng, tham gia vào hoạt động sản xuất và tiêu thụ
nhiều loại hàng hoá và dịch vụ. Trước tiên cần chọn phương hướng da dạng hoá,
và chọn loại nào để đa dạng hoá thì tương đối hữu hiệu hơn. Kinh doanh đa dạng
hoá không chỉ hạn chế ở chỗ mở rộng chủng loại sản phẩm mà còn gồm cả mở
rộng phạm vi sản xuất và thị trường. Mục đích của nó là để phân tán nguy cơ,
tránh cho thị trường của một loại hàng hoá nào đó có biến động ảnh hưởng đến
thu lợi và lợi dụng đầy đủ tiềm lực sản xuất và tiềm lực tiêu thụ của thị trường,
tận dụng sản phẩm phụ và tiết kiệm chi phí tiêu thụ.
Như vậy, đối với mỗi Ngân hàng thương mại, đa dạng hoá quy mô và hình
thức thực hiện dịch vụ là việc ngân hàng kinh doanh nhiều hình thức dịch vụ khác
nhau, tạo ra sự phong phú, đa dạng trong toàn bộ các dịch vụ tài chính mà ngân
hàng đó có thể cung cấp cho tất cả các đối tượng khách hàng trong nền kinh tế.
Đồng thời, đa dạng hoá không chỉ hạn chế ở việc mở rộng các hình thức thực
hiện dịch vụ, mà còn bao hàm cả mở rộng, phát triển dịch vụ về phạm vi, quy mô.
Điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng cần duy trì mô hình hoạt động đa năng, phục
vụ các loại hình dịch vụ cho tất cả các đối tượng trong nền kinh tế không chỉ để
tăng thu nhập cho ngân hàng mà còn làm giảm bớt rủi ro trong kinh doanh.
2.3.2. 1.3.2. Lợi ích từ đa dạng hoá loại hình kinh doanh đối với Ngân hàng:
 Đa dạng hoá giúp các Ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh:



- Thứ nhất, đa dạng hoá giúp Ngân hàng thương mại phân tán và giảm rủi ro.
Một Ngân hàng thương mại kinh doanh dịch vụ đa dạng sẽ phân tán được rủi ro
và nâng cao được lợi nhuận của ngân hàng đó. Bởi vì, nếu theo các dịch vụ
truyền thống và cổ điển, ngân hàng sẽ chỉ thu lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động
tín dụng, nhưng tín dụng lại là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro và bất trắc. Do
ngân hàng ở vào thế bị động sau khi cấp tín dụng cho khách hàng, quản lý hoạt
động tín dụng phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngoài ngân hàng: khách hàng, pháp
luật, hiệu lực pháp chế của Nhà nước, mức độ phát triển của nền kinh tế .v.v.
Thực tế đã có quá nhiều Ngân hàng thương mại trên thế giới bị phá sản do đầu
tư vốn mà không thu hồi được nợ. Chỉ với tỷ lệ nợ khó đòi vượt quá 4 - 5%
tổng dư nợ làm cho các Ngân hàng thương mại không còn lợi nhuận và mất
dần vốn tự có. Vì vậy thực hiện kinh doanh mạnh và đa dạng các loại hình dịch
vụ khác bên cạnh tín dụng là một phương sách hiệu quả nhất để phân tán bớt
rủi ro, giữ vững sự ổn định của ngân hàng. Lợi nhuận thu được từ các dịch vụ
khác nhau, bổ sung cho nhau khi thị trường biến động sẽ giúp cho ngân hàng ổn
định mức doanh lợi. Do vậy, ngày nay các NHTM đều cố gắng đa dạng hoá dịch
vụ của mình, thực hiện câu châm ngôn: "đừng đặt tất cả trứng của bạn vào một
cái rổ".
- Thứ hai, đa dạng hoá quy mô và các hình thức thực hiện dịch vụ ngân hàng
sẽ làm tăng lợi nhuận của Ngân hàng thương mại. Khi thực hiện đa dạng hoá,
Ngân hàng thương mại sẽ mở rộng thị trường và khách hàng, tạo khả năng
tăng doanh thu và lợi nhuận. Với nhiều hình thức dịch vụ khác nhau, Ngân hàng
thương mại có thể khai thác những khoảng trống trên thị trường, kể cả những
khoảng trống nhỏ, để tăng thêm thị phần. Mặt khác, đa dạng hoá sẽ giúp ngân
hàng sử dụng được triệt để, có hiệu quả nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và
đội ngũ cán bộ; do vậy, giảm chi phí quản lý, chi phí hoạt động, tăng lợi nhuận
tối đa cho ngân hàng.
- Thứ ba, đa dạng hoá quy mô và hình thức thực hiện dịch vụ ngân hàng sẽ
thúc đẩy các nghiệp vụ cùng phát triển. Các nghiệp vụ của một Ngân hàng

thương mại có mối quan hệ hữu cơ, có tác động qua lại với nhau tạo thành một


thể thống nhất và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Huy động vốn tạo nguồn cho
thực hiện nghiệp vụ tín dụng và phát triển dịch vụ; nhưng ngược lại, nghiệp vụ
tín dụng và dịch vụ thực hiện tốt cũng tạo điều kiện để thu hút khách hàng với
những nguồn tiền nhàn rỗi của họ. Kinh tế thị trường càng phát triển, các doanh
nghiệp càng đa dạng hoá kinh doanh và nhu cầu về các dịch vụ ngân hàng, tài
chính ngày càng phong phú đa dạng. Điều đó đòi hỏi sự phục vụ của ngân hàng
cũng phải đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn. Chỉ khi đa dạng hoá quy mô và hình
thức thực hiện dịch vụ, ngân hàng mới cung cấp được nhiều sản phẩm dịch vụ
một cách nhanh chóng, linh hoạt, có chất lượng cho khách hàng và nền kinh tế.
Hơn nữa, việc phục vụ khách hàng theo phương thức "trọn gói" bao giờ cũng
ưu việt hơn phương thức đơn lẻ.
CHƢƠNG 3. -

Thứ tư, đa dạng hoá quy mô và hình thức thực hiện dịch vụ

ngân hàng làm tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trong
nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện có rất nhiều ngân hàng với các
hình thức sở TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Minh An (2005), “Chiến lược phát triển của các ngân hàng Trung Quốc”,
Tạp chí Tài chính ngân hàng, số Tháng 12/2005.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác
động của tự do hóa dịch vụ tài chính: Trường hợp ngành ngân hàng, Hà
Nội.
3. Bộ Tài Chính (2006), Văn kiện và Biểu thuế gia nhập WTO của Việt Nam,
NXB Tài chính, Tp. Hồ Chí Minh.
4. Bộ Thương mại (2004), Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế,

NXB Khoa học, Hà Nội.
5. Cạnh tranh trong khu vực ngân hàng dự án hỗ trợ thương mại đa biên II,
báo cáo về các qui định liên quan đến cạnh tranh trong lĩnh vực
ngân hàng của Việt Nam, 15/12/2006 do Bộ thương mại phối hợp cùng


ủy Ban châu âu thực hiện.
6. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ.
7. Đặng Công Hoàn (2004), Nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống Ngân
hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế,
Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Kinh tế.
8. PGS.TS Trần Huy Hoàng (2007), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB
Lao động xã hội.
9. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2006), “Khu vực ngân hàng sau khi gia nhập
WTO: Kinh

nghiệm

Trung

Quốc



thực

tiễn Việt

Nam”,
10. Báo cáo thường niên các năm 2005, 2006, 2007, 2008 của Ngân hàng Đầu tư

và Phát triển Việt Nam
11.Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế Quốc tế (2006), Nghiên cứu về dịch vụ
ngân hàng trong bối cảnh hội nhập Quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia.
12.Edward W. Reed, Ph.D và Edward K. Gill, Ph. D (1993), Ngân hàng thương
mại, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
13.Micheal E.Porter (1996), Chiến lược cạnh tranh, NXB Khoa học và Kỹ
Thuật Hà Nội.




×