BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN HÀ GIANG
HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN HÀ GIANG
HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ DIỆU OANH
HÀ NỘI – 2017
LỜI CẢM ƠN
Xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Học viện Hành chính Quốc gia, Khoa Sau đại
học, các bộ môn và các thầy giáo, cô giáo trong Học viện đã giảng dạy và giúp đỡ tận
tình để tôi hoàn thành tốt chương trình đào tạo cao học, chuyên ngành Luật Hiến pháp
và Luật Hành chính.
Đặc biệt, xin trân trọng cám ơn TS.Trần Thị Diệu Oanh - giáo viên hướng dẫn
khoa học đã tận tình giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành Luận văn này.
Học viên
Nguyễn Hà Giang
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học trong Luận văn được
rút ra từ quá trình nghiên cứu của đề tài này.
Mặc dù đã cố gắng đầu tư thời gian và công sức nghiên cứu để hoàn thành Luận
văn song do những hạn chế cá nhân khiến Luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Kính
mong quý thầy giáo, cô giáo và bạn đọc thông cảm.
Ngƣời thực hiện
Nguyễn Hà Giang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA
ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ............................................................... 7
1.1. Khái quát chung về đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh ..............................................7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân
dân tỉnh .......................................................................................................................... 15
1.3. Cấu thành hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh .....................23
1.4. Các bảo đảm cho hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh ..........33
Kết luận Chương 1.........................................................................................................44
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN ......................................................................45
2.1. Khái quát về cơ cấu tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh Nghệ An ................................................................................................................ 45
2.2. Tình hình hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An .............48
2.3. Đánh giá chung về hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ
An ..................................................................................................................................71
Kết luận Chương 2.........................................................................................................82
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CHẤT
VẤN CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN ......................83
3.1. Quan điểm bảo đảm hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ
An ..................................................................................................................................83
3.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ
An ..................................................................................................................................91
Kết luận Chương 3.......................................................................................................109
KẾT LUẬN ................................................................................................................110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................112
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
HĐND
Nguyên nghĩa
Hội đồng nhân dân
Luật Hoạt động giám sát của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
QH và HĐND 2015
nhân dân năm 2015
Luật Tổ chức HĐND và
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
UBND 2003
năm 2003
Luật Tổ chức CQĐP 2015
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
MTTQ
Mặt trận Tổ quốc
QH
Quốc hội
Quy chế hoạt động của
Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân ban hành
HĐND 2005
kèm theo Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11
TAND
Tòa án nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Nội dung
Trang
Bảng 2.1
So sánh số lượng đại biểu, đại biểu chuyên trách và
46
trình độ chuyên môn của đại biểu HĐND tỉnh khóa
XVI với đại biểu HĐND tỉnh khóa XV
Bảng 2.2
Tổng hợp thời gian dành cho phiên chất vấn qua các kỳ
họp HĐND tỉnh Nghệ An khóa XVI, nhiệm kỳ 20112016
4
57
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ
Nội dung
Trang
Sơ đồ 1.1
Chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp HĐND (theo Điều 60
28
Luật Hoạt động giám sát của QH và HĐND 2015)
Sơ đồ 1.2
Chất vấn và trả lời chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp
29
HĐND (theo Điều 69 Luật Hoạt động giám sát của QH và
HĐND 2015)
Sơ đồ 1.3
Chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp HĐND (theo Điều 41,
30
61 Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003)
Sơ đồ 1.4
Chất vấn và trả lời chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp
31
HĐND (theo Điều 41 Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003)
Sơ đồ 3.1
Quy trình chất vấn của đại biểu HĐND
99
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Chất vấn là một hình thức giám sát quan trọng của đại biểu HĐND, được tổ chức
công khai tại kỳ họp hoặc giữa hai kỳ họp HĐND. Hoạt động chất vấn của đại biểu
HĐND thể hiện ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia
quản lý xã hội của nhân dân, thể chế hóa và thực hiện phương châm: "Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra". Chất vấn là việc đại biểu HĐND nêu vấn đề thuộc trách
nhiệm của Chủ tịch UBND, thành viên khác của UBND, Chánh án TAND, Viện
trưởng VKSND, Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cùng cấp và yêu cầu những người
này trả lời; với mục đích là giải đáp, làm rõ trách nhiệm của các đối tượng bị chất vấn
trong quá trình thực thi nhiệm vụ theo thẩm quyền được phân công. Hoạt động chất
vấn là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ nhà nước của mình, thông qua
người đại diện, cơ quan đại diện nói lên tiếng nói, đòi hỏi sự giải trình làm rõ trách
nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, người có thẩm quyền trong các cơ quan quản
lý nhà nước về bất cứ lĩnh vực xã hội nào mà họ quan tâm và có bức xúc. Thực tế cho
thấy, hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND ngày một hoàn thiện về hình thức lẫn nội
dung và đã có nhiều kết quả tích cực; qua chất vấn của đại biểu HĐND, nhiều vấn đề
nổi cộm, bức xúc ở địa phương đã được giải quyết, sự băn khoăn, thắc mắc của cử tri
phần nào được giải tỏa, góp phần thể hiện rõ tính chất của HĐND là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, làm tăng vai trò đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan
nhà nước cấp trên của đại biểu HĐND; hoàn thành tốt chức năng giám sát việc tuân
theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND của
đại biểu HĐND.
Về mặt lý luận, phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Hiến pháp năm 2013 cùng
yêu cầu hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đề cập trong Văn kiện Đại hội
1
XII của Đảng là "Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ
quan dân cử…"[5, tr.177] và xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nên tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước đều phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân và
chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ nhà nước,
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, quyền kiểm tra, giám sát tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước thông qua nhiều kênh khác nhau, trong đó thông qua đại
biểu HĐND, được nhân dân ủy quyền, - là một kênh hữu hiệu. Hiện nay, Nhà nước ta đã
ban hành khá đầy đủ cơ sở pháp lý thực hiện quyền chất vấn của đại biểu HĐND bằng
Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật như Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01-7-2016, sau đây gọi tắt là Luật Hoạt
động giám sát của QH và HĐND 2015), ngoài ra là các văn bản pháp luật khác có liên
quan như Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01-012016 - sau đây gọi tắt là Luật Tổ chức CQĐP 2015, thay thế cho Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 - sau đây gọi tắt là Luật Tổ chức HĐND và
UBND 2003), Luật Bầu cử đại biểu QH và đại biểu HĐND năm 2015, các luật về tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, v.v.. Về thiết chế pháp luật, các cơ quan
dân cử cùng với hệ thống các cơ quan nhà nước khác ngày càng được xây dựng, củng cố
và hoàn thiện, tạo điều kiện cho đại biểu HĐND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình. Trên cơ sở nghiên cứu các thể chế và thiết chế đó, làm rõ về mặt lý luận về vị trí,
vai trò của đại biểu HĐND, về hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND nhằm tìm ra
những đổi mới trong hoạt động chất vấn để hoạt động này vừa nghiêm túc, vừa thẳng
thắn, vừa đúng mức lại có kết quả tốt là điều rất cần được quan tâm làm rõ.
Về mặt thực tiễn, có những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến hoạt động chất vấn
của đại biểu HĐND như sự nhận thức và thực hiện tốt quy định pháp luật ở từng địa
phương trong cả nước là chưa đồng đều, vẫn còn hiện tượng đại biểu HĐND chất vấn
hời hợt, không thực tế, không trúng và đúng những vấn đề xã hội và dư luận quan tâm,
hiện tượng đại biểu HĐND ngại va chạm, né tránh, nhiều vấn đề xã hội quan tâm bị
chất vấn nhiều lần nhưng không được giải quyết triệt để khiến cử tri không hài lòng.
Việc triển khai các quy định trong các văn bản pháp luật vào thực tế sinh động của đời
sống xã hội là một quá trình đòi hỏi vừa phải quán triệt, vừa phải linh hoạt với thực tế,
điều kiện từng địa phương.
2
So với HĐND và đại biểu HĐND cấp tỉnh trong cả nước, HĐND và đại biểu
HĐND tỉnh Nghệ An vừa có những nét chung lại vừa có những nét đặc thù riêng về tổ
chức và hoạt động. Việc nghiên cứu làm rõ những nội dung lý luận và thực tiễn về
hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND cấp tỉnh gắn với điều kiện riêng của địa
phương về kinh tế - xã hội, đặc điểm riêng về cơ cấu, thành phần và hoạt động của
HĐND, đại biểu HĐND tỉnh Nghệ An để từ đó đưa ra những quan điểm, giải pháp bảo
đảm thực hiện, tăng cường và nâng cao hình thức giám sát này; hạn chế, loại bỏ những
yếu tố tác động làm giảm chất lượng của nó; đồng thời đưa ra những nội dung và đòi
hỏi trách nhiệm cao của cơ quan dân cử, người đại diện dân cử một cách sát hợp là
một nội dung quan trọng.
Từ những lý do trên, học viên chọn đề tài: "Hoạt động chất vấn của đại biểu
Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An" để nghiên cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong thời gian qua, số công trình nghiên cứu được công bố về hoạt động chất
vấn của đại biểu HĐND nói chung, của đại biểu HĐND tỉnh nói riêng không nhiều, chủ
yếu là những công trình nghiên cứu về hoạt động chất vấn của đại biểu QH. Hoạt động
chất vấn của đại biểu HĐND được đề cập với tư cách là một trong các hình thức giám
sát khi nghiên cứu hoạt động giám sát của HĐND các cấp, có thể kể ra một số công
trình tiêu biểu như: "HĐND trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước” do PGS.TS.
Nguyễn Đăng Dung chủ biên, “Một số vấn đề chung về hiệu quả và việc nâng cao hiệu
quả giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước” của tác giả Võ Khánh Vinh. Ngoài ra,
có một số luận văn thạc sỹ của các tác giả có nghiên cứu về hoạt động giám sát của
HĐND cấp tỉnh như: “Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Nam Định” của Trịnh Minh
Đức, Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, 2014; “Hoạt động
giám sát của HĐND cấp tỉnh đối với UBND cùng cấp - Từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”
của Nguyễn Thị Hồng Oanh, Luận văn thạc sỹ Quản lý hành chính công, Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2011. Đối với tỉnh Nghệ An, có Luận
văn thạc sĩ Luật học của Hồ Thị Hưng: “Nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh
Nghệ An trong giai đoạn hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đề cập chức năng, nhiệm vụ, vai trò của HĐND
trong cơ cấu quyền lực nhà nước hoặc hoạt động giám sát của HĐND (một trong các
3
hình thức giám sát của HĐND là xem xét việc trả lời chất vấn của những người bị chất
vấn) và hoạt động giám sát của đại biểu HĐND (một trong các hình thức giám sát của
đại biểu HĐND là chất vấn những người bị chất vấn) nên chưa phải là những công trình
độc lập nghiên cứu riêng về hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND cấp tỉnh. Trên thực
tế, hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND cấp tỉnh được đề cập trong một số bài tham
luận, bài viết đăng tải trên một số báo, các trang thông tin điện tử của HĐND và UBND
một số tỉnh và một số báo cáo, tài liệu nghiên cứu về hoạt động chất vấn của đại biểu
HĐND một địa phương cụ thể như bài "Kỹ năng chất vấn của đại biểu dân cử" đăng trên
Trang thông tin điện tử của HĐND tỉnh Bạc Liêu ngày 25-8-2016; "Chất vấn tại kỳ họp
là một hình thức giám sát tốt của HĐND" đăng trên Trang tin bầu cử QH khóa XIV và
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 ngày 24-3-2016; "Giải pháp nâng cao chất lượng
và hiệu quả khi trả lời chất vấn tại kỳ họp HĐND tỉnh" đăng trên Trang thông tin điện tử
của HĐND tỉnh Vĩnh Phúc; "Nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn của đại biểu
HĐND" của tác giả Ngọc Hải đăng trên Trang thông tin điện tử Đoàn đại biểu QH và
HĐND tỉnh Quảng Ngãi...
Hiện tại, người viết chưa tìm thấy công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ cả
về mặt lý luận và thực tiễn về hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh, đặc biệt là
hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh Nghệ An. Làm rõ những nội dung lý luận
và thực tiễn về hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh vì thế là một nội dung
quan trọng. Luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu hoạt động chất vấn của đại biểu
HĐND tỉnh (cụ thể là hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh Nghệ An) trên cơ
sở quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ đó đưa ra
những quan điểm, giải pháp bảo đảm, nâng cao hoạt động chất vấn; hạn chế, loại bỏ
những yếu tố tác động làm giảm chất lượng, hiệu quả của hoạt động chất vấn của đại
biểu HĐND tỉnh. Điều này chứng tỏ vấn đề đặt ra là cấp thiết, nhưng rất khó khăn và
phức tạp.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động chất vấn của đại biểu
HĐND tỉnh Nghệ An trong giai đoạn 2011-2016 (giai đoạn có hiệu lực của Luật Tổ
chức HĐND và UBND 2003) để đề xuất các giải pháp bảo đảm, tăng cường hoạt động
chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh phù hợp với quy định pháp luật hiện hành (giai đoạn
4
có hiệu lực của Luật Hoạt động giám sát của QH và HĐND 2015, Luật Tổ chức
CQĐP 2015), bảo đảm và góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động chất vấn
của đại biểu HĐND tỉnh Nghệ An nói riêng, đại biểu HĐND cấp tỉnh nói chung.
- Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích trên, luận văn đặt ra nhiệm vụ sau:
+ Phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hoạt động chất vấn của
đại biểu HĐND tỉnh như xây dựng khái niệm, chỉ ra mục đích, đặc điểm, nội dung,
phạm vi, trình tự, thủ tục thực hiện, những yếu tố bảo đảm hoạt động chất vấn của đại
biểu HĐND tỉnh.
+ Đánh giá thực trạng và những bất cập trong hoạt động chất vấn của đại biểu
HĐND tỉnh qua việc đánh giá những kết quả đạt được, phân tích những hạn chế về
khách quan lẫn chủ quan của hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh Nghệ An giai
đoạn 2011-2016 phù hợp với pháp luật về hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND trong
giai đoạn này, tìm ra nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó.
+ Đưa ra những quan điểm và một số giải pháp cụ thể phù hợp với pháp luật về
chất vấn hiện hành như: Hoàn thiện thể chế về hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND
tỉnh; đổi mới nhận thức của xã hội và của đại biểu HĐND tỉnh về thực hiện thẩm quyền
chất vấn; nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm chất vấn của các đại biểu HĐND
tỉnh; bảo đảm điều kiện làm việc cho đại biểu HĐND trong hoạt động chất vấn; ...với
mục đích cuối cùng là bảo đảm cho hoạt động chất vấn, góp phần nâng cao chất lượng
và hiệu quả hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh nói chung, của đại biểu HĐND
tỉnh Nghệ An nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
của hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh, cụ thể là hoạt động chất vấn của đại
biểu HĐND tỉnh Nghệ An..
- Phạm vi nghiên cứu: Về không gian là tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp HĐND
tỉnh Nghệ An nơi diễn ra hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND; Về thời gian là giai
đoạn 2011-2016 tức nhiệm kỳ HĐND tỉnh Nghệ An khóa XVI.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học
Mác - Lênin (phép biện chứng duy vật); phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử.
5
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích, so sánh, thống kê tổng hợp…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa
học cho hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động chất vấn của đại biểu
HĐND tỉnh. Thực tiễn, phương hướng, giải pháp mà Luận văn đưa ra có thể giúp đại
biểu HĐND, các Ban của HĐND, Thường trực HĐND tỉnh tham khảo trong quá trình
thực hiện hoạt động chất vấn trong thời gian tới. Luận văn còn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, học tập thuộc chuyên ngành Luật học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các
bảng, Danh mục các sơ đồ và Phụ lục, đề tài được kết cấu gồm 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh
Chương 2: Thực trạng hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh
Nghệ An
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm hoạt động chất vấn của đại biểu Hội
đồng nhân dân tỉnh Nghệ An
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN
CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH
1.1. Khái quát chung về đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh
1.1.1. Vị trí, vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thành các đơn vị
hành chính các cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Cấp trung ương là cấp
vĩ mô, tổ chức quản lý toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Cấp tỉnh, huyện, xã (ở địa phương) là
cấp cụ thể hóa các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
của cơ quan nhà nước cấp trên trong phạm vi tỉnh, huyện, xã tương ứng. Nếu cấp trung
ương đề ra đường lối, chính sách thì cấp địa phương tổ chức thực hiện đường lối, chính
sách ấy trong phạm vi địa bàn. Cấp tỉnh là cấp đầu tiên của chính quyền địa phương, là
cấp trung gian giữa trung ương và huyện, xã, là cấp có phạm vi quản lý lớn hơn so với
cấp huyện và cấp xã. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính. Ở
cấp tỉnh, chính quyền địa phương gồm HĐND tỉnh và UBND tỉnh.
HĐND tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước ở tỉnh, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. HĐND tỉnh quyết
định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và
pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND. HĐND tỉnh gồm các
đại biểu HĐND tỉnh do cử tri ở địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của nhân dân, có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính
sách của Nhà nước, nghị quyết của HĐND, động viên nhân dân tham gia quản lý nhà
nước (theo Điều 113, 115 Hiến pháp năm 2013). Các quy định trên của Hiến pháp năm
2013 (sau được cụ thể hóa tại khoản 2 Điều 6 Luật Tổ chức CQĐP 2015) cơ bản kế
thừa nội dung của Điều 121 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 (đã được
cụ thể hóa tại Điều 36 Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003).
Có thể thấy, đại biểu HĐND tỉnh có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị ở
địa phương khi góp phần tạo điều kiện, thúc đẩy sinh hoạt chính trị của nhân dân ở địa
7
phương, là phương tiện, là cầu nối của cử tri trong tỉnh với Nhà nước (thông qua các
cơ quan nhà nước ở địa phương) trong mối quan hệ chính trị. Thông qua bầu cử, cử tri
địa phương ủy quyền của mình cho đại biểu HĐND để thông qua đại biểu HĐND, cử
tri thực hiện quyền làm chủ của mình đúng với phương châm: "dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra" khi tham gia bàn bạc, thảo luận và quyết định các vấn đề quan
trọng về kinh tế - xã hội ở địa phương (biểu quyết các nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội ở địa phương), khi thực hiện quyền giám sát, thanh tra, kiểm tra hoạt động của
các cơ quan nhà nước ở địa phương; khi thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo về những vi
phạm của cá nhân, cơ quan nhà nước ở địa phương trong thực hiện nhiệm vụ, công
vụ.... Ở vị trí đó, đại biểu HĐND liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử
tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của HĐND
tỉnh, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của cử tri và đại biểu HĐND được nhận những nhiệm vụ, quyền hạn
cụ thể được pháp luật quy định để thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình.
Ở vị trí là phương tiện, là cầu nối của cử tri trong tỉnh với các cơ quan nhà nước
trong mối quan hệ chính trị thì vai trò của đại biểu HĐND là đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân địa phương, ở tác dụng góp phần tạo điều kiện, thúc đẩy
sinh hoạt chính trị của nhân dân địa phương khi họ thực hiện quyền làm chủ của mình.
Nhiệm vụ của đại biểu HĐND là vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật,
chính sách của Nhà nước, nghị quyết của HĐND, tham gia quản lý nhà nước. Qua việc
thực hiện nhiệm vụ của mình, vai trò của đại biểu HĐND tỉnh thể hiện trên hai khía
cạnh nội dung (thứ nhất: thực hiện các công vụ của trung ương giao cho chính quyền
địa phương là vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính sách của
Nhà nước; và thứ hai: thực hiện công vụ địa phương là vận động nhân dân thực hiện
nghị quyết của HĐND) cụ thể như sau:
+ Ở vai trò thực hiện các công vụ của trung ương giao cho chính quyền địa
phương thì HĐND giám sát việc triển khai công việc này. Đại biểu HĐND với tư cách
là thành viên HĐND sẽ giám sát việc thực hiện công vụ của trung ương giao cho địa
phương. Đại biểu HĐND phát huy vai trò tích cực của mình trong hoạt động giám sát.
Qua tiếp xúc cử tri và thực tiễn hoạt động, đại biểu phát hiện những vấn đề nổi cộm,
bức xúc ở địa phương, từ đó có ý kiến chất vấn các cá nhân, cơ quan liên quan hoặc
kiến nghị với Thường trực, các Ban HĐND để tổ chức các đoàn giám sát nhằm làm rõ
8
trách nhiệm và đề xuất các giải pháp khắc phục. Các đại biểu kiến nghị buộc các cá
nhân, cơ quan có liên quan phải giải quyết những vấn đề đó.
+ Ở vai trò thực hiện công vụ địa phương, HĐND quyết định chính sách địa
phương, đồng thời giám sát việc thực hiện các chính sách này. Là thành viên của
HĐND, đại biểu HĐND tham gia cụ thể hóa chủ trương của cấp ủy, ra quyết định
đúng đắn về quy hoạch và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương từng năm, từng giai đoạn; quyết định phân bổ nguồn lực công và nguồn lực
đầu tư được huy động từ các thành phần kinh tế hợp lý, đúng quy định của pháp luật.
Phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều hành trong quá trình xem xét, quyết định quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. HĐND nghiên cứu, phân tích chính sách,
lấy ý kiến của cử tri và thông qua các đại biểu HĐND quyết định các mục tiêu, các
chương trình trọng điểm, danh mục các dự án đầu tư trong thời kỳ quy hoạch, kế
hoạch, ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển các lĩnh vực kịp thời, phát huy tác
dụng trong thực tiễn cuộc sống. Đại biểu HĐND đóng góp trí tuệ và trách nhiệm trong
thảo luận để tập thể thống nhất cao trước khi quyết định các vấn đề nêu trên. Trong các
kỳ họp, đại biểu thảo luận kỹ từng nghị quyết chuyên đề, những nội dung còn nhiều ý
kiến khác nhau được tách ra để bàn thảo đến khi thống nhất. Các đại biểu tranh luận
dân chủ, thẳng thắn về nội dung các nghị quyết trước khi thông qua. Việc tranh luận,
đối thoại công khai trước khi tiến hành biểu quyết cho thấy HĐND thực sự là của dân,
do dân và vì dân và đại biểu HĐND thực sự là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng
và quyền lợi của nhân dân bởi cơ quan dân cử, các đại biểu dân cử đã nói lên tiếng nói
của người dân, lấy lợi ích của nhân dân làm cơ sở để ban hành các quyết sách [17].
1.1.2. Trách nhiệm, quyền hạn và tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh
1.1.2.1. Trách nhiệm
Trách nhiệm của đại biểu HĐND được quy định tại khoản 1 Điều 115 Hiến pháp
năm 2013 (trước đây được quy định tại Điều 121 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ
sung năm 2001): "…liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện
chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của HĐND, trả lời những
yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đại
biểu HĐND có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính
sách của Nhà nước, nghị quyết của HĐND, động viên nhân dân tham gia quản lý nhà
9
nước"; các nhiệm vụ này được cụ thể hóa tại các điều 93, 94, 95 Luật Tổ chức CQĐP
2015 (kế thừa quy định tại các điều 38, 39, 40 Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003)
như: trách nhiệm tham dự kỳ họp, phiên họp HĐND, trách nhiệm tiếp xúc cử tri,
trách nhiệm tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của
công dân. Trách nhiệm của đại biểu HĐND diễn ra trong mối quan hệ với cử tri và
nhân dân địa phương, xoay quanh việc phục vụ nhân dân, hoàn thành việc đại diện cho
ý chí, nguyện vọng, tiếng nói của nhân dân, bảo đảm cho nhân dân được thực hiện đầy
đủ và trọn vẹn tư cách làm chủ của mình như: quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội
của địa phương; thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cá nhân, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để tránh lộng quyền, lạm quyền, vi phạm nguyên tắc dân chủ, vi
phạm pháp luật, để hoạt động của cá nhân, cơ quan đó đi vào nền nếp, minh bạch và
hiệu quả; mọi khiếu nại, tố cáo của người dân đều được xem xét giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Trách nhiệm của đại biểu HĐND với cử tri và nhân dân thể hiện:
Một là, qua trách nhiệm chung của HĐND. HĐND quyết định các vấn đề của địa
phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và
việc thực hiện nghị quyết của HĐND. Như vậy, ở vai trò thực hiện công vụ địa
phương, HĐND quyết định chính sách địa phương về việc thực hiện công vụ địa
phương, đồng thời giám sát việc thực hiện các chính sách này. Ở vai trò thực hiện các
công vụ của trung ương giao cho chính quyền địa phương thực hiện thì HĐND giám
sát việc triển khai công việc này. Đại biểu HĐND với tư cách là thành viên HĐND sẽ
trực tiếp thực hiện các công vụ địa phương và công vụ của trung ương giao cho địa
phương đó.
Hai là, qua trách nhiệm của từng đại biểu HĐND như trách nhiệm tham dự kỳ
họp, phiên họp HĐND, trách nhiệm tiếp xúc cử tri, trách nhiệm tiếp công dân,
tiếp nhận, tổng hợp và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Cụ thể:
- Với trách nhiệm tham dự kỳ họp, phiên họp HĐND, đại biểu HĐND có nhiệm
vụ chấp hành nội quy kỳ họp, tham dự đầy đủ kỳ họp, phiên họp của HĐND, cuộc
thảo luận ở Tổ đại biểu HĐND, cuộc họp Ban của HĐND mà đại biểu là thành viên,
tham gia các hoạt động khác của HĐND. Khi nhận được thông báo về thời gian, dự
kiến chương trình và tài liệu kỳ họp, đại biểu HĐND phải nghiên cứu tài liệu, tiếp xúc
10
cử tri, tham gia các hoạt động của Tổ đại biểu HĐND chuẩn bị cho kỳ họp HĐND.
Trong kỳ họp HĐND, đại biểu HĐND tham gia thảo luận và quyết định chương trình
kỳ họp, thảo luận tại phiên họp toàn thể và thảo luận ở Tổ đại biểu HĐND về các vấn
đề thuộc nội dung, chương trình kỳ họp, biểu quyết thông qua những vấn đề thuộc nội
dung, chương trình kỳ họp.
- Với trách nhiệm tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, đại biểu HĐND phải liên hệ
chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu
thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri với HĐND và
cơ quan nhà nước hữu quan ở địa phương; mỗi năm một lần vào cuối năm, kết hợp với
việc tiếp xúc cử tri, đại biểu HĐND báo cáo với cử tri ở đơn vị bầu ra mình về hoạt
động trong năm, nhiệm vụ năm tới của mình và của HĐND. Sau mỗi kỳ họp HĐND,
đại biểu HĐND có trách nhiệm báo cáo với cử tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến và
giải thích các nghị quyết của HĐND, vận động và cùng với nhân dân thực hiện các
nghị quyết đó. Trong thời gian giữa hai kỳ họp, đại biểu HĐND có nhiệm vụ tiếp xúc
cử tri ở đơn vị bầu cử ra mình, phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân với HĐND
và các cơ quan nhà nước, báo cáo kết quả phiên họp giữa hai kỳ họp với cử tri, tuyên
truyền thực hiện tốt pháp luật. Đại biểu HĐND tiếp công dân nhằm thu thập ý kiến,
nguyện vọng, kiến nghị của công dân; giải thích, tuyên truyền chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho công dân; hướng dẫn, giúp đỡ công
dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và nhận đơn, thư của công dân để chuyển đến cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Khi nhận
được ý kiến, kiến nghị của công dân, đại biểu HĐND xem xét, nghiên cứu để phản ánh
tới Thường trực HĐND hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
- Với trách nhiệm tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công
dân, đại biểu HĐND nghiên cứu và hướng dẫn công dân gửi khiếu nại, tố cáo đến đúng
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp cần thiết, đại
biểu HĐND trực tiếp hoặc thông qua Thường trực HĐND chuyển đến cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền để xem xét giải quyết. Đại biểu HĐND đôn đốc, theo dõi cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định về
trách nhiệm tiếp công dân của HĐND, đại biểu HĐND tại khoản 2 Điều 4 và Điều 22,
ngoài ra có các điều 24, 27, 28 quy định về hoạt động tiếp công dân, trụ sở và lịch tiếp
11
công dân. Điều 23 Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định chi tiết việc tiếp công dân của HĐND, đại biểu HĐND. Ngày 15-5-2014,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 759/2014/UBTVQH13 quy định
chi tiết về hoạt động tiếp công dân của các cơ quan của QH, đại biểu QH, HĐND và
đại biểu HĐND các cấp. Theo đó, đại biểu HĐND các cấp có trách nhiệm tiếp công
dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Thường trực HĐND cấp tỉnh có trách
nhiệm tổ chức để đại biểu HĐND cấp mình tiếp công dân. Đại biểu HĐND cấp tỉnh
thực hiện việc tiếp công dân tại trụ sở tiếp công dân cùng cấp và tại nơi tiếp công dân
ở địa phương mà đại biểu ứng cử theo sự bố trí của Thường trực HĐND cùng cấp.
Trường hợp đại biểu HĐND chuyển sinh hoạt đến địa phương khác trong cùng đơn vị
hành chính cấp đại biểu được bầu thì thực hiện việc tiếp công dân ở nơi chuyển đến.
Đại biểu HĐND cấp tỉnh thực hiện việc tiếp công dân theo lịch tiếp công dân đã được
công bố. Trường hợp không thể thực hiện được việc tiếp công dân theo lịch tiếp công
dân đã được công bố do có lý do chính đáng thì đại biểu HĐND có trách nhiệm thông
báo đến Thường trực HĐND cấp tỉnh để điều chỉnh lịch; đồng thời dự kiến thời gian
cụ thể thực hiện việc tiếp công dân.
1.1.2.2. Quyền hạn
Để thực hiện trách nhiệm của mình, đại biểu HĐND tỉnh được pháp luật trao cho
những quyền hạn nhất định. Quyền hạn của đại biểu HĐND được quy định tại các điều
96, 97, 98, 99, 100 Luật Tổ chức CQĐP 2015, đó là: quyền chất vấn, quyền kiến nghị,
quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để kịp
thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật khi đại biểu HĐND phát hiện hành vi vi
phạm pháp luật, quyền yêu cầu cung cấp thông tin, quyền miễn trừ. Về quyền chất vấn,
đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND, Ủy viên
UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND cùng cấp. Người bị chất vấn phải trả
lời về những vấn đề mà đại biểu HĐND chất vấn. Về quyền kiến nghị, đại biểu HĐND
có quyền kiến nghị HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND
bầu, tổ chức phiên họp bất thường và kiến nghị về những vấn đề khác mà đại biểu thấy
cần thiết. Về quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật, đại biểu HĐND yêu cầu
cơ quan, tổ chức hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt
hành vi vi phạm pháp luật. Về quyền yêu cầu cung cấp thông tin, đại biểu HĐND có
quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến
12
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Về quyền miễn trừ của đại biểu
HĐND, không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu HĐND, khám xét nơi ở và nơi làm
việc của đại biểu HĐND nếu không có sự đồng ý của HĐND hoặc trong thời gian
HĐND không họp, không có sự đồng ý của Thường trực HĐND. Trường hợp đại biểu
HĐND bị tạm giữ vì phạm tội quả tang thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để
HĐND hoặc Thường trực HĐND xem xét, quyết định.
Trong các quyền hạn của đại biểu HĐND, quyền chất vấn quy định tại Điều 96 và
quyền kiến nghị quy định tại Điều 97 được hiến định trong khoản 2 Điều 115 Hiến pháp
năm 2013 nên mang tính quyền lực nhà nước. Hai quyền hạn này có khả năng tác động
đến những đối tượng thuộc tầng cao nhất của bộ máy nhà nước tại địa phương, ảnh
hưởng rất lớn đến đời sống chính trị của nhân dân địa phương. Quyền yêu cầu cơ quan,
tổ chức hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi
phạm pháp luật khi đại biểu HĐND phát hiện hành vi vi phạm pháp luật khẳng định
quyền năng tác động đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhằm bảo vệ lợi
ích của nhân dân, của xã hội. Quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông
tin, tài liệu là quyền hạn được Luật Tổ chức CQĐP 2015 bổ sung so với Luật Tổ chức
HĐND và UBND 2003. Quyền miễn trừ thực chất là quyền bất khả xâm phạm của đại
biểu, quyền có được sự bảo đảm quan trọng về mặt pháp lý cần thiết khi đại biểu HĐND
thực hiện nhiệm vụ, chức trách của mình xuất phát từ thực tế là trong hoạt động của
mình (đặc biệt là hoạt động giám sát, chất vấn), nếu đại biểu phải đối mặt với khả năng
chịu trách nhiệm hoặc hậu quả pháp lý về quyết định, phát biểu của mình thì họ không
thể phản ánh được một cách đầy đủ các tâm tư, nguyện vọng của người dân cũng như
bảo vệ đến cùng các lợi ích chính đáng của nhân dân, không dám nêu lên hoặc phản đối
những vấn đề có khả năng xâm hại đến lợi ích của cộng đồng. Để bảo đảm cho việc thực
hiện các quyền nêu trên của đại biểu HĐND, pháp luật cũng quy định cách thức,
phương tiện, trình tự, thời hạn thực hiện các quyền và trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức hữu quan phải thi hành.
1.1.2.3. Tiêu chuẩn
Trước khi có Luật Tổ chức CQĐP 2015, tiêu chuẩn của đại biểu HĐND được
quy định tại Điều 3 Luật Bầu cử đại biểu HĐND năm 2003. Hiện nay, Điều 7 Luật Tổ
chức CQĐP 2015 quy định về tiêu chuẩn của đại biểu HĐND như sau: "1. Trung
thành với Tổ quốc, nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì
13
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 2. Có phẩm chất đạo
đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có
bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác. 3. Có trình độ văn hóa,
chuyên môn, đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện
nhiệm vụ đại biểu; có điều kiện tham gia các hoạt động của HĐND. 4. Liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm". Pháp luật
quy định về tiêu chuẩn của đại biểu HĐND như vậy là để bảo đảm những người được
bầu làm đại biểu HĐND có khả năng và điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình,
đáp ứng được sự tin cậy của nhân dân địa phương. Ngay từ khi ứng cử, tiêu chuẩn đại
biểu HĐND mà nhân dân “chọn mặt gửi vàng” đã được xác định rõ, đó là người trung
thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu hết mình cho công cuộc đổi
mới đất nước và xây dựng địa phương, có lập trường tư tưởng vững vàng, tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của nhân dân, nghiêm chỉnh thực hiện và đấu
tranh với mọi sai trái, tham ô, lãng phí, hách dịch, các tệ nạn xã hội, bảo đảm thực hiện
chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên mọi lĩnh
vực kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng chính quyền,… Đó là những
người có phẩm chất đạo đức, gương mẫu, có lối sống trong sạch, lành mạnh, trung
thực, chân thành, có tấm lòng nhân hậu, quan tâm và quan hệ tốt với mọi người, tích
cực tham gia các hoạt động xã hội, có uy tín với nhân dân địa phương. Một tiêu chuẩn
không thể thiếu đối với người đại biểu dân cử là phải có trình độ năng lực, hiểu biết
pháp luật, không ngừng nâng cao trình độ, đủ sức tham gia quyết định các vấn đề quan
trọng của địa phương, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn: sâu sát, biết lắng nghe ý
kiến của dân, có khả năng tuyên truyền đường lối, nghị quyết của Đảng, thuyết phục
nhân dân thực hiện nghị quyết của HĐND. Mỗi đại biểu HĐND phấn đấu thực hiện
thật tốt lời dạy của Bác Hồ đối với các đại biểu dân cử: “luôn luôn cố gắng để xứng
đáng là những người đày tớ trung thành của đồng bào, những đại biểu cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ
chủ nghĩa xã hội” [16, tr.567]. Trước yêu cầu đó, để làm tròn trọng trách thật sự là
người đại diện quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, đòi hỏi mỗi vị đại biểu một
mặt phải hiểu biết thực tế, phải tự nâng cao năng lực, trình độ để đáp ứng yêu cầu,
14
nhiệm vụ, mặt khác, phải nắm vững những chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước để tham gia chương trình nghị sự của kỳ họp, xem xét,
quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương có chất lượng và hiệu quả cao,
góp phần tích cực vào việc xây dựng và phát triển tỉnh nhà giàu về kinh tế, mạnh về
quốc phòng - an ninh, dân chủ, công bằng và văn minh.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích hoạt động chất vấn của đại biểu Hội
đồng nhân dân tỉnh
1.2.1. Khái niệm
Chất vấn được hiểu là "hỏi và đề nghị giải thích rõ về điều gì, việc gì" [35]. Chất
vấn có thể được dùng rộng rãi trong mọi lĩnh vực, theo đó người bị chất vấn là người
có dữ liệu thông tin hay sự hiểu biết nhất định và do đó có một nghĩa vụ (tư cách hay
trách nhiệm) cung cấp thông tin giải đáp cho vấn đề, hay nói cách khác là người bị
chất vấn được đề nghị, được yêu cầu hay bắt buộc phải trả lời.
Trong lĩnh vực chính trị, chất vấn được hiểu là hoạt động giám sát đặc biệt quan
trọng, thể hiện quyền lực của cơ quan dân cử và trách nhiệm của các đại biểu dân cử
với cử tri của mình, đồng thời cũng xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các
cơ quan công quyền.
Chất vấn (interpellation), theo định nghĩa của Từ điển Webster’s 1913
Dictionary, là yêu cầu quan chức giải thích hoạt động, hành động của mình; là những
câu hỏi buộc phải trả lời; là vấn đề nổi lên trong khi tranh luận.
Quyền chất vấn của đại biểu HĐND được hiến định tại khoản 2 Điều 115 Hiến
pháp năm 2013. Trong Luật Hoạt động giám sát của QH và HĐND 2015, khoản 7
Điều 2 quy định: “Chất vấn là việc…đại biểu HĐND nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của
Chủ tịch UBND, thành viên khác của UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND,
Thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cùng cấp và yêu cầu những người này trả lời về trách
nhiệm của mình đối với vấn đề được nêu”; Điều 84 quy định: "1. Đại biểu HĐND có
quyền chất vấn trực tiếp tại kỳ họp HĐND, phiên họp Thường trực HĐND hoặc gửi
chất vấn bằng văn bản đến người bị chất vấn.... 2. Nội dung chất vấn phải cụ thể, rõ
ràng, có căn cứ và phải liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người bị
chất vấn. 3. Trình tự, thủ tục chất vấn của đại biểu HĐND tại kỳ họp HĐND, phiên
họp Thường trực HĐND được thực hiện theo quy định tại Điều 60 và Điều 69 của
15
Luật này và Quy chế hoạt động của HĐND, đại biểu HĐND". Từ các quy định pháp
luật có thể hiểu chất vấn là việc đại biểu HĐND tỉnh nêu ra và yêu cầu những người
đứng đầu các cơ quan nhà nước ở tỉnh trả lời về trách nhiệm của họ đối với những vi
phạm pháp luật, những biểu hiện yếu kém, trì trệ, không thi hành nghiêm chỉnh, hoặc
thi hành không đến nơi, đến chốn các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của HĐND tỉnh, không thực hiện hoặc có thái độ
xem thường các kiến nghị xác đáng của Thường trực HĐND, biểu hiện tham ô, tham
nhũng…xảy ra thuộc lĩnh vực thẩm quyền mà họ có trách nhiệm quản lý. Qua hoạt
động chất vấn, các vấn đề bất cập nêu trên sẽ phải được quan tâm giải quyết, góp phần
bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân địa phương, tăng cường nền nếp, sự hoạt động
công khai, minh bạch, hiệu lực và hiệu quả của cơ quan nhà nước, người đứng đầu cơ
quan nhà nước, đồng thời qua đó năng lực, trách nhiệm của những người nắm giữ các
cương vị lãnh đạo các cơ quan nhà nước này ở tỉnh được xem xét đánh giá. Về phía
đại biểu HĐND, chất vấn là phương tiện để người đại biểu thực hiện nhiệm vụ đại
diện cho tiếng nói, ý chí và nguyện vọng của nhân dân địa phương trong việc tham gia
quản lý nhà nước và xã hội, là công cụ để đại biểu HĐND tỉnh giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước ở địa phương.
Từ các phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về hoạt động chất vấn của đại
biểu HĐND tỉnh như sau: Chất vấn là một hình thức giám sát của đại biểu HĐND tỉnh,
được tổ chức công khai tại kỳ họp hoặc giữa hai kỳ họp HĐND tỉnh, theo đó đại biểu
HĐND tỉnh nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch UBND tỉnh, thành viên khác của
UBND tỉnh, Chánh án TAND tỉnh, Viện trưởng VKSND tỉnh, Thủ trưởng cơ quan thuộc
UBND tỉnh và yêu cầu những người này trả lời nhằm giải đáp, làm rõ trách nhiệm của họ
trong quá trình thực thi nhiệm vụ theo thẩm quyền được phân công.
1.2.2.
c điểm
Thứ nhất, chất vấn có hàm nghĩa phỏng vấn nhưng khác với các hình thức giao
tiếp hỏi đáp nhằm tìm kiếm sự thật. Hoạt động này không chỉ đơn giản là việc hỏi, trả
lời, sự khác biệt ở chỗ người được phỏng vấn là người có thông tin hay sự hiểu biết
nhưng không nhất thiết phải có trách nhiệm, nghĩa vụ trả lời. Tại kỳ họp HĐND tỉnh
và phiên họp Thường trực HĐND tỉnh trong thời gian giữa hai kỳ họp, chất vấn là một
khái niệm có nội hàm rộng hơn rất nhiều. HĐND tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất ở tỉnh; người chất vấn ở đây là các đại biểu HĐND tỉnh - những người đại
16
diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân ở địa phương. Do đó, mỗi câu hỏi
tại kỳ họp, phiên họp đó phải là những vấn đề liên quan tới lợi ích của đa số cử tri,
được đông đảo nhân dân quan tâm, những vấn đề mà dư luận xã hội đang bức xúc và
cần có biện pháp tháo gỡ, những vấn đề có tính chất dự báo, có thể diễn ra, nếu không
có cách thức ứng phó kịp thời sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương. Chất vấn là để quy kết trách nhiệm, đòi hỏi biện pháp giải quyết mà
không chỉ là tìm hiểu thông tin và người bị chất vấn buộc phải trả lời.
Chất vấn khác với câu hỏi thông thường bởi chất vấn là hình thức giám sát và là
quyền của đại biểu HĐND được Hiến pháp quy định, mang tính chất pháp lý. Người
chất vấn và người bị chất vấn được pháp luật đặt ở vị trí quan trọng, thảo luận những
vấn đề kinh tế - xã hội của địa phương. Do đó, sẽ không thể chấp nhận sự dễ dãi hay
thiếu nghiêm túc trong chất vấn cũng như trả lời chất vấn. Đại biểu sử dụng quyền chất
vấn như một biện pháp cuối cùng để quy kết trách nhiệm của cơ quan, cá nhân bị chất vấn
một cách công khai; và nhờ sự tác động mang tính quyền lực mạnh mẽ nhất của cơ quan có
thẩm quyền mà khắc phục được các khuyết điểm của cơ quan hoặc người bị chất vấn. Với ý
nghĩa như vậy, chất vấn không chỉ đơn giản là quyền riêng của cá nhân đại biểu, mà còn là
hình thức giám sát có hiệu quả của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây chính là sự khác
nhau cơ bản giữa chất vấn với câu hỏi thông thường.
Chất vấn khác với đàn hạch - một khái niệm dùng trong khoa học pháp lý có
nghĩa là hạch hỏi, vạch rõ các tội lỗi, vi phạm. Pháp luật thời kỳ phong kiến ở nước ta
trước đây cũng như ở một số nước hiện nay - ví dụ Mỹ - có quy định về đàn hạch là một
hình thức giám sát mạnh mẽ đối với các chức danh lãnh đạo trong bộ máy nhà nước. Cơ
sở để tiến hành thủ tục “đàn hạch” là các hành vi phản bội Tổ quốc, nhận hối lộ hay
phạm những tội nghiêm trọng khác với mục đích là ngăn chặn sự lạm quyền của người
có quyền hành trong bộ máy nhà nước, còn cơ sở của chất vấn là trách nhiệm của cá
nhân, cơ quan nhà nước đối với những vi phạm pháp luật, những biểu hiện yếu kém, trì
trệ, không thi hành nghiêm chỉnh, thi hành không đến nơi, đến chốn các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của HĐND, không
thực hiện hoặc có thái độ xem thường các kiến nghị xác đáng của Thường trực HĐND,
biểu hiện tham ô, tham nhũng…xảy ra thuộc lĩnh vực thẩm quyền quản lý của cá nhân,
cơ quan đó.
17