Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất trên địa bàn quận Đống Đa thành phố Hà Nội (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
....…../………

BỘ NỘI VỤ
…….../………

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HOÀNG THẮNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG GIẢI
PHÓNG MẶT BẰNG THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
MÃ SỐ: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN BÁ CHIẾN

HÀ NỘI – NĂM 2017


1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là luận văn do chính tôi nghiên cứu và thực
hiện; các kết quả phân tích trong luận văn là hoàn toàn trung thực, không
được sao chép của bất kỳ công trình nào trước đây, các số liệu của luận văn
được lấy từ nguồn chính thống, trung thực và chưa được công bố. Nếu không
đúng như nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng chấm


luận văn thạc sĩ và Nhà trường.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Hoàng Thắng

1


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi gửi lời cảm ơn đến tập thể các giáo sư, các nhà khoa
học, các thầy giáo, cô giáo của Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tình
truyền đạt kiến thức chỉ bảo tôi trên con đường học tập và nghiên cứu khoa
học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến đã dành
nhiều tâm huyết, trí tuệ của mình, giúp định hướng khoa học và luôn động
viên khích lệ tôi hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.
Xin cám ơn bạn bè, đồng nghiệp, của Học viện Hành chính Quốc gia, UBND
quận Đống Đa đã giúp tôi tìm kiếm tài liệu, cung cấp thông tin có liên quan
đến đề tài, cũng như góp ý kiến để luận văn của tôi được tốt hơn.

Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

NGUYỄN HOÀNG THẮNG

2


MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan
1
Mục lục
3
Danh mục các chữ viết tắt
4
MỞ ĐẦU
5
Chương 1: LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI
11
THƯỜNG GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG THU HỒI ĐẤT
1.1. Những khái niệm cơ bản
11
1.2. Ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
20
1.. Nội dung pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi
22
đất
1.5. Hình thức về thực hiện pháp luật về bồi thường thu hồi đất
29
1.6. Một số điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật khi Nhà nước thu
hồi đất
1.7. Kinh nghiệm thu hồi đất của một số địa phương
35
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI
48
THƯỜNG GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA
BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến việc

48
thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất
trên địa quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng mặt
57
bằng thu hồi đất trên địa bàn quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC
76
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG GIẢI PHÓNG MẶT
BẰNG THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Phương hướng thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng
76
mặt bằng thu hồi đất trên địa bàn quận Đống Đa, TP Hà Nội.
3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng
81
mặt bằng thu hồi đất trên địa bàn quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
thời gian tới
KẾT LUẬN
104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
105

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANTT


An ninh trật tự

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

GPMB

Giải phóng mặt bằng

UBND

Ủy ban nhân dân

TĐC

Tái định cư

THĐ

Thu hồi đất

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

4


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Đất đai đã được khẳng định là một tài nguyên quốc gia vô cùng quý
giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực, nguồn vốn vô cùng to lớn
của đất nước, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa
bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh và quốc phòng. Ngay từ thuở sơ khai của xã hội loài người, con người đã
biết sử dụng đất theo các mục đích khác nhau để phục vụ cho sự sinh tồn và
phát triển của mình. Theo thời gian và sự lao động đã làm cho nhận thức của
con người càng được hoàn thiện, nâng cao cùng với nhu cầu sử dụng đất ngày
càng tăng để phục vụ cho đời sống, cho sản xuất, cho sự phát triển kinh tế - xã
hội và công tác quản lý việc sử dụng đất đã được xây dựng một cách có khoa
học, theo hệ thống thống nhất từ tổng thể đến chi tiết và theo quy định chung
của pháp luật Nhà nước.
Sử dụng đất đai vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng, để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, đặc biệt là các dự án
phát triển đô thị, dự án sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế là một tất yếu
khách quan trong quá trình phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước. Để có mặt bằng xây dựng các dự án, Nhà nước phải thu hồi đất của
nhân dân và thực hiện việc bồi thường hỗ trợ tái định cư cho các hộ dân có
đất bị thu hồi.
Trong thời gian gần đây, vấn đề thực hiện cơ chế Nhà nước thu hồi đất
của người đang sử dụng đất để giao đất cho các nhà đầu tư vẫn đang gây
nhiều bức xúc trong thực tế triển khai, nhất là những bức xúc của người bị thu
hồi đất về thực hiện bồi thường. Mặc dù các quy định của pháp luật về bồi
thường khi nhà nước thu hồi đất đã từng bước được hoàn thiện, ngày càng rõ

5


ràng, cụ thể về nguyên tắc, điều kiện, đơn giá thực hiện bồi thường, hỗ trợ về

đất đai và tài sản khi Nhà nước thu hồi đất.
Tuy nhiên đất đai và công tác bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi
đất đang là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp do đó thực tế thực hiện pháp
luật về bồi thường, giải phóng mặt bằng thu hồi đất vẫn còn nhiều vướng mắc
và tồn tại gây nhiều bức xúc trong nhân dân.
Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội là một quận trung tâm với nhiều
tiềm năng để phát triển kinh tế, hiện đang có những chính sách để thu hút đầu
tư trong và ngoài nước. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước thì nền kinh tế - xã hội đang từng ngày phát triển. Trên địa bàn toàn
quận có rất nhiều dự án đã và đang được đầu tư, nhưng công tác bồi thường
giải phóng mặt bằng và thu hồi đất đang gặp rất nhiều khó khăn do nhiều
nguyên nhân. Nguyên nhân chủ yếu do đất ở và nhà cửa cũng như vật kiến
trúc là tài sản rất lớn đối với người dân nơi đây làm ảnh hưởng nhiều đến sản
xuất và đời sống của nhân dân.Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài : “Thực hiện
pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất trên địa bàn quận
Đống Đa, Thành phố Hà Nội” để nghiên cứu luận văn là cấp thiết cả về lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Pháp luật bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất là đề tài thu hút
sự quan tâm nghiên cứu, thời gian qua đã có rất nhiều công trình khoa học về
vấn đề này được công bố, như :
- Luận văn thạc sĩ luật học về "Pháp luật về bồi thường, giải phóng
mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất", của Hoàng Thị Nga, năm 2009.
- Cuốn sách " Hậu giải phóng mặt bằ ng ở Hà Nội - Vấ n đề và giải
pháp" của PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ và TS Hoàng Xuân Nghiã (đồ ng chủ
biên), Nhà xuấ t bản Chính tri ̣quố c gia, năm 2009.

6



- Bài viết "Giải bài toán lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể: Nhà nước,
người có đất bị thu hồi và chủ đầu tư khi bị thu hồi đất", của ThS. Đặng Đức
Long - Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 5, 2009.
- Luận văn thạc sĩ luật học "Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội",
của Nguyễn Thị Yến, năm 2010.
- Bài viế t " Chính sách đề n bù khi thu hồ i đấ t của một số nước trong
khu vực và Viê ̣t Nam", của ThS. Nguyễn Thi ̣ Dung, Ta ̣p chí Cô ̣ng sản, số
2010.
- Bài viế t " Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồ i đấ t", của TS. Trầ n
Quang Huy, Ta ̣p chí Luâ ̣t ho ̣c, số 10, 2010.
- Luận văn tốt nghiệp “Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn
quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội”, của Nguyễn Thị Nhi - Đại học Tài
nguyên môi trường, năm 2014.
- Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về bồi thường giải phóng mặt
băng khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn thi hành tại địa bàn quận Đống
Đa, Thành phố Hà Nội”, Nguyễn Thế Hùng, năm 2015
Các công trình nghiên cứu trên đây đã giải quyết một số vấn đề lý luận
và thực tiễn cơ bản liên quan đến pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng
thu hồi đất ở nước ta. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chưa đi sâu
đánh giá việc thực hiện pháp luật mà chỉ mới dừng lại những quy định của luật
theo như quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn khác.
Bên cạnh đó cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện công tác thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu
hồi đất trên địa bàn quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Vì vậy, nghiên cứu đề

7



tài luận văn này là đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra và không trùng lặp với các
công trình, đề tài nghiên cứu đã từng công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn có mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp
luật về thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
- Nghiên cứu làm rõ và đánh giá đúng thực trạng thực hiện pháp luật về
bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội, tìm ra những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
của những tồn tại, hạn chế.
- Đề xuất các giải pháp các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
quận Đống Đa nói riêng và địa bàn thành phố Hà Nội nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật bồi thường giải phóng mặt
bằng khi Nhà nước thu hồi đất.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng về thực hiện pháp luật bồi thường giải
phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Đống Đa, thành
phố Hà Nội; tìm ra những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế.
- Đề xuất các giải pháp các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

8



- Những lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất.
- Những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và các quy định của thành phố Hà Nội, quận Đống Đa về bồi
thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất.
- Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
- Các kết quả nghiên cứu khoa học về bồi thường, GPMB khi Nhà nước thu
hồi đất ở Việt Nam đã công bố trong và ngoài nước thời gian qua,…

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng
mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà
Nội từ năm 2012 đến hết năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối của
Đảng, Nhà nước về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất cũng như
thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích và tổng kết: Hệ thống các văn bản hướng dẫn,
các tài liệu tham khảo, giáo trình, sách, công trình nghiên cứu, bài viết đã
được công bố liên quan bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất. Thực
tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất trên
địa bàn Thủ Đô nói chung và trên địa bàn quận Đống Đa nói riêng, kết quả

9



đã đạt được, hạn chế thiếu sót và nguyên nhân, những yếu tố tác động và
phân tích đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu công tác này.
- Phương pháp thống kê về cán bộ thực hiện pháp luật về bồi thường
giải phóng mặt bằng thu hồi đất trên địa bàn quận Đống Đa và kết quả thực
hiện công tác này.
- Phương pháp chuyên gia qua gặp gỡ, trao đổi với các nhà khoa học,
cán bộ thực tiễn công tác trong thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng
mặt bằng thu hồi đất.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Làm phong phú lý luận về thực hiện pháp luật về bồi thường giải
phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất.
- Đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện pháp luật về bồi thường giải
phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Đống Đa, thành
phố Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cấu trúc làm 3 chương
- Chương 1. Lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất
- Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng
mặt bằng thu hồi đất trên địa bàn quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
- Chương 3. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường giải
phóng mặt bằng thu hồi đất trên địa bàn quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.

10



Chương 1
LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về bồi thường thu hồi đất
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: "Bồi thường: đền bù những tổn
hại đã gây ra". [12, tr. 30]
Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một
chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trách nhiệm
này được nhiều ngành luật đề cập như trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong lĩnh vực pháp luật dân sự; trách nhiệm bồi thường oan, sai do
hành vi của các cơ quan tố tụng gây ra trong lĩnh vực pháp luật hình sự; trách
nhiệm vật chất do hành vi của người lao động gây ra trong lĩnh vực pháp luật
lao động...
Trong lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ bồi thường (hay đền bù)
thiệt hại để thực hiện GPMB ở Việt Nam được đặt ra từ rất sớm. Nghị định
số 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ)
"Quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất", tại Chương II đề cập đến
việc "Bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng"; Thông tư số
1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng Chính phủ về "Quy định một số
điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lưu niên, các hoa mầu
cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng thành phố" cũng đề
cập đến vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất... Tuy nhiên, Luật đất
đai năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành lại sử dụng
thuật ngữ đền bù. Chỉ đến khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất
đai năm 2001 ra đời, thuật ngữ bồi thường mới được sử dụng trở lại và tiếp

11



tục xuất hiện trong Luật đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Luật đất đai năm 2013 và các nghị định hướng dẫn thi hành ra đời kế
thừa thuật ngữ bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất... Vậy hiểu như thế
nào là bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất?. Theo quan niệm của Luật đất
đai năm 2013: "Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất" (Khoản 12
Điều 3). Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mang một số đặc trưng cơ
bản sau đây:
- Vấn đề bồi thường chỉ đặt ra khi Nhà nước thu hồi đất của người sử
dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng;
- Việc bồi thường cho người sử dụng đất không do lỗi của Nhà nước
gây ra mà xuất phát từ nhu cầu chung của xã hội, của cộng đồng;
- Việc bồi thường về đất thực hiện không căn cứ vào giá chuyển
nhượng QSDĐ thực tế trên thị trường (trao đổi ngang giá) mà dựa vào giá đất
cụ thể do Nhà nước xác định tại thời điểm thu hồi đất;
Để hiểu rõ hơn bản chất của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất,
chúng ta hãy phân biệt nó với các loại bồi thường trong một số lĩnh vực pháp
luật khác.
1.1.2. Khái nhiệm về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
Công việc bồi thường giải phóng mặt bằng thường là những việc nặng
nề nhất của các dự án đầu tư. Trong nhiều trường hợp do không chuẩn bị tốt
việc táiđịnh cư, không xác định giá cả bồi thường hợp lý, không kiên quyết
thực hiện cưỡng chế giải phóng mặt bằng đã làm nhiều công trình bị ách tắc.
Từ đó nhiều người đã ngộ nhận rằng việc bồi thường giải tỏa là trở lực của
các dự án phát triển. Quan niệm không đúng này dễ dẫn đến các giải pháp sai
lầm khi thực hiện giải phóng mặt bằng để cải tạo và phát triển đô thị.

12



Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đây cũng
là quá trình phát triển đô thị hóa và phát triển toàn diện đất nước. Toàn bộ
quá trình này có 4 tiến trình song hành:
Một là tiến trình di dân từ nông thôn về đô thị và vùng kinh tế mới.
Hiện nay mức độ đô thị hóa của nước ta mới đạt 25%. Khi việc công nghiệp
hóa thành công (vào khoảng năm 2020), mức độ đô thị hóa có thể đạt tới 40 –
45%, lúc ấy dân sống trong các đô thị sẽ tăng lên đến khoảng 40 triệu người.
Đây là quá trình tái định cư vào đô thị theo nhu cầu phát triển đất nước.
Ngoài di dân vào đô thị,việc khai hoang mở các nông trại, các lâm trường
cũng là một khâu quan trọng trong việc tái bố trí dân cư nhằm mục đích khai
thác tốt hơn tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái.
Hai là tiến trình tái bố trí mục đích sử dụng đất theo quy hoạch. Việc
quy hoạch cải tạo và phát triển các đô thị để phục vụ quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa là một công việc tất yếu.
Tiến trình này ở đô thị có 2 nội dung: cải tạo chỉnh trang đô thị cũ và
quy hoạch phát triển các khu đô thị mới. Khi thực hiện các quy hoạch này
không tránh khỏi việc di dời tái định cư.
Ba là tiến trình nâng cao năng suất lao động, đồng thời với nó là nâng
cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế vì năng suất lao động công nghiệp
cao hơn năng suất lao động nông nghiệp giản đơn. Quá trình công nghiệp hóa
đòi hỏi đào tạo và đào tạo lại lao động. Việc tái định cư phải đảm bảo việc
này để phục vụ công nghiệp hóa đất nước.
Bốn là tiến trình cải thiện đời sống nhân dân. Nâng cao mọi mặt đời
sống của nhân dân là mục tiêu cơ bản của phát triển. Phương châm chỉ đạo cơ
bản của công tác bồi thường tái định cư là đảm bảo cuộc sống của người dân
bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.
Mỗi người dân sẽ được hưởng lợi từ 2 nguồn: từ sự bồi thường táiđịnh


13


cư trực tiếp khi thực hiện dự án và từ sự phát triển chung của đô thị do dự án
mang lại. Đời sống của người dân không ngừng nâng cao là biểu hiện của
phát triển.
Dựa trên những khái niệm đã nêu và những phân tích ở trên chúng ta có
thể thấy: Bồi thường giải phóng mặt bằng là quá trình các cơ quan nhà nước
tiến hành quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao
quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật
về đất đai và Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
thu hồi cho người sử dụng đất nhằm tạo lập quỹ đất "sạch" để sử dụng vào
mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng.
1.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật về bồi thường thu hồi đất
Trong bồi thường giải phóng mặt bằng và thu hồi đất thì việc thực hiện
đúng các quy định của pháp luật và một đòi hỏi hết sức quan trọng và nó xuất
phát từ một số lý do sau:
Thứ nhất, xét về bản chất, pháp luật mang giá trị công bằng. Điều này
thể hiện, trước pháp luật không có bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào có được
ưu đãi, đặc quyền hơn so với các chủ thể khác trong xã hội. Mọi tổ chức, cá
nhân đều được hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ pháp lý khi tham gia quan
hệ pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể quan hệ pháp luật được ghi nhận
bởi các quy định của pháp luật và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được phát hiện
kịp thời và xử lý nghiêm minh nhằm bảo đảm sự thượng tôn của pháp luật.
Trên cơ sở đó, trật tự xã hội được duy trì và bảo đảm. Chính vì vậy, mọi
người trong xã hội đều lấy pháp luật làm tấm gương để soi chiếu, so sánh và
tự điều chỉnh hành vi xử sự của mình. Hơn nữa, pháp luật còn là sự phản ánh
ý nguyện, tâm tư, nguyện vọng của các thành viên trong xã hội. Cho dù pháp


14


luật là sản phẩm do con người làm ra nên khó tránh khỏi sự ảnh hưởng của ý
chí chủ quan của nhà làm luật hoặc phản ánh ý chí của giai cấp cầm quyền
song pháp luật phải phản ánh được những yêu cầu khách quan của xã hội. Có
nghĩa là pháp luật muốn đi vào cuộc sống và muốn được người dân tự giác
tuân thủ chấp hành thì nó phải phản ánh ý nguyện của đại đa số quần chúng
nhân dân trong xã hội. Mặt khác, giá trị xã hội của pháp luật còn thể hiện ở
chỗ pháp luật không chỉ là công cụ quản lý xã hội của Nhà nước mà nó còn
có vai trò kiến tạo, điều tiết các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ đất đai
nói riêng. Thông qua pháp luật, các chủ thể tham gia quan hệ đất đai dung
hòa, "thỏa hiệp" các mâu thuẫn về lợi ích nhằm bảo đảm việc sử dụng đất của
mình không làm phương hại, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của
người sử dụng đất có liên quan.
Thứ hai, thông qua cơ chế điều chỉnh của pháp luật giúp Nhà nước giải
quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa các bên liên quan: Lợi ích của Nhà
nước, của cộng đồng; lợi ích của người bị thu hồi đất; lợi ích của doanh nghiệp,
chủ đầu tư. Bởi lẽ, pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể tham
gia quan hệ đất đai. Điều này có nghĩa là không có bất kỳ chủ thể nào chỉ có
quyền mà không phải thực hiện nghĩa vụ và ngược lại khi tham gia quan hệ đất
đai. Trong trường hợp một chủ thể khi sử dụng đất thực hiện các quyền do pháp
luật quy định mà gây phương hại đến lợi ích chính đáng của chủ thể sử dụng đất
khác thì họ phải có nghĩa vụ khắc phục hoặc bồi thường do hành vi của mình
gây ra. Thông qua đó, các lợi ích khác nhau, thậm chí đối lập nhau của các chủ
thể được dung hòa trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
Thứ ba, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là lĩnh vực khó khăn,
phức tạp và nhạy cảm; bởi nó trực tiếp động chạm đến lợi ích thiết thực của
các bên liên quan mà trước hết là người sử dụng đất. Đối với một nước nông

nghiệp có khoảng 70% dân số là nông dân như nước ta thì mỗi một sự động

15


chạm đến lợi ích của người nông dân sẽ gây ra những hậu quả khôn lường.
Đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng có một vai trò hết sức quan
trọng; nó không chỉ là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất
nông nghiệp mà còn là điều kiện vật chất tạo việc làm, đem lại thu nhập đảm
bảo cuộc sống cho khoảng 56 triệu người sống ở khu vực nông thôn. Hơn
nữa, việc có đất hay mất đất nông nghiệp của người nông dân còn tiềm ẩn
nguy cơ đối với sự ổn định chính trị, trật tự xã hội. Vì vậy, trong thu hồi đất
nông nghiệp, điều trước tiên mà Nhà nước phải giải quyết đó là bảo đảm
quyền lợi hợp pháp cho người nông dân thông qua bồi thường. Tuy nhiên,
bồi thường như thế nào, bồi thường ra sao để không gây ra những xung đột
xã hội, được tạo ra bởi sự mâu thuẫn về lợi ích giữa Nhà nước với người bị
thu hồi đất nông nghiệp hoặc không gây ra những áp lực vượt quá khả năng tài
chính của Nhà nước, của xã hội... Lời giải cho những câu hỏi này nằm ở nội
dung các quy định của pháp luật; bởi lẽ, pháp luật suy cho cùng là một khế
ước thể hiện sự thỏa hiệp về quyền lợi giữa các giai tầng trong xã hội. Pháp
luật quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội. Khi tham gia các
quan hệ xã hội, con người phải tuân thủ quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy
định nhằm đảm bảo hài hòa các lợi ích khác nhau trong xã hội. Thông qua việc
tuân thủ các quy định của pháp luật, người bị thu hồi đất tự điều chỉnh hành vi
ứng xử của mình, nhằm nhận được sự bảo hộ đối với lợi ích hợp pháp của mình,
không gây phương hại cho Nhà nước, cho xã hội. Ngược lại, thông qua việc
tuân thủ pháp luật trong việc bồi thường cho người bị thu hồi đất, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mình để
không làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Có
như vậy mới không tạo ra những xung đột, mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên

trong bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhằm đáp ứng yêu cầu tiếp cận
vấn đề đất đai trong quá trình phát triển đất nước.

16


Thứ tư, pháp luật quy định cụ thể các trường hợp thu hồi đất, mục
đích thu hồi đất, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thu hồi và phương thức giải
quyết hậu quả do việc thu hồi đất gây ra. Thông qua việc tuân thủ các quy
định này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, cân nhắc đưa ra
hành vi ứng xử của mình cho phù hợp, nhằm bảo đảm hạn chế đến mức thấp
nhất việc thu hồi đất, cũng như việc thu hồi đất sử dụng vào các mục đích
chung phải đem lại hiệu quả cho toàn xã hội (trong đó có người bị thu hồi
đất), chống lại việc thu hồi đất vì lợi ích nhóm hoặc không đem lại lợi ích
chung cho xã hội. Có như vậy mới tạo được sự đồng thuận của người dân
đối với quyết định thu hồi đất. Ở một khía cạnh khác, thông qua các quy
định cụ thể và tường minh của pháp luật, người dân và dư luận xã hội theo
dõi, giám sát các hành vi ứng xử của công chức nhà nước, của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong việc thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất để lên án, đấu tranh với các hiện tượng nhũng nhiễu, tham
nhũng, tiêu cực hoặc các hành vi vi phạm pháp luật… nhằm đảm bảo duy trì
kỷ cương, kỷ luật nhà nước và tăng cường pháp chế.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể thấy: Thực hiện pháp luật về
bồi thường khi nhà nước thu hồi đất là quá trình các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền căn cứ chủ trương, chính sách và căn cứ vào các quy định của
pháp luật hiện hành tiến hành thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà
nước giao quyền sử dụng đất và Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất
đối với diện tích thu hồi nhằm phục vụ phát triển xã hội và đáp ứng lợi ích
của nhân dân.
1.1.4. Phân biệt giữa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với bồi

thường trong một số lĩnh vực pháp luật khác
- Phân biệt giữa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự.

17


Nghiên cứu về bản chất của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự có thể thấy giữa
hai loại trách nhiệm bồi thường này có sự khác nhau ở một số khía cạnh cơ
bản sau đây:
Một là, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là trách nhiệm của Nhà
nước. Ở đây Nhà nước vừa là một tổ chức chính trị, quyền lực vừa là người
đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai thực hiện chức năng quản lý nhà nước
đối với đất đai. Trong khi đó, chủ thể của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
có phạm vi rộng hơn, bao gồm bất cứ tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nào có
hành vi gây thiệt hại cho người khác.
Hai là, chủ thể được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là người sử
dụng đất hợp pháp bị thu hồi đất. Tức là người sử dụng đất được Nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) hay GCNQSDĐ,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (gọi chung là
GCNQSDĐ) hoặc có một trong các loại giấy tờ về QSDĐ theo quy định tại
Điều 100 của Luật đất đai năm 2013 mà có đất đang sử dụng bị Nhà nước
thu hồi. Trong khi đó, chủ thể được bồi thường trong chế định bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng là bất cứ tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nào có thiệt
hại do hành vi vi phạm ngoài hợp đồng của chủ thể bồi thường gây ra.
Ba là, nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng áp dụng trong
pháp luật dân sự là nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận giữa người có trách
nhiệm bồi thường và người được bồi thường. Chỉ khi nào các bên không tự
thỏa thuận được với nhau thì mới yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền can thiệp giải quyết. Trong khi đó, nguyên tắc bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất lại có nét khác biệt. Việc bồi thường được thực hiện khi
người bị thu hồi đất thỏa mãn đầy đủ các điều kiện về bồi thường do pháp
luật quy định.

18


Bốn là, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chỉ đặt ra khi Nhà
nước ban hành một quyết định hành chính về thu hồi đất làm chấm dứt
QSDĐ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đối với một diện tích đất xác định.
Hậu quả thiệt hại do việc thu hồi đất của Nhà nước gây ra chỉ có ý nghĩa
trong việc xác định mức độ bồi thường. Hơn nữa, việc Nhà nước thu hồi đất
xuất phát từ nhu cầu khách quan của xã hội. Vì vậy, trong nhiều trường hợp
việc Nhà nước bồi thường cho người bị thu hồi đất chưa hẳn là do lỗi của
mình gây ra mà ở đây Nhà nước thực hiện nghĩa vụ bồi thường của xã hội đối
với người sử dụng đất. Để thực hiện trách nhiệm xã hội, Nhà nước không chỉ
bồi thường về đất, thiệt hại về tài sản trên đất mà còn thực hiện việc hỗ trợ ổn
định đời sống, hỗ trợ di chuyển chỗ ở; giải quyết vấn đề tái định cư; đào tạo
chuyển đổi nghề, bố trí việc làm mới cho người bị thu hồi đất.
Trong khi đó, việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được đặt ra khi
người có trách nhiệm bồi thường có hành vi gây thiệt hại cho người khác.
Việc bồi thường trong trường hợp này được thực hiện dựa trên yếu tố lỗi và
thiệt hại thực tế xảy ra. Hơn nữa, người có trách nhiệm bồi thường chỉ chịu
trách nhiệm cá nhân đối với người bị thiệt hại. Điều này có nghĩa là họ chỉ có
trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi của mình gây ra mà thôi.
Năm là, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ thuần túy mang tính
chất dân sự giữa cá nhân hoặc tổ chức với nhau. Trong khi đó, bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất lại hàm chứa cả tính chất hành chính và tính chất dân sự:
Tính chất hành chính của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thể hiện ở việc

cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra một quyết định hành chính làm chấm dứt
QSDĐ của người sử dụng đối với một diện tích đất nhất định. Tính chất dân sự
của loại bồi thường này thể hiện các thiệt hại thực tế của người sử dụng đất về
tài sản gắn liền với đất bị thu hồi được Nhà nước bồi thường toàn bộ.
- Phân biệt giữa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với bồi thường

19


oan sai trong pháp luật hình sự.
Nghiên cứu, tìm hiểu về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với bồi
thường oan sai trong pháp luật hình sự cho thấy giữa chúng cũng có những sự
khác nhau cơ bản như sau:
Một là, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phát sinh do một hành vi
hành chính là quyết định thu hồi đất của cơ quan hành chính gây ra. Trong
khi đó, bồi thường oan sai trong pháp luật hình sự lại phát sinh từ một hành
vi của cơ quan, tố tụng như hành vi truy tố, xét xử... oan sai gây ra.
Hai là, trong nhiều trường hợp, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
chưa chắc đã phải do lỗi của Nhà nước gây ra mà xuất phát từ nhu cầu khách
quan của xã hội. Trong khi đó, bồi thường oan sai trong pháp luật hình sự lại
do lỗi hoặc hành vi vi phạm (hành vi vi phạm có thể xuất phát từ năng lực,
trình độ yếu kém; do thái độ chủ quan, cẩu thả...) của cơ quan tố tụng gây nên.
Ba là, bồi thường oan sai trong pháp luật hình sự được thực hiện dựa trên
nguyên tắc:
Thiệt hại được bồi thường bao gồm thiệt hại về tinh thần và thiệt hại về
vật chất (Khoản 3, Điều 3, Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày
17/03/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội).
Việc bồi thường thiệt hại được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa
đại diện cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại với người bị oan, sai;
thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của họ.

Trong khi đó, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được thực hiện dựa
trên nguyên tắc người bị thu hồi đất phải thỏa mãn các điều kiện về bồi
thường do pháp luật quy định. Hơn nữa, phạm vi của trách nhiệm bồi thường
này không xem xét đến yếu tố thiệt hại về tinh thần của người sử dụng đất.
Bốn là, chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất không chỉ xem
xét trách nhiệm của Nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại do hành vi thu

20


hồi đất của mình gây ra mà còn giải quyết các vấn đề mang tính xã hội như
vấn đề hỗ trợ đời sống gặp khó khăn, đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp và bố
trí tái định cư cho người bị thu hồi đất... Trong khi đó, bồi thường oan sai
trong pháp luật hình sự chỉ xem xét bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh
thần do hành vi của chủ thể có trách nhiệm bồi thường gây ra cho người bị
oan sai.
- Phân biệt giữa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với trách nhiệm
vật chất trong pháp luật lao động.
Nghiên cứu về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với trách nhiệm
vật chất trong pháp luật lao động cho thấy giữa hai loại trách nhiệm này có
những điểm khác nhau chủ yếu sau đây:
Một là, trách nhiệm vật chất được đặt ra khi người lao động có hành vi
vi phạm nội quy, kỷ luật lao động gây ra trong thời gian làm việc. Trong khi
đó vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra khi Nhà nước có
hành vi thu hồi đất của người sử dụng đất; đồng thời Nhà nước là chủ thể có
trách nhiệm bồi thường cho người sử dụng đất.
Hai là, chế định trách nhiệm vật chất trong pháp luật lao động quy
định người lao động có hành vi vi phạm nội quy, kỷ luật lao động mà gây
thiệt hại cho đơn vị sử dụng lao động thì chỉ phải bồi thường thiệt hại với
mức tối đa không quá 3 tháng lương (trường hợp gia đình họ gặp hoàn cảnh

khó khăn còn được xem xét miễn, giảm mức bồi thường). Trong khi đó, bồi
thường do Nhà nước thu hồi đất thực hiện phải bồi thường toàn bộ thiệt hại
thực tế về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi và bồi thường về đất cho người bị
thu hồi đất.
Ba là, chế định bồi thường về trách nhiệm vật chất trong pháp luật lao
động không đặt ra trách nhiệm cho người gây ra thiệt hại phải giải quyết các
vấn đề mang tính xã hội do lỗi vi phạm của mình gây ra cho người bị thiệt

21


hại. Trong khi đó, trách nhiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất lại đặt ra
trách nhiệm cho Nhà nước không chỉ bồi thường mà còn giải quyết những
vấn đề mang tính xã hội phát sinh từ việc thu hồi đất cho người bị thu hồi đất.
1.2. Ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
- Bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất nhằm bảo đảm lợi ích
quốc gia, công cộng.
Thu hồi đất là biện pháp của Nhà nước nhằm chấm dứt quan hệ pháp
luật về sử dụng đất giữa một bên là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao
đất, cho thuê đất và một bên là Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu về
đất đai. Thông qua việc thu hồi đất, Nhà nước có được một quỹ đất cần thiết
đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ; phát triển
các cơ sở kinh tế, công nghiệp, các cơ sở sản xuất - kinh doanh, khu đô thị...
Qua đó, làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư; kêu gọi sự đầu tư của
các nhà đầu tư trong và ngoài nước phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Đồng thời, ở một mức độ nhất định, việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất cũng góp phần gián tiếp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ trọng sản xuất công
nghiệp, dịch vụ. Khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, Nhà

nước thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho người nông dân bị mất đất sản xuất
trong việc đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm mới. Qua đó,
góp phần rút bớt một lực lượng lao động ở nông thôn chuyển sang làm việc
trong khu vực sản xuất phi nông nghiệp và dịch vụ.
- Bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đấy bảo đảm giải quyết hài
hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người bị thu hồi đất và lợi ích của nhà
đầu tư.
Vì lợi ích chung, lợi ích của cả cộng đồng, Nhà nước thực hiện thu hồi

22


đất của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Điều này sẽ gây ra thiệt hại
và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của những người bị thu hồi đất. Nếu
không thực hiện tốt việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi
đất sẽ dẫn đến tình trạng là trong khi các công trình phúc lợi công cộng được
xây dựng trên những diện tích đất bị thu hồi mang lại lợi ích cho số đông dân
chúng trong xã hội thì ở thái cực ngược lại người bị thu hồi đất lại rơi vào tình
trạng khó khăn về sản xuất và đời sống do bị mất đất sản xuất hoặc bị mất nhà
ở. Do đó, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải giải quyết hài hòa
các mối quan hệ về lợi ích của người bị thu hồi đất với lợi ích của Nhà nước,
của xã hội để vừa bảo đảm nhu cầu sử dụng đất phục vụ cho nhu cầu quốc
phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; vừa bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, bồi hoàn cho họ những thành quả lao
động, kết quả đầu tư bị thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra.
Ở một khía cạnh khác, nếu việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
thực hiện không có hiệu quả hoặc không công khai, minh bạch, dân chủ và
đúng pháp luật khiến người bị thu hồi đất không đồng thuận dẫn đến việc
chậm bàn giao đất để thực hiện dự án; phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo

dài v.v... Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà đầu tư do chậm
tiến độ triển khai dự án và làm lỡ cơ hội kinh doanh gây trở ngại đến tốc độ
và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta cũng không
thể coi trọng phát triển kinh tế, dành nhiều ưu đãi, thuận lợi cho doanh
nghiệp, các nhà đầu tư mà coi nhẹ, không quan tâm đúng mức đến vấn đề bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất mà phải giải quyết hài
hòa giữa lợi ích của doanh nghiệp, chủ đầu tư với lợi ích của người bị thu hồi
đất. Có như vậy thì việc phát triển mới mang tính bền vững vừa đảm bảo phát
triển kinh tế vừa chú trọng giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.

23


×