Tải bản đầy đủ (.doc) (145 trang)

LUAN VAN GIÁO dục kỹ NĂNG SỐNG CHO THANH THIẾU NIÊN trên kênh VTV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 145 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với những tiến bộ của xã hội, giới trẻ ngày nay được sống và phát
triển trong những điều kiện ngày một tốt hơn về chính trị, kinh tế, giáo dục, văn
hóa xã hội… Bên cạnh đó, trường học cũng đã cung cấp một lượng kiến thức
lớn và chuyên sâu để làm nền tảng tri thức phục vụ cho quá trình phấn đấu
vươn lên của mỗi cá nhân trong học tập và lao động. Điều đó cũng đóng một
phần quan trọng trong việc giúp thanh thiếu niên có thể dễ dàng tiếp cận được
với những cơ hội để phát triển cho bản thân. Tuy nhiên, đó chỉ là điều kiện cần
chứ chưa thực sự đầy đủ để một cá nhân có thể vững vàng bước vào đời.
Lứa tuổi thanh thiếu niên có những sự thay đổi về mặt tâm sinh lý, sự
thay đổi này kéo theo những suy nghĩ và hành động khác với những giai đoạn
phát triển trước đó. Bên cạnh đó, môi trường tiếp xúc mở rộng sẽ mang lại
nhiều mối quan hệ mới như quan hệ đồng nghiệp trong công việc, quan hệ
thầy trò bạn bè trong trường học, quan hệ xã hội... Do đó, đòi hỏi giới trẻ phải
có những phương thức tiếp cận phù hợp và thích ứng với các vấn đề xã hội
mới nảy sinh đó.
Trước những phát triển nhanh chóng của xã hội, đời sống vật chất được
cải thiện đáng kể, sự du nhập của văn hóa ngoại lai đang kéo theo không ít hệ
lụy, mà giới trẻ là đối tượng bị tác động trực tiếp của những thay đổi ấy. Hiện
nay, một bộ phận thanh thiếu niên hiện nay đang rơi vào lối sống thiếu bản
lĩnh và thiếu hiểu biết. Họ dễ bị tác động và trượt dài khi gặp thất bại hay các
cú sốc tâm lý trong cuộc sống. Vì vậy, trong bối cảnh xã hội phức tạp, cơ hội
nhiều nhưng thử thách, cám giỗ cũng không ít, làm thế nào để giới trẻ có thể
tạo dựng được bản lĩnh sống vững vàng, trang bị cho mình những kỹ năng cần
thiết để vượt qua thất bại, làm thế nào để thành công, có kiến thức, có bản lĩnh
và hướng đi đúng đắn cho riêng mình? Tìm câu trả lời cho những câu hỏi ấy
không hề dễ dàng.



2

Khi đó, kỹ năng sống chính là một trong những chìa khoá để giải đáp
những vấn đề trên. Kỹ năng sống là khả năng thích nghi và hành vi tích cực
cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của
cuộc sống hàng ngày. Hiện nay tại các nước phương Tây, việc đưa giáo dục
kỹ năng sống vào trường học và được truyền thông từ rất sớm đã giúp cho
giới trẻ tự tin trong cuộc sống. Còn tại Việt Nam hiện nay, việc trang bị kỹ
năng sống cho giới trẻ tuy có được quan tâm nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở
việc lồng ghép vào một số môn học như đạo đức hay giáo dục công dân ở
trường học. Trong khi thực tế cuộc sống phức tạp, đang đặt ra những đòi hỏi
và thách thức mới trong việc giáo dục và cung cấp kỹ năng sống cho thanh
thiếu niên.
Hiện nay, có khá nhiều đề tài nghiên cứu về nội dung kỹ năng sống,
nhưng chủ yếu mới nằm trong phạm vi nghiên cứu, ứng dụng cho việc giáo
dục kỹ năng sống trong nhà trường. Trong khi có nhiều phương tiện, cách
thức truyền tải thông điệp về kỹ năng sống rất sinh động, phong phú về nội
dung, đa dạng về hình thức thể hiện, trong đó có báo chí.
Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công
nghệ, các phương tiện truyền thông đại chúng cũng đã có những bước phát
triển mạnh mẽ. Trong đó, truyền hình là một phương tiện truyền thông rất
quan trọng, được đông đảo các tầng lớp trong xã hội quan tâm, đón nhận. Với
sức lan tỏa nhanh, cùng thời gian ngắn, dựa trên ưu thế về hình ảnh, âm thanh,
truyền hình đang là một trong những lựa chọn thông tin hàng đầu cho thanh
thiếu niên.
Ở nước ta hiện nay. số lượng kênh truyền hình được phát sóng có tới
gần 200 kênh, VTV6 - kênh truyền hình đầu tiên dành riêng cho giới trẻ của
Đài THVN đang là một điểm hẹn của đông đảo người trẻ trên cả nước. Cùng
với VTV6, một số kênh truyền hình chuyên biệt dành cho người trẻ cũng xuất



3

hiện như: như Yan TV (thành lập 16/6/2009); Yaeh1 TV (thành lập tháng
8/2008)… Tuy nhiên những kênh này thiên về văn hóa, giải trí, gần như
không có các thông tin chính trị, kinh tế, các vấn đề nóng của đất nước, nhất
là các chương trình mang tính giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên.
Bên cạnh đó, việc giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên mới chỉ được là
lồng ghép ở một số chương trình trên các kênh phát sóng của VTV, VTC,
ANTV, chưa có tính tập trung, chuyên biệt hướng tới khán giả trẻ. Vì vậy,
VTV6 thể hiện rõ tính chuyên biệt, đóng vai trò quan trong trong việc tuyên
truyền, định hướng, giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên, thông qua hệ
thống các chương trình phát sóng của mình.
Hiện nay, việc tuyên truyền, giáo dục kỹ năng sống thanh thiếu niên
vẫn còn khô cứng, đôi lúc chưa thực sự phù hợp với đối tượng khán giả. Để
tận dụng thế mạnh của truyền hình so với các loại hình báo chí khác trong
việc giáo dục giới trẻ, VTV6 cần thiết phải đổi mới, nâng cao chất lượng các
chương trình, làm mới nội dung, hình thức thể hiện phong phú, trẻ trung để
phù hợp với đối tượng khán giả, nhằm đạt tới mục tiêu giáo dục cao nhất.
Trong những năm qua, thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về
giáo dục toàn diện cho thanh thiếu niên, Đài THVN nói chung và Ban Thanh
thiếu niên - VTV6 nói riêng đã và đang sản xuất hàng loạt chương trình có
mục đích giáo dục, cung cấp kiến thức, kỹ năng sống cho thanh thiếu niên về
mọi mặt như: “Thư viện cuộc sống”, “Đối thoại trẻ”, “Điểm nóng”, “Ngược
chiều’’, “Sinh ra từ làng”, “Sống khác”… Tuy nhiên trên thực tế, lượng khán
giả xem VTV6 chưa nhiều, chưa đồng đều ở các vùng miền, có thời điểm tỷ
lệ người xem dưới 1%. Trong khi, một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên
đang có lối sống buông thả, suy nghĩ lệch lạc, vô cảm, tình trạng trẻ hóa tội
phạm ngày càng gia tăng…cần thiết phải có sự định hướng, giáo dục kỹ năng

sống kịp thời cho giới trẻ. Vấn đề này cũng đặt ra đòi hỏi nâng cao chất lượng
các chương trình truyền hình cả về nội dung và hình thức để hấp dẫn khán giả


4

và đạt được hiệu quả giáo dục nói chung giáo dục kỹ năng sống nói riêng. Đây
cũng chính là lí do tác giả lựa chọn đề tài “Giáo dục kỹ năng sống cho thanh
thiếu niên trên kênh VTV6 - Đài truyền hình Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Cho đến nay, còn ít đề tài nghiên cứu đề cập đến vấn đề giáo dục kỹ năng
sống cho thanh thiếu niên. Hiện mới chỉ có một số ít tài liệu liên quan như:
- “Khả năng tác động của các phương tiện thông tin đại chúng đối với
việc hình thành lối sống của thanh niên hiện nay” - Tác giả Hoàng Thị Xuân
Quý, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 1999.
Luận văn tập trung làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các phương tiện
thông tin đại chúng và việc hình thành lối sống thanh niên, sinh viên, cũng
như tác động của các phương tiện thông tin đại chúng tới nhận thức và hành
vi của nhóm đối tượng này. Qua đó, hình thành các giải pháp nhằm nâng cao
khả năng tác động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc giáo
dục, hình thành lối sống tích cực của thanh niên, sinh viên.
- “Tạp chí thanh niên với việc giáo dục thế hệ trẻ nước ta hiện nay” Khóa luận tốt nghiệp của học viên Trần Hương Giang, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, 2004.
Luận văn đề cập tới 3 vấn đề chính của thanh niên là: đạo đức - lối
sống; tình bạn - tình yêu - hôn nhân gia đình; vấn đề giải trí vui chơi lành
mạnh của thanh niên.
- “Văn hóa nghe nhìn của giới trẻ” là công trình nghiên cứu của TS.Đỗ
Nam Liên về phương thức tiếp cận thông tin qua truyền hình và băng đĩa của
khán giả trẻ TP.HCM, được xuất bản năm 2005. Trong đó, tác giả đề cập đến
thói quen tiếp nhận thông tin của thanh thiếu niên thành phố.

- “Giáo dục Thanh thiếu niên, nhi đồng trên sóng Đài truyền hình Việt
Nam” - Luận văn Thạc sỹ Báo chí học, tác giả Trần Thị Thi Hương, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, 2005.


5

Luận văn đã đề cập tới vấn đề giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Cụ thể là
các vấn đề: Giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục kiến thức, giáo dục sức
khỏe, giáo dục thẩm mỹ. Do luận văn đề cập tới nhiều mảng nội dung của
giáo dục nên phần phân tích từng nội dung phản ánh còn chưa sâu. Đối tượng,
phạm vi đề tài còn khá rộng, chưa khu biệt vào một nội dung cụ thể. Riêng
nội dung giáo dục kỹ năng sống chưa làm rõ, mặc dù tác giả có lồng ghép vào
4 nội dung giáo dục kể trên.
- “Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC với đời sống của giới trẻ” - Luận
văn Thạc sỹ Báo chí học của tác giả Đào Thị Phương Trà, Trường ĐH Quốc
Gia Hà Nội, 2010.
Luận văn này khái quát một cách cơ bản về đời sống tinh thần của
thanh niên Việt Nam được phản ánh và ghi nhận trong các chương trình
truyền hình dành cho giới trẻ được phát sóng trên một số kênh của Đài truyền
hình kỹ thuật số VTC. Luận văn đề cập khá kỹ tới vai trò của truyền hình đối
với đời sống tinh thần của giới trẻ, những xu hướng, trào lưu, thú chơi mới…
của người trẻ được đề cập tới trong các chương trình và xem đây là tiêu chí
đánh giá vai trò của 1 đài truyền hình với đời sống tinh thần của giới trẻ.
- “Tổ chức phối hợp của huyện đoàn với nhà trường trung học phổ thông
thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở huyện Gia Lâm hiện nay” - Luận
văn Thạc sỹ Giáo dục học, tác giả Phùng Thị Hoài Thương, 2009.
Luận văn đề cập tới vai trò của tổ chức Đoàn thanh niên cấp huyện và
nhà trường cấp THCS trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở huyện
Gia Lâm hiện nay. Đồng thời chỉ ra mối quan hệ, cách thức phối hợp giữa 2 tổ

chức sao cho hiệu quả.
- “Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh tiểu học” - Tác
giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Bùi Thị Thúy Hằng, NXB Đại
học Quốc gia, 2010.


6

Cuốn sách đưa ra hệ thống khái niệm kỹ năng, kỹ năng sống, giá trị sống
cũng như tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống và giá trị sống cho học
sinh cấp tiểu học. Đồng thời đề ra một số giải pháp nâng hiệu quả hoạt động giáo
dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh ở cấp tiểu học.
- “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống
cho học sinh ở trường Trung học phổ thông Nam Phù Nừ, tỉnh Hưng Yên”Luận văn Thạc sỹ Quản lý giáo dục, tác giả Lương Thị Hằng, trường Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2012.
Luận văn đã đưa ra hệ thống các khái niệm như: kỹ năng sống, giá trị
sống, mối quan hệ giữa kỹ năng sống và giá trị sống. Tuy nhiên, luận văn chỉ
dừng lại ở phạm vi nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động giáo dục giá trị
sống, kỹ năng sống cho học sinh ở trường Trung học phổ thông Nam Phù Nừ,
tỉnh Hưng Yên. Đồng thời đề ra một số giải pháp nâng cao tính quản lý hoạt
động giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh ở cấp THCS.
- “Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà
trường trung học phổ thông huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên” - Luận văn
Thạc sỹ Giáo dục học, tác giả Hoàng Nghĩa Kiên, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2013.
Luận văn đã đưa ra hệ thống khái niệm quản lý, quản lý giáo dục, kỹ
năng, kỹ năng sống. Luận văn tập trung phân tích sâu về những tác động của
công tác quản lý đối với hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường.
Đề ra những giải pháp nâng cao tính quản lý hoạt động giáo dục giá trị sống,
kỹ năng sống cho học sinh ở cấp THPT.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên mới bước đầu đề cập
đến một số khía cạnh của vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu như:
khái niệm, công tác quản lý, chỉ đạo hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong
nhà trường... Tuy nhiên, về mặt học thuật, gần như chưa có một đề tài nào
nghiên cứu cụ thể, cơ bản nội dung giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu
niên trên báo chí nói chung trên loại hình truyền hình nói riêng và cụ thể hơn


7

nữa là ở kênh VTV6 - kênh truyền hình chuyên biệt dành cho đối tượng thanh
thiếu niên. Trong khi truyền hình với rất nhiều những thế mạnh sẵn có là một
phương tiện truyền tải hữu hiệu và không thể thiếu các kiến thức về kỹ năng
sống cho thanh thiếu niên.
Đó chính là khoảng trống về cả mặt lý luận và thực tiễn cần tiếp tục
được nghiên cứu sâu. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Giáo dục kỹ năng sống cho
thanh thiếu niên trên kênh VTV6 - Đài truyền hình Việt Nam” để nghiên cứu,
với mong muốn có một sự đóng góp phù hợp trong quá trình tìm hướng phát
triển cho vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trên truyền hình.
Trong luận văn, tôi sẽ kế thừa những ý tưởng khai phá của những nhà nghiên
cứu đi trước và coi đó là tiền đề lý luận và thực tiễn để triển khai đề tài nghiên
cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu và khảo sát về nội dung, hình thức, phương thức
sản xuất các chương trình truyền hình của kênh VTV6 về vấn đề giáo dục kỹ
năng sống cho thanh thiếu niên, luận văn sẽ chỉ rõ những ưu điểm, cũng như
những hạn của các chương trình; từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp
nhằm nâng cao chất lượng các chương trình giáo dục kỹ năng sống cho thanh
thiếu niên trên sóng truyền hình, đáp ứng nhiệm vụ tuyên truyền mà Đảng và

Nhà nước giao phó, đồng thời đáp ứng nhu cầu thưởng thức thông tin của
đông đảo khán giả trẻ yêu thích kênh VTV6.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau:
Một là: Làm rõ những vấn đề lý luận về giáo dục kỹ năng sống như:
khái niệm, vai trò, thế mạnh và hạn chế của truyền hình trong công tác giáo
dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên.


8

Hai là: Tiến hành khảo sát, thống kê, phân tích làm rõ thực trạng, thành
công, hạn chế và hiệu quả của kênh VTV6 trong việc thực hiện vai trò giáo
dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trong thời gian qua
Ba là: Đề xuất hệ thống những giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả và phát huy vai trò giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu
niên của kênh VTV6.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động giáo dục kỹ năng sống
cho thanh thiếu niên trong các chương trình trên kênh VTV6.
4.2. Đối tượng khảo sát
- Các chương trình tuyên truyền nội dung nhằm giáo dục kỹ năng sống
cho thanh thiếu niên phát trên kênh VTV6.
Chúng tôi chọn 5 chương trình dại diện cho 3 nhóm chương trình trên
kênh VTV6 gồm: “Thư viện cuộc sống”; “Sinh ra từ làng” - 2 chương trình
này đại diện cho nhóm chính luận (Từ 1/6/2014 Thư viện cuộc sống được đổi
tên thành “Lăng kính V6”); “Sống khác”; “Ngược chiều” - đại diện cho
nhóm các chương trình truyền hình thực tế; “Xưởng thời trang” - đại diện
cho nhóm chương trình giải trí.

Đây là 5 chương trình thể hiện rõ nét nhất vai trò của VTV6 trong việc
giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên. Đồng thời là 5 chương trình nằm
trong top có raiting và sự quan tâm cao của khán giả đối với các chương trình
của VTV6.
- Các nhà báo, các nhà lãnh đạo, quản lý, các phóng viên của Đài
THVN nói chung và ở kênh VTV6 nói riêng.
- Khán giả truyền hình, đặc biệt là thanh thiếu niên - đây là những
người đón nhận và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các chương trình được sản
xuất bởi kênh VTV6.


9

4.3. Phạm vi khảo sát
Luận văn tập trung vào khảo sát các chương trình: “Thư viện cuộc sống”,
“Sống khác”, “Ngược chiều”, “Sinh ra từ làng”, “Xưởng thời trang”, phát sóng
trên kênh VTV6 từ tháng 9/2013 - 3/2014.
Do điều kiện và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu ở bốn trường với các cấp bậc và hệ học vấn khác nhau trên địa
bàn Hà Nội gồm: Trường THPT Đinh Tiên Hoàng (Quận Ba Đình); THPT
Nguyễn Tất Thành (Quận Cầu Giấy); Trường Đại học Ngoại Thương (Quận
Ba Đình); Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Quận Thanh Xuân). Đây là
những trường mà có đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài đó là nhóm
thanh thiếu niên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận là các quan
điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng,
Nhà nước và các chủ trương, định hướng của ngành giáo dục về công tác báo
chí; một số lý thuyết về báo chí nói chung và báo chí truyền hình nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương
pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Phương pháp này được sử dụng nhằm khái quát, hệ thống hóa, bổ sung
mặt lý thuyết về truyền hình nói chung, giáo dục kỹ năng sống trên truyền hình
đặc biệt là giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trên truyền hình nói riêng.
Đây chính là những lý thuyết cơ sở đánh giá các kết quả khảo sát thực tế và đưa
ra những giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.


10

- Phương pháp thống kê:

Phương pháp này được sử dụng nhằm xác định tần số xuất hiện, mức
độ phát triển, chất lượng, hiệu quả những chương trình có nội dung giáo dục
kỹ năng sống trên kênh VTV6. Phương pháp này được dựa chủ yếu vào việc
tác giả phải lưu giữ, xem lại các chương trình liên quan đến vấn đề khảo sát từ
tháng 9/2013 đến tháng 3/2014 trên VTV6.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích, khảo sát việc đáp ứng
nhu cầu thông tin giáo dục kỹ năng sống của kênh VTV6 như thế nào với
khán giả.
- Phương pháp điều tra xã hội học:
Phương pháp này nhằm khảo sát thực trạng tiếp nhận thông tin giáo dục
kỹ năng sống của thanh thiếu niên đối với kênh VTV6.
+ Tác giả phát phiếu trưng cầu ý kiến ngẫu nhiên cho 500 người tại Hà
Nội. Cụ thể: Trường THPT Đinh Tiên Hoàng (Quận Ba Đình); THPT Nguyễn
Tất Thành (Quận Cầu Giấy); Trường Đại học Ngoại Thương (Quận Ba Đình);

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Quận Thanh Xuân), Công ty cổ phần
dịch vụ báo chí truyền hình Việt Nam. Tuy nhiên qua khảo sát, tác giả chỉ sử
dụng trên 405 phiếu thu về để phân tích các nội dung nghiên cứu của đề tài
bởi 405 phiếu này là những cá nhân có xem các chương trình trên kênh VTV6
và như vậy sẽ có những đánh giá chính xác về các chương trình trên VTV6.
Do đó dung lượng mẫu sử dụng để nghiên cứu trong đề tài này là: 405 phiếu.
+ Mẫu theo giới tính: nam (198 phiếu); nữ (207 phiếu)
+ Mẫu theo độ tuổi: Từ 15 - 18 tuổi: 200 phiếu (nhóm thày thuộc
trường PTTH Đinh Tiên Hoàng, PTTH Nguyễn Tất Thành) ; từ 19 - 25 tuổi:
205 phiếu (nhóm này thuộc trường Đại học Ngoại thương, trường Đại học
Khoa học Tự nhiên).


11

- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phương pháp này được thực hiện với 01 Lãnh đạo kênh, 01 lãnh đạo
phòng, 05 phóng viên, 03 chuyên gia, khách mời của kênh VTV6 nhằm thu thập
ý kiến đánh giá của cá nhân xung quanh vấn đề nghiên cứu.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi đặt ra một số giả thuyết sau:
- Giả thuyết thứ nhất: Giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên mặc
dù đã được quan tâm tuy nhiên phần lớn được đề cập tới ở trong các trường
học. Việc giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên sẽ khó khai thác được
hiệu quả rộng lớn nếu không khai thác thêm các cách thức khác trong đó có
các phương tiện truyền thông, đặc biệt là truyền hình. Vì vậy, sẽ không thấy
hết được vai trò của hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên
cũng như trách nhiệm, thế mạnh, hạn chế của truyền hình trong vấn đề này
nếu không nghiên cứu một cách khách quan và cụ thể những vấn đề liên quan.
Cụ thể từ khái niệm, nội dung, vai trò của hoạt động giáo dục kỹ năng sống

cho thanh thiếu niên đến vai trò, thế mạnh, hạn chế của loại hình truyền hình
trong hoạt động này cùng với đó là chỉ ra những tiêu chí để đánh giá chất
lượng hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trên truyền hình.
- Giả thuyết thứ hai: Hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu
niên trên Đài truyền hình Việt Nam đã bước đầu được quan tâm, đặc biệt là
trên kênh VTV6. Hoạt động này đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, tuy
nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều những hạn chế, hiệu quả chưa cao. Nếu
không có những khảo sát, phân tích một cách khách quan, khoa học thực
trạng đang diễn ra từ đó chỉ ra những thành công, hạn chế, những giải pháp
hợp lý thì hoạt dodongj giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trên kênh
VTV6 sẽ khó phát huy hết hiệu quả.


12

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận - nhận thức: Luận văn hệ thống hoá và phân tích cụ
thể về vai trò của việc giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trong
các chương trình truyền hình hiện nay. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo
cho hoạt động nghiên cứu và cơ sở đào tạo về báo chí, thông qua việc đưa
ra những phân tích cụ thể về thực trạng và giải pháp nâng cao việc giáo dục
kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trên báo chí nói chung và ở truyền hình,
nói riêng.
- Về mặt thực tiễn: Việc nghiên cứu đề tài này sẽ cho thấy một cách
nhìn cụ thể, bản chất hơn, chỉ ra sự cần thiết của các chương trình mang tính
giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên, một vấn đề đang rất cấp thiết,
nóng hổi và cũng là yêu cầu thiết thân của công chúng trẻ trong thời điểm
hiện nay. Từ đó gợi ý giúp các nhà quản lý đưa ra được những tiêu chí để có
thể sản xuất được những chương trình truyền hình có nội dung hấp dẫn hơn,
phù hợp hơn với khán giả mục tiêu là thanh thiếu niên, từ đó đạt tới mục tiêu

giáo dục hiệu quả hơn. Đồng thời, đặt ra những yêu cầu với các nhà báo rèn
luyện kỹ năng và kiến thức nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống
cho thanh thiếu niên trong tác phẩm của mình, tạo phong cách cá nhân và uy
tín của cơ quan báo chí, cụ thể ở đây là Ban Thanh thiếu niên VTV6, Đài
Truyền hình Việt Nam.
Bên cạnh đó, tác giả hi vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích
cho những người quan tâm.
8. Kết cấu luận văn
- Luận văn được chia thành 3 phần chính: Phần mở đầu; Phần nội dung
và Phần kết luận. Cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho
thanh thiếu niên trên truyền hình.


13

Chương 2: Thực trạng hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho thanh
thiếu niên trên kênh VTV6 hiện nay.
Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao chất lượng và
hiệu quả việc giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trên VTV6.
- Ngoài ra, luận văn còn có phần tài liệu tham khảo và phụ lục gồm một
số biên bản phỏng vấn sâu lãnh đạo Đài THVN, lãnh đạo kênh VTV6, mẫu
phiếu thăm dò ý kiến khán giả và tổng hợp kết quả khảo sát.


14

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
KỸ NĂNG SỐNG CHO THANH THIẾU NIÊN TRÊN TRUYỀN HÌNH


1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên
1.1.1.1. Kỹ năng sống
Tại Mỹ, từ những năm 1916, người Mỹ đã nhận ra rằng tri thức nhân
loại là rất lớn nhưng để thực hành thành thạo và áp dụng, ứng dụng vào cuộc
sống thì thường không như mong muốn. Cho nên mỗi người dân lao động tại
Mỹ phải đảm bảo thực hành và phải được các tổ chức công nhận là đã trải qua
việc học tập 13 kỹ năng bắt buộc.

13 kỹ năng bắt buộc đó là: Học cách học - Phương pháp học; Lắng
nghe và Thấu hiểu; Thuyết trình và Thuyết phục; Giải quyết vấn đề; Tư duy
sáng tạo và hiệu quả; Tinh thần tự tôn; Đặt mục tiêu và tạo động lực; Phát
triển cá nhân và sự nghiệp; Giao tiếp thành công; Tinh thần đồng đội TEAM; Đàm phán và Thương lượng thành công; Đảm bảo hiệu quả tổ chức;
Lãnh đạo bản thân và tổ chức.


15

Tại Hàn Quốc, học sinh tiểu học được học cách đối phó thích ứng với
các tai nạn như cháy, động đất, thiên tai... tại Trung tâm điều hành tình trạng
khẩn cấp Seoul. Còn ở Ấn Độ: giáo dục kỹ năng sống cho con người được
xem xét dưới góc độ giúp cho con người sống một cách lành mạnh về thể chất
lẫn tinh thần, nhằm phát triển năng lực con người.
Vào đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước, các tổ chức Liên hợp quốc như Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ cứu trợ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Tổ chức
Giáo dục, khoa học và văn hóa LHQ (UNESCO) đã chung sức xây dựng
chương trình giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên, bởi, theo UNICEF,
những thử thách mà trẻ em và thanh niên phải đối mặt là rất nhiều, nên cần
phải trang bị những kỹ năng để giúp con người có thể tồn tại một cách chất

lượng, hiệu quả. Vậy kỹ năng sống là gì mà mọi người, mọi quốc gia đã rất
quan tâm đến vấn đề này?
Thuật ngữ “Kỹ năng sống” có nhiều định nghĩa, được sử dụng rộng rãi
nhằm vào mọi lứa tuổi trong mọi lĩnh vực hoạt động. Có một số khái niệm
tiêu biểu như sau:
Tổ chức Y tế Thế giới WHO (1993) định nghĩa: “kỹ năng sống là khả
năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó
hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày" [23]. Trong
giáo dục tiểu học và giáo dục trung học, kỹ năng sống có thể hiểu là một tập
hợp những khả năng được rèn luyện và đáp ứng các nhu cầu cụ thể của cuộc
sống hiện đại; ví dụ như quản lý tài chính (cá nhân), chuẩn bị thức ăn, cách
diễn đạt, và kỹ năng tổ chức... Đôi khi kỹ năng sống, nhưng không phải luôn
luôn, khác biệt với các kỹ năng nghiệp vụ (trong nghề nghiệp).
Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kỹ năng sống cơ bản là “sự thay đổi
trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến
thức, thái độ và hành vi”[25]. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến


16

thức (phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin
tưởng vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm như thế nào).
Theo tổ chức Giáo dục và Khoa học văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO)
kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột giáo dục là:
- Học để biết (gồm các kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy
sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả... )
- Học để tồn tại (gồm các kỹ năng cá nhân như: ứng phó với căng
thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin... )
- Học để sống cùng nhau (gồm các kỹ năng xã hội như: giao tiếp, thương
lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông)

- Học để làm (gồm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như: kỹ
năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm... )
Phân tích các quan niệm trên cho thấy: Quan niệm của WHO nhấn
mạnh đến khả năng của cá nhân có thể duy trì trạng thái tinh thần và biết thích
nghi tích cực khi tương tác với người khác và với môi trường xung quanh.
Quan niệm này mang tính khái quát nhưng chưa thể hiện rõ các kỹ năng cụ
thể, mặc dù đã có những nét tương đồng với quan điểm của UNESCO về kỹ
năng sống.
Quan niệm của UNESCO là quan niệm tương đối chi tiết, đã nhấn
mạnh thêm kỹ năng thực hiện công việc và đảm nhận nhiệm vụ. Còn quan
niệm của UNICEF nhấn mạnh kỹ năng không hình thành, tồn tại một cách
độc lập, tồn tại trong mối tương tác mật thiết, có sự cân bằng giữa tri thức và
thái độ.
Như vậy, qua phân tích những quan niệm của các tổ chức trên thế giới
và quan niệm của một số nước phát triển, mặc dù cách định nghĩa có những
khác nhau nhưng nhìn chung tiệm cận ở một điểm, đều cho rằng: kỹ năng
sống chính là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá
nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả.


17

Trên cơ sở những phân tích đó, chúng tôi xin được đưa ra một quan
niệm riêng về kỹ năng sống để tiện cho quá trình nghiên cứu như sau: “Kỹ
năng sống là khả năng làm chủ bản thân và ứng xử linh hoạt, hiệu quả với
các quan hệ cũng như các tình huống trong cuộc sống”.
Kỹ năng sống tạo điều kiện cho con người hành động không chỉ trong
điều kiện quen thuộc mà cả những điều kiện đã được thay đổi. Tuy nhiên, để
có khả năng hành động, ứng phó một cách hiệu quả trong mọi môi trường,
điều kiện phải có tri thức. Trong cuốn sách “Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý

học sư phạm”, A.V. Pêtôvxki và V.A. Cruchextki cho rằng: Cơ sở hình thành
kỹ năng là tri thức. Tri thức chính là nền tảng góp phần hình thành nên kỹ
năng. Tuy nhiên để tri thức đó trở thành nhuần nhuyễn, thành kỹ năng thì cần
nhiều yếu tố khác nữa cấu thành. Người có kỹ năng về một hành động nào đó
nói riêng hay kỹ năng sống nói chung phải đạt được những yêu cầu:
- Có tri thức về phương thức thực hiện hành động đó, tức là nắm được các
thao tác, cách thức hành động, các điều kiện và hướng đến mục đích hành động.
- Vận dụng các tri thức một cách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh.
- Đạt được kết quả trong những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau.
Như vậy, để có được kỹ năng sống đòi hỏi con người phải có tri thức,
kinh nghiệm cần thiết về hoạt động. Tri thức và kinh nghiệm chưa phải là kỹ
năng, kỹ năng là những tri thức, kinh nghiệm đã được vận dụng vào thực tiễn
một cách có hiệu quả. Kỹ năng khác với thói quen. Hầu hết các thói quen hình
thành một cách vô thức và khó kiểm soát. Trong khi đó kỹ năng được hình
thành một cách có ý thức do quá trình luyện tập, nhắc đi nhắc lại sao cho
thuần thục. Kỹ năng không phải là bẩm sinh mà là sản phẩm của hoạt động
thực tiễn, đó là kết quả vận dụng những tri thức và kinh nghiệm vào hoạt
động thực tiễn để đạt được mục đích đề ra.
Kỹ năng sống và kỹ năng mềm không phải là 2 khái niệm không đồng
nhất. Bởi kỹ năng mềm là một thuật ngữ xã hội học chỉ những kỹ năng có liên


18

quan đến việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng hòa nhập xã hội, thái độ và hành vi
ứng xử áp dụng vào việc giao tiếp giữa người với người. Kỹ năng sống và kỹ
năng mềm không phải là hai thứ khác nhau, và càng không phải là hai thứ
giống nhau, mà kỹ năng mềm chính là một phần của kỹ năng sống, hay kỹ
năng sống bao gồm kỹ năng mềm và một số kỹ năng khác.
1.1.1.2. Giáo dục kỹ năng sống

Giáo dục là khái niệm quan trọng và cơ bản nhất của giáo dục học.
Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều quan niệm:
“Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và
lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người…” [40, tr.9].
Quan niệm trên nhấn mạnh đến sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế
hệ, nhấn mạnh đến yếu tố dạy học, nhưng không thấy nói đến mục đích sâu xa
hơn, mục đích cuối cùng của việc đó là gì.
Ông John Dewey (1859 - 1952), nhà triết học, nhà tâm lí học và nhà cải
cách giáo dục người Mỹ, cho rằng: “Cá nhân con người không bao giờ vượt
qua được quy luật của sự chết và cùng với sự chết thì những kiến thức, kinh
nghiệm mà cá nhân mang theo cũng sẽ biến mất. Tuy nhiên, tồn tại xã hội lại
đòi hỏi phải những kiến thức, kinh nghiệm của con người phải vượt qua được
sự khống chế của sự chết để duy trì tính liên tục của sự sống xã hội. Giáo dục
là “khả năng” của loài người để đảm bảo tồn tại xã hội”. [17, tr.17 - 26].
Ngoài ra, ông John Dewey cũng cho rằng, xã hội không chỉ tồn tại nhờ truyền
dạy, nhưng còn tồn tại chính trong quá trình truyền dạy ấy. Như vậy, theo
quan điểm của ông John Dewey, ông cũng đề cập đến việc truyền đạt, nhưng
ông nói rõ hơn về mục tiêu cuối cùng của việc giáo dục, là dạy dỗ.
Từ “giáo dục” trong tiếng Anh là "education". Đây là một từ gốc Latin
ghép bởi hai từ: "Ex" và "Ducere" - "Ex-Ducere". Có nghĩa là dẫn ("Ducere")
con người vượt ra khỏi ("Ex") hiện tại của họ mà vươn tới những gì thiện hảo,


19

tốt lành hơn, hạnh phúc hơn. Trong định nghĩa này, sự hoàn thiện của mỗi cá
nhân mới là mục tiêu sâu xa của giáo dục, người giáo dục (thế hệ trước) có
nghĩa vụ phải dẫn hướng, phải chuyển lại cho thế hệ sau tất cả những gì có thể
để làm cho thế hệ sau triển nảy nở hơn, hạnh phúc hơn.
Trong tiếng Việt, từ ngữ “Giáo dục” có nghĩa: giáo là chỉ bảo, uốn nắn,

biến đổi và làm cho hoàn hảo. Dục là bản chất hoặc tính khí con người cần
được uốn nắn chỉ bảo. Vậy giáo dục là tiến trình uốn nắn, hướng dẫn con
người nhằm ngày càng trở nên toàn diện [27]. Muốn thực hiện tiến trình đó,
giáo dục cần sự hiện diện đồng hành của nhà giáo dục và người được giáo
dục, nó vừa mang tính trao ban, vừa rèn cặp và tư vấn, nhằm chuẩn bị những
kiến thức và kỹ năng cần thiết, hoặc làm thay đổi hành vi có hại bằng hành vi
có lợi. Giáo dục cũng là quá trình giao tiếp hai chiều qua đó người dạy và
người học cùng chia sẻ hiểu biết, kinh nghiệm và cùng học tập lẫn nhau.
Như vậy, qua những quan niệm ở trên có thể thấy về bản chất, giáo dục
là quá trình truyền đạt và tiếp thu những kinh nghiệm lịch sử xã hội giữa các
thế hệ loài người; đó là quá trình tác động đến các đối tượng giáo dục để hình
thành cho họ những phẩm chất nhân cách.
Từ những quan niệm và phân tích ở trên có thể hiểu: “Giáo dục là sự
hướng dẫn, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm của các thế hệ trước cho thế hệ
sau để làm cho thế hệ sau trở nên phát triển hoàn thiện hơn ”.
Trên cơ sở khái niệm “kỹ năng sống” và khái niệm “giáo dục” được
phân tích và đưa ra ở các phần trên, theo chúng tôi: “Giáo dục kỹ năng sống
là giáo dục cách sống chủ động, linh hoạt và khả năng ứng phó một cách
hiệu quả với những tình huống trong cuộc sống, thông qua việc trang bị các
tri thức, kinh nghiệm của các thế hệ”.
Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cả kỹ năng cá nhân lẫn kỹ năng xã
hội cho con người, để mỗi người có thể sống tự tin, hiệu quả trong cuộc sống.


20

Có rất nhiều kỹ năng sống mà con người cần trau dồi trong suốt cuộc đời như:
kỹ năng tự nhận thức; kỹ năng đồng cảm, chia sẻ; kỹ năng tư duy tích cực; kỹ
năng kiểm soát tức giận; kỹ năng kiên định; kỹ năng giải quyết xung đột; kỹ
năng hợp tác; kỹ năng tìm kiếm sự giúp đỡ; kỹ năng thuyết trình; kỹ năng

giao tiếp ứng xử; kỹ năng lập kế hoach; kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng
làm việc nhóm; kỹ năng cạnh tranh lành mạnh; kỹ năng bảo vệ bản thân và
cộng đồng…
Để đạt được hiệu quả, giáo dục kỹ năng sống cần một quá trình tác
động lâu dài. Các kỹ năng cần được truyền tải lặp đi lặp lại, để tạo thành thói
quen. Cách thức truyền tải cũng rất quan trọng, làm sao đảm bảo các kỹ năng
được đối tượng tiếp nhận học hỏi, vận dụng vào cuộc sống, từ thay đổi nhận
thức đến điều chỉnh hành vi theo hướng tích cực, như vậy mục đích giáo dục
kỹ năng sống mới đạt được.
1.1.1.3. Giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên
- Thuật ngữ “Adolescen” được đưa ra vào năm 1904 theo đề xuất của
nhà tâm lý học G.Stanley, nhằm để chỉ một thời kỳ quá độ từ trẻ con chuyển
sang người lớn. Nó cũng được quan niệm đồng nghĩa với tuổi đang lớn hay
trưởng thành.
Bộ luật lao động Việt Nam qui định “người lao động vị thành niên là
người lao động chưa đến 18 tuổi (điều 119, khoản 1)
Năm 1998 trong một tuyên bố chung giữa tổ chức WHO, UNICEF,
UNFPA đã thống nhất phân loại nam nữ trẻ tuổi thành ba loại như sau: vị
thành niên (adolescen) từ 10 - 19 tuổi; thanh niên (youth) từ 15 - 24 tuổi,
người trẻ (young pepole) từ 10 - 24 tuổi.


21

Một số tài liệu khác lại phân định tuổi vị thành niên theo các nhóm sau:
nhóm vị thành niên sớm (10 - 14 tuổi); nhóm vị thành niên trung bình (15 - 17
tuổi), vị thành niên muộn (18 - 19 tuổi).
Năm 1996, Vụ Bảo vệ bà mẹ, trẻ em và Kế hoạch hoá gia đình thuộc
Bộ Y tế Việt Nam đã đưa ra đề nghị xếp tuổi vị thành niên thành hai nhóm
tuổi: nhóm 1 từ 10 - 14 tuổi, nhóm 2 từ 15 - 19 tuổi.

- "Thanh niên" là một phạm trù lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em sang
người lớn. Đó là lứa tuổi nở rộ về thể chất và tinh thần, trí tuệ, lứa tuổi hình
thành nhân cách và những phẩm chất của người công dân. Theo Từ điển
Tiếng Việt: “Ở Việt Nam và phần lớn các nước khác đều xác định độ tuổi
thanh niên là từ 15 đến 30 tuổi ” [27]. Ở độ tuổi có nhiều biến động trong tâm
sinh lý và chịu nhiều tác động của môi trường bên ngoài. Ngoài tiêu chí độ
tuổi, “Thanh niên” còn có thể được chia thành các tiểu nhóm khác nhau, như
thanh niên thành thị, thanh niên nông thôn (nếu lấy địa bàn cư trú làm tiêu chí
phân biệt), hay thanh niên công nhân, thanh niên nông dân hoặc thanh niên trí
thức (nếu lấy nghề nghiệp làm tiêu chí phân biệt).
Như vậy, với thuật ngữ “Thanh, thiếu niên” qua phân tích, tổng hợp
ở trên thấy rằng trường của độ tuổi này rất dài, trải qua nhiều mốc quan
trọng khác nhau. Để việc nghiên cứu mang tính tập trung, trong phạm vi
của đề tài này, chúng tôi sử dụng cụm từ "thanh, thiếu niên" hay còn gọi là
giới trẻ nhằm hướng tới những người trong độ tuổi từ 15 đến 25 tuổi, đây là
nhóm đối tượng hạt nhân mà kênh truyền hình VTV6 (kênh mà luận văn
khảo sát) đang hướng tới để thực hiện nhiệm giáo dục nói chung, giáo dục
kỹ năng sống nói riêng. Mặt khác, đây là nhóm tuổi đang ở ngưỡng cửa
trưởng thành, đang phải đối diện với những suy nghĩ, mâu thuẫn khi bắt
đầu bước chân ra thế giới bên ngoài gia đình. Chính vì vậy, nhóm tuổi này


22

cũng là những bạn trẻ đang cần trang bị rất nhiều kỹ năng để chuẩn bị hành
trang vào đời, lập thân, lập nghiệp.
Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục những kỹ năng mang tính cá nhân
và xã hội, là quá trình truyền đạt, trang bị tri thức, kinh nghiệm nhằm giúp
thanh thiếu niên có thể truyền tải những gì mình biết (nhận thức), những gì
mình cảm nhận (thái độ) và những gì mình quan tâm (giá trị) thành những khả

năng thực thụ giúp thanh thiếu niên biết phải làm gì và làm như thế nào (hành
vi) để đạt hiệu quả tốt nhất trong những tình huống khác nhau của cuộc sống.
Thông qua hoạt động giáo dục kỹ năng sống, thanh thiếu niên được cập
nhật thêm các tri thức, kỹ năng, trang bị cho mình những kiến thức cần thiết
để điều chỉnh hành vi, thái độ phù hợp với môi trường sống.
Như vậy, giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên là giáo dục cho
thanh thiếu niên cách sống chủ động, tích cực, khả năng ứng phó linh hoạt,
hiệu quả với các tình huống trong xã hội, thông qua việc trang bị tri thức,
kinh nghiệm từ các thế hệ.
Hiệu quả tác động của giáo dục kỹ năng sống chính là việc thanh thiếu
niên có tiếp nhận kỹ năng, thay đổi nhận thức và biến đổi hành vi theo hướng
tích cực hay không. Sự biến đổi về nhận thức và hành vi của đối tượng tiếp
nhận chính là thước đo hữu hiệu nhất đối với hoạt động giáo dục kỹ năng sống.
1.2. Những nội dung cơ bản về giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên
Bản chất của giáo dục kỹ năng sống là giáo dục, cung cấp, trang bị
những kiến thức, kỹ năng cần thiết để giúp thanh thiếu niên có thể sống một
cách chủ động, tích cực, ứng phó với mọi tình huống trong xã hội hiện đại.
Vậy để thanh thiếu niên có kỹ năng tự quản lý bản thân, hòa nhập, ứng
xử phù hợp mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống cần phải được giáo dục,
truyền đạt, trang bị những kiến thức, nội dung nào?


23

Theo WHO, giáo dục kỹ năng sống được chia thành 2 loại là giáo dục
kỹ năng tâm lý xã hội và giáo dục kỹ năng cá nhân, lĩnh hội và tư duy, với 10
yếu tố như: tự nhận thức; tư duy sáng tạo; giải quyết vấn đề; kỹ năng giao tiếp
ứng xử với người khác; ứng phó với các tình huống căng thẳng và kiềm chế
cảm xúc; biết cảm thông; tư duy bình luận và phê phán; cách ra quyết định;
giao tiếp hiệu quả và cách thương thuyết.

Còn dựa vào mục đích học tập, theo UNESCO, giáo dục kỹ năng sống
gắn với 4 trụ cột giáo dục, bao hàm những kỹ năng sống cơ bản, cần thiết đối
với thanh thiếu niên, gồm: Học để biết (Learning to know), Học để làm
(Learning to do), Học để tự khẳng định (Learning to be) và Học để cùng
chung sống (Learning to live together).
Những nội dung về giáo dục kỹ năng sống kể trên của các tổ chức và
quốc gia tiến bộ trên thế giới, mặc dù có cách diễn đạt khác nhau tuy nhiên có
nhiều điểm tương đồng, đó là đều tập trung vào trang bị, hình thành những kỹ
năng sống cần thiết cho lứa tuổi thanh thiếu niên bao gồm cả kỹ năng tập trung
vào cá nhân và kỹ năng với xã hội. Tuy nhiên, những nội dung đó vẫn có nhiều
điểm còn trùng lặp, vì vậy một mặt dựa trên những ưu điểm của những nội dung
trên, kết hợp với thực tiễn nghiên cứu, chúng tôi tổng hợp và chia nội dung của
hoạt động giáo dục kỹ năng sống thành 2 nhóm nội dung công việc tập trung vào
việc trang bị những kiến thức để con người phát triển toàn diện về nhận thức và
hành động để mỗi người có thể sống chủ động, có hành động phù hợp, tích cực,
hiệu quả trong các mối quan hệ đa chiều trong xã hội. Cụ thể hai nhóm nội dung
cần trong giáo dục kỹ năng sống đó là: giáo dục kỹ năng tư duy và giáo dục kỹ
năng ứng xử.
1.2.1. Giáo dục, trang bị kỹ năng tư duy
Tư duy là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh
thần, đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới thông qua


24

hoạt động vật chất, làm cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật và ứng
xử tích cực với nó.
Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và
phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như biểu tượng,
khái niệm, phán đoán và suy lí. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam định

nghĩa: “Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc
biệt - Bộ não người. Tư duy phản ánh tích cực hiện thực khách quan dưới
dạng các khái niệm, sự phán đoán, lý luận... ” [37]
Con người cần phải tư duy để nhận biết sự tồn tại của bản thân. Tư duy
là tồn tại. Tư duy tạo nên sự khác biệt giữa một thực thể sống có ý thức với
một thực thể sống thực vật, vô thức. Có tư duy, con người sẽ có cách ứng xử,
hành xử với bản thân, với xã hội phù hợp.
Có 2 loại kỹ năng tư duy con người cần được trang bị:
Thứ nhất, kỹ năng tư duy sáng tạo.
Tư duy sáng tạo là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo cách
mới, với một ý tưởng mới, theo một phương thức mới, cách sắp xếp và tổ
chức mới; là khả năng khám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý
tưởng, quan điểm, sự việc, độc lập trong suy nghĩ.
Kỹ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng động với nhiều
sáng kiến và óc tưởng tượng; biết cách phán đoán và thích nghi, có tầm nhìn
và khả năng suy nghĩ rộng hơn những người khác, không bó hẹp vào những
kinh nghiệm trực tiếp đang trải qua, tư duy minh mẫn và khác biệt.
Thứ hai, kỹ năng tư duy phê phán (phản biện)
Tư duy có phê phán là một kỹ năng mà trong đó cá nhân chủ động xem
xét lại vấn đề mà người khác hay nhiều người đã chấp nhận. Tư duy phê phán
được xây dựng trên những suy nghĩ, quan điểm và niềm tin của riêng cá nhân
cộng với những bằng chứng xác đáng mà cá nhân đó thu được, cuối cùng đưa


25

ra kết luận mới: chấp nhận hay phản bác lại những gì người khác đã làm cho
là “hiển nhiên”.
Kỹ năng tư duy phê phán kết hợp với tư duy sáng tạo giúp mỗi cá nhân
tìm thấy những giá trị riêng có cho bản thân. Không bị trùng lặp, hay sao chép

từ cá nhân khác. Đây là 2 kỹ năng rất quan trọng, thúc đẩy sự sáng tạo, tìm tòi
ra cái mới và cũng chính là động lực tạo ra sự phát triển cho mỗi cá nhân.
1.2.2. Giáo dục, trang bị kỹ năng ứng xử
Ứng xử là từ ghép của 2 từ “ứng” và “xử”. “Ứng” là ứng đối, ứng phó.
“Xử” là xử thế, xử lý, xử sự... Ứng xử có thể hiểu là phản ứng của con người
trước tác động của người khác tới mình, trong một tình huống cụ thể. Ứng xử
là cách phản ứng có tính toán, là cách nói năng, cách hành động tùy thuộc vào
tri thức, kinh nghiệm và nhân cách của mỗi người nhằm đạt được hiệu quả
giao tiếp cao nhất.
Ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người
trước sự tác động của người khác với mình trong một tình huống nhất định
được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm
đạt kết quả tốt trong mối quan hệ giữa con người với nhau. Xét trên bình diện
nhân cách thì bản chất của ứng xử chính là những đặc điểm tính cách của cá
nhân được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân
với những người xung quanh.
Trong xã hội hiện đại, những tình huống nảy sinh trong cuộc sống luôn
đòi hỏi con người không chỉ biết ứng xử thông thường và mà phải biết ứng xử
một cách có văn hóa. Hành vi ứng xử văn hóa là những biểu hiện hoạt động
bên ngoài của con người, được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách
ứng xử của con người đối với bản thân, với những người chung quanh, trong
công việc và môi trường hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên hành vi ứng xử văn
hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó được hình thành qua quá trình học tập,


×