Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nước ở tỉnh Đăk Lăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.27 KB, 26 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THỊ XUÂN HÒA

PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ
TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC Ở TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐẮK LẮK - NĂM 2017


2 VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Công trình được hoàn thành tại: HỌC

Người hướng dẫn khoa học : TS.Trần Thị Diệu Oanh

Phản biện 1:………………………………………….............
………………………………………………….


Phản biện 2:………………………………………….............
………………………………………………….

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện
Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp …....., Nhà...... - Hội trường bảo vệ luận văn thạc
sĩ,

Học viện Hành chính Quốc gia
Số:...... - Đường………….. - Quận……… - TP…………
Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 201... ..


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là nền tảng cho sự độc lập và giàu mạnh của một
quốc gia. Công dân sống trong một nền dân chủ luôn sẵn sàng tuân
theo pháp luật của xã hội, bởi vì họ hiểu được họ đang tuân thủ các
nguyên tắc hay quy định của bản thân. Việc ban hành Quy chế dân
chủ ở cơ sở là một chủ trương hết sức đúng đắn, hợp lòng dân của
Đảng và Nhà nước ta; đáp ứng kịp thời tâm tư, nguyện vọng, những
vấn đề bức xúc của người dân, được nhân dân hưởng ứng rất nhiệt
tình và tích cực thực hiện. Vì vậy, sau nhiều năm thực hiện, Quy chế
dân chủ ở cơ sở thực sự đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực tới
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nâng cao tính chủ động, sáng tạo
của mỗi người dân, thiết thực củng cố, tăng cường hệ thống chính trị
ở cơ sở, thúc đẩy nhanh tiến trình đổi mới, phát triển đất nước.
Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở ở
nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Không ít trường hợp

việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có nơi, có lúc còn
biểu hiện lợi dụng dân chủ, khiếu kiện đông người, vượt cấp hoặc
gây mất đoàn kết nội bộ; gây rối, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã
hội. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, không thực sự tôn
trọng dân chủ còn tiếp diễn trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,
công chức. Từ cơ sở lý luận thực tiễn đó, em chọn đề tài “Pháp luật
về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nước ở tỉnh Đắk
Lắk” để làm luận văn thạc sỹ của mình; với mong muốn góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao chất lượng thực hiện pháp
luật về dân chủ cơ sở và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


4
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này
của các cá nhân, tập thể được công bố. Tuy nhiên, vẫn còn hiếm hoặc
chưa có công trình nghiên cứu nào nói đến việc hoàn thiện pháp luật,
nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ trong cơ quan hành
chính nhà nước, đặc biệt là xuất phát từ thực tiễn ở một địa bàn cụ
thể như tỉnh Đắk Lắk.
Vì vậy, với luận văn này tôi muốn góp phần nghiên cứu, bổ
sung và hoàn thiện những mặt còn hạn chế trong việc thực hiện pháp
luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nước, trên cơ sở
tiếp thu những kết quả nghiên cứu về lý luận thực hiện pháp luật nói
chung của các nhà nghiên cứu đi trước và thực tiễn thực hiện pháp
luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nước trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu

Phân tích, tổng kết một số vấn đề có tính lý luận về pháp luật
dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nước; khảo sát đánh giá
thực tiễn và đề xuất những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện và
hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong cơ quan hành chính
nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, thông qua đó góp phần tổ chức
thực hiện có hiệu quả pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên thì luận văn có
những nhiệm vụ sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận về dân chủ và pháp luật về
dân chủ trong cơ quan hành chính nhà nước.
- Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về dân chủ trong cơ
quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.


5
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật về dân chủ trong cơ quan hành chính nhà nước nói chung và trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu một số vấn đề có tính lý luận liên quan trực tiếp
tới pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong cơ quan hành chính Nhà nước;
quan điểm của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước về dân
chủ ở cơ sở trong cơ quan hành chính Nhà nước đã ban hành và tình
hình thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong cơ quan
hành chính Nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật và việc thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan

nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ
năm 2014 đến năm 2016.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận
văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về dân chủ nói chung, về xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, trong đó sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể, như: phân tích tổng hợp, thống kê và so sánh,
phương pháp lịch sử và logic…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn


6
Qua nghiên cứu, điều tra, phân tích hệ thống pháp luật về dân
chủ cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nước nói chung và trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng, luận văn khái quát một số kết quả bước
đầu, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân của nó và đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao chất lượng
thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở phù hợp với điều kiện thực tế
của tỉnh.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên,
học viên cao học của các trường Đại học trên địa bàn tỉnh nói chung
và Học viện hành chính quốc gia (Khu vực Tây Nguyên) nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về pháp luật về dân chủ ở cơ sở

trong cơ quan hành chính Nhà nước.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
trong cơ quan hành chính Nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong cơ quan hành chính nhà
nước trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT DÂN CHỦ
CƠ SỞ TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
1.1. Dân chủ ở cơ sở và pháp luật về dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Dân chủ ở cơ sở


7
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ
- Thuật ngữ “dân chủ” xuất hiện đầu tiên tại Hy Lạp với cụm
từ “quyền lực của nhân dân” được ghép từ chữ “nhân dân”
và “quyền lực” vào khoảng giữa thế kỷ thứ 5 đến thứ 4 trước Công
nguyên để chỉ hệ thống chính trị tồn tại ở một số thành bang Hy Lạp,
nổi bật nhất là Anthena sau cuộc nổi dậy của dân chúng vào năm 508
trước Công nguyên. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Dân
chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc
thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên
tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào các tổ chức
và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định” [19].
1.1.1.2. Khái niệm dân chủ cơ sở
Cơ sở là cấp thấp nhất, cấp cuối cùng nhìn theo cấp độ quản
lý từ trên xuống hoặc từ dưới lên. Là cấp thấp nhất nhưng cơ sở lại là
tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế chính trị từ cấp vĩ mô phải
tác động đến. Cơ sở là địa chỉ quan trọng nhất vì xét đến cùng là nơi

quyết định mà mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
phải tìm đến, đó là dân, lòng dân, ý dân, trí tuệ, sáng tạo của dân. Là
sự đoàn kết, thống nhất của cán bộ, đảng viên và nhân dân, giữa
người đại diện được nhân dân ủy quyền với toàn thể nhân dân. Phải
bằng mọi cách tổ chức, tuyên truyền, vận động cho nhân dân hiểu,
dân tin và dân làm có như vậy thì cơ sở xã hội của Đảng, Nhà nước
và chế độ mới thực sự bền vững. Theo GS.TSKH Đào Trí Úc: Dân
chủ ở cơ sở là một đòi hỏi tất yếu của quá trình thực hiện dân chủ ở
nước ta. Thực hiện tốt và đẩy mạnh dân chủ cơ sở không chỉ đơn
thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và Nhà nước trước tình
hình phức tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà nó thể hiện cái nhìn
hướng tới cơ sở, coi trọng cái gốc ở cơ sở nên nó mang tính chiến


8
lược, căn bản, lâu dài.
1.1.2. Khái niệm pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành
và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã
hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Pháp luật về dân chủ là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện; điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa
Nhà nước; các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, tổ chức kinh tế và
công dân nhằm đảm bảo cho công dân thực hiện quyền làm chủ
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
1.1.3. Khái niệm pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan
hành chính nhà nước
Cơ quan hành chính nhà nước là một loại cơ quan trong bộ
máy nhà nước được thành lập theo hiến pháp và pháp luật, để thực
hiện quyền lực nhà nước, có chức năng quản lý hành chính nhà nước

trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong cơ quan hành chính nhà
nước là một bộ phận của pháp luật về dân chủ, bao gồm hệ thống các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ trong nội bộ cơ
quan, đơn vị và giữa cơ quan hành chính Nhà nước với công dân, cơ
quan, tổ chức có liên quan; đảm bảo cho công dân thực hiện quyền
làm chủ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội trong
các cơ quan nhà nước.
1.1.4. Quá trình hình thành, phát triển các quy định của
pháp luật về dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam
Ngày 18/2/1998, của Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành
Chỉ thị số số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở khởi đầu cho sự hình thành và phát triển các quy định của pháp


9
luật về dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị nêu rõ “Nhà nước cần ban hành quy
chế dân chủ ở cơ sở có tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức
ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Quy chế dân chủ cần được
xây dựng cho từng loại cơ sở, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học,
viện nghiên cứu, cơ quan hành chính phù hợp với từng loại cơ sở”.
Tiếp đó, ngày 28/3/2003 Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) ban
hành chỉ thị số 10-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Kết luận số 65-KL/TW ngày
04/3/2010 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị
(khóa VIII) về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; Chỉ
thị 03 -CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 2015”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết số 25-NQ/TW về “Tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận

trong tình hình mới”; Quyết định 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 về
việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội; Chỉ thị số 05CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về việc đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
1.2. Đặc điểm, nội dung và điều kiện bảo đảm thực hiện
của pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính nhà
nƣớc
1.2.1. Đặc điểm của pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ
quan hành chính nhà nước
Thứ nhất, chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trong
cơ quan hành chính nhà nước là đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động trong các cơ quan hành chính nhà nước và đơn


10
vị sự nghiệp công lập.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở là hoạt động
diễn ra thường xuyên, liên tục, được triển khai rộng khắp, gắn liền
với mọi hoạt động trong mỗi cơ quan, đơn vị.
Thứ ba, pháp luật về dân chủ cơ sở là các quy phạm cụ thể
quy định trong các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này do Nhà nước
ban hành.
Thứ tư, hình thức pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan
hành chính nhà nước là các quy phạm pháp luật thành văn. Thực hiện
pháp luật về dân chủ cơ sở bao gồm các hình thức thực hiện pháp
luật truyền thống: tuân thủ pháp luật; chấp hành pháp luật; sử dụng
pháp luật và áp dụng pháp luật. Các hình thức thực hiện pháp luật
này có sự đan xen, bao chứa và gắn bó chặt chẽ với nhau.
1.2.2. Nội dung pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Nội dung pháp luật về dân chủ ở cơ sở là sự cụ thể hóa các

quyền, các giá trị của dân chủ đã được quy định trong Hiến pháp. Đó
là các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó có quyền
tự do bầu cử và ứng cử, quyền của nhân dân lao động được tham gia
vào quản lý Nhà nước, quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin,
quyền của nhân dân được kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy
và cán bộ công chức Nhà nước, quyền bình đẳng nam nữ…
1.2.2.1. Dân chủ trong nội bộ cơ quan, đơn vị
Dân chủ trong nội bộ cơ quan, đơn vị bao gồm: trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan, đơn vị và của cán bộ, công chức, viên
chức trong việc thực hiện dân chủ trong hoạt động nội bộ của cơ
quan, đơn vị; những việc phải công khai để cán bộ, công chức, viên
chức biết; những việc cán bộ, công chức, viên chức tham gia ý kiến,
người đứng đầu cơ quan quyết định; những việc cán bộ, công chức,


11
viên chức giám sát, kiểm tra. Nếu như pháp luật về dân chủ cơ sở ở
xã, phường, thị trấn nhằm mục đích thực hiện “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” thì pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ
quan, đơn vị cũng nhằm mục đích như vậy nhưng thay đổi đối tượng
không còn là “dân” mà là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong
cơ quan đơn vị.
1.2.2.2. Dân chủ trong quan hệ và giải quyết công việc với
công dân, cơ quan, tổ chức có liên quan
Nội dung của pháp luật về dân chủ trong quan hệ và giải
quyết công việc với công dân, cơ quan, tổ chức có liên quan chủ yếu
tập trung vào trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong
việc công khai các nội dung như: Bộ phận chịu trách nhiệm giải
quyết công việc; thủ tục hành chính; mẫu đơn từ, hồ sơ cho từng loại
công việc; phí, lệ phí và thời gian giải quyết từng loại công việc của

cơ quan đơn vị mình. Kiểm tra cán bộ, công chức, viên chức trong
việc thực thi công vụ; chỉ đạo bố trí tiếp dân và giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân… Ngoài ra, Nghị định 04/2015/NĐ-CP còn quy
định về trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức; quan hệ giữa
người đứng đầu cơ quan, đơn vị với cơ quan, đơn vị cấp trên và cơ
quan, đơn vị cấp dưới…
1.2.3. Điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ
sở trong cơ quan hành chính nhà nước
- Điều kiện bảo đảm về mặt pháp lý: là tập hợp các biện pháp
từ việc tạo ra cơ sở pháp lý cụ thể (ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật hoặc văn bản cá biệt) để thi hành pháp luật đến các biện
pháp cưỡng chế (hành chính hoặc tư pháp). Đây là điều kiện bắt buộc
để có thể thi hành bất cứ hệ thống pháp luật nào. Hành lang pháp lý
sẽ là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đưa pháp luật


12
vào cuộc sống.
- Điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội: đây là điều kiện về ổn
định và phát triển cơ sở vật chất, đời sống, điều kiện phương thức kỹ
thuật, trình độ văn hóa, phong tục tập quán của nhân dân địa
phương.... Việc bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương được thực
hiện bằng nhiều biện pháp đồng bộ của các cơ quan chính quyền địa
phương, từ việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở
địa phương đến các biện pháp tuyên truyền, giáo dục và thi hành
pháp luật cụ thể.
- Biện pháp hành chính điều hành bảo đảm để các chủ thể
quan hệ pháp luật thực hiện các hành vi hợp pháp. Để pháp luật được
đưa vào cuốc sống thì ngoài cơ sở pháp lý và các điều kiện bên ngoài
tác động thì cũng cần có các cách thức điều hành để buộc các chủ thể

pháp luật thực hiện các hành vi trong khuôn khổ pháp luật và đưa
pháp luật vào cuộc sống.
1.3. Vai trò của pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ
quan hành chính nhà nƣớc
1.3.1. Pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần phát huy dân
chủ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân” [35, Điều 2], vì vậy, việc ban hành và thực hiện pháp luật về
dân chủ là điều kiện tiên quyết để đảm bảo quyền lực thực sự của
nhân dân. Việc ban hành và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
góp phần hiện thực hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước về dân chủ vào thực tiễn đời sống
của nhân dân ở cơ sở.
1.3.2. Pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần nâng cao hiệu


13
lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước
- Pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần bảo đảm hoạt động
của các cơ quan, đơn vị thật sự dân chủ, công khai, minh bạch.
- Pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần đấu tranh
phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu
cực khác.
- Pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần đổi mới phương thức
và lề lối làm việc, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy cơ
quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu cải
cách hành chính hiện nay.
1.3.3. Pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần thúc đẩy phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội. Quy chế dân chủ, các chế định pháp luật
khác nhau về quyền công dân đảm bảo cho nhân dân được bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, các quyền về kinh tế, pháp luật
nghiêm cấm mọi hành vi gây mất dân chủ, ảnh hưởng đến quyền lợi
và lợi ích hợp pháp của công dân. Các quy định pháp luật đều có chế
tài để răn đe, phòng ngừa và trừng trị nghiêm khắc những hành vi vi
phạm quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân.
TIỂU KẾT
Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành
chính nhà nước là quá trình triển khai các hoạt động nhằm đưa
những nguyên tắc, quy định của nhà nước về thực hiện dân chủ trong
hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp
công lập đi vào thực tiễn hoạt động của cơ quan, đơn vị, trở thành
những hành vi pháp luật thực tế hợp pháp của người đứng đầu cơ


14
quan, cán bộ, công chức của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan và nhân dân địa phương nhằm phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; thu hút nhân dân tham gia quản lí nhà
nước, quản lí xã hội; kiểm tra, giám sát các hoạt động của chính
quyền cấp cơ sở; góp phần giữ gìn trật tự, kỉ cương trên địa bàn cơ
sở.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC Ở TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hƣởng đến ban

hành và thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan
hành chính nhà nƣớc ở tỉnh Đắk Lắk
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội
Đắk Lắk là một trong 5 tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên, nằm ở
trung tâm cao nguyên Nam Trung Bộ; phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai;
phía Đông Bắc giáp các tỉnh Gia Lai, Phú Yên; phía Đông giáp tỉnh
Phú Yên, Khánh Hòa; phía Nam giáp các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông;
phía Tây Nam giáp tỉnh Đắk Nông; phía Tây giáp Vương quốc
Campuchia. Đắk Lắk là tỉnh miền núi, có vị trí quan trọng về quốc
phòng - an ninh của vùng Tây Nguyên và của cả nước. Diện tích tự
nhiên 13.125,37km2, xấp xỉ 4% diện tích tự nhiên của cả nước; bao
gồm 15 đơn vị hành chính cấp huyện; trong đó có 01 thành phố
(Buôn Ma Thuột), 01 thị xã (Buôn Hồ) và 13 huyện (Buôn Đôn, Cư
Kuin, Cư M’gar, Ea H’leo, Ea Kar, Ea Súp, Krông Ana, Krông
Bông, Krông Búk, Krông Năng, Krông Pắc, Lắk, M’Đrắk); với 184
xã, phường, thị trấn (43 xã khu vực III, đặc biệt khó khăn về phát


15
triển kinh tế - xã hội); 2.471 thôn, buôn, tổ dân phố (trong đó có 608
buôn đồng bào dân tộc thiểu số).
Những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trên đà
phát triển, đạt được một số thành tựu nhất định. Tính đến năm 2015,
giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn (theo giá so sánh năm 1994) vẫn
đạt mức tăng khá, bình quân 8%/năm. Công nghiệp - xây dựng của
tỉnh tiếp tục phát triển, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước được cải
thiện. Hệ thống các đô thị, điểm dân cư nông thôn tiếp tục được quy
hoạch và phát triển. Đô thị trung tâm của tỉnh - thành phố Buôn Ma
Thuột đã được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh và đang xây
dựng, phát triển thành đô thị trung tâm vùng Tây Nguyên.

Dân số của tỉnh trên 1,8 triệu người với 47 dân tộc anh em
cùng sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 33,4%
dân số (riêng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ chiếm khoảng
20%)...
2.1.2. Đánh giá về đặc điểm tình hình của tỉnh Đắk Lắk tác
động đến pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính
nhà nước
Những điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk
như trên đã tạo ra nền tảng thuận lợi nhưng đồng thời cũng có những
thách thức nhất định trong thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở.
Với điều kiện tự nhiên đa dạng phong phú, kinh tế của tỉnh
đang có những biến động sâu sắc - điều này vừa là xuất phát điểm
thuận lợi nhưng cũng hàm chứa những khó khăn cho thực hiện dân
chủ ở cơ sở. Trong tương lai Đắk Lắk sẽ là Trung tâm của vùng Tây
Nguyên thu hút đầu tư phát triển nhanh hơn, mở ra cơ hội phát triển
mới, tạo bước đột phá về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của tỉnh cũng như của vùng Tây Nguyên theo hướng công nghiệp


16
hoá, hiện đại hoá. Để thực hiện được nhiệm vụ to lớn đó, đòi hỏi
phải xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của tỉnh Đắk Lắk nói
chung, đội ngũ cán bộ cấp xã nói riêng có đủ phẩm chất và năng lực
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, thực hiện tốt dân chủ ở cơ
sở.
2.2. Tình hình pháp luật và thi hành pháp luật về dân chủ
cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nƣớc ở tỉnh Đắk Lắk
2.2.1. Cơ sở pháp lý về thực hiện dân chủ cơ sở trong cơ
quan hành chính nhà nƣớc ở tỉnh Đắk Lắk
* Các văn bản của Trung ương:

- Chỉ thị 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị về
xây dựng và thựchiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính
phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập....
* Các văn bản của tỉnh Đắk Lắk:
- Chương trình số 30-CT/TU ngày 15/6/2010 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí
thư Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của
Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở.
- Bộ tiêu chí đánh giá, xếp loại việc thực hiện Quy chế dân
chủ trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp theo Nghị định số
71/1998/NĐ-CP, của Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở tỉnh Đắk Lắk ban hành ngày 30/12/2012.
- Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số
04/2015/NĐ-CP về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập, ngày 20/5/2016


17
Ban Chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở của tỉnh Đắk Lắk đã ban hành
bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện dân chủ trong hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập thay thế
cho bộ tiêu chí cũ ban hành ngày 30/12/2012.
2.2.2. Quá trình triển khai pháp luật về dân chủ cơ sở
trong cơ quan hành chính nhà nước ở tỉnh Đắk Lắk
Quán triệt Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII)
và các Nghị định của Chính phủ về xây dựng và thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, Tỉnh ủy, UBND và các cơ quan, đơn vị cơ sở tỉnh

Đắk Lắk đã tiến hành triển khai thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở
theo đúng lộ trình; đồng thời, xác định đây là một chủ trương lớn, có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là bước cụ thể hoá phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhằm đưa chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống thực
sự có hiệu quả, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước; phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc để đầy mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Để tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật về dân chủ ở cơ
sở trên địa bàn tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Đắk Lắk đã xác định rõ
nhiệm vụ trọng tâm cho từng giai đoạn, từng năm, trên cơ sở đó có
bước đi hợp lý để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở.
2.2.3. Tình hình thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở trong
cơ quan hành chính nhà nƣớc ở tỉnh Đắk Lắk
Quy chế dân chủ trong hoạt động cơ quan hành chính nhà
nước được tỉnh Đắk Lắk thực hiện một cách nghiêm túc. Có thể tóm
tắt những thành công chủ yếu trên hai phương diện: Thực hiện dân
chủ trong quan hệ nội bộ của cơ quan, đơn vị và dân chủ trong quan


18
hệ và giải quyết công việc với công dân cơ quan, tổ chức có liên
quan.
Thực hiện Nghị định 04/2015/NĐ-CP của Chính phủ, các cơ
quan hành chính nhà nước tại tỉnh đã có nhiều cố gắng trong việc
công khai 9 nội dung công chức được biết, 8 nội dung công chức
tham gia ý kiến, người đứng đầu cơ quan, đơn vị quyết định, 5 nội
dung cán bộ công chức giám sát, kiểm tra. Ngoài ra, các cơ quan đơn
vị đã tăng cường phổ biến các chủ trương, chính sách có liên quan

đến quyền lợi của người lao động, tăng cường kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các chế độ, chính sách, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
cho cán bộ công chức và người lao động về việc làm, tiền lương, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động.
2.3. Đánh giá chung về pháp luật và thi hành pháp luật về
dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nƣớc ở tỉnh Đắk
Lắk
2.3.1. Ưu điểm
Qua tổng kết việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nói
chung và pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính nhà
nước nói riêng cho thấy đây là chủ trương đúng đắn, được nhân dân
cả nước tiếp nhận một cách phấn khởi và tin tưởng, tạo nên chuyển
biến tích cực trong nhận thức chính trị và hành động của đông đảo
các tầng lớp nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, v.v… Nâng cao
nhận thức, trách nhiệm và năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng,
chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý
điều hành, lề lối làm việc của UBND cấp xã…tạo ra động lực thúc
đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân


19
Thứ nhất, một số cơ quan hành chính vẫn còn biểu hiện thiếu
dân chủ trong nội bộ hoặc dân chủ hình thức, nội bộ mất đoàn kết;
việc công khai tài chính trong hoạt động của cơ quan, đơn vị chưa
được chú trọng.
Thứ hai, vẫn tồn tại một số lĩnh vực nổi bật trong đó tinh
thần công khai, minh bạch chưa được làm rõ, ví dụ như trong việc
tuyển dụng nhân sự tại cơ quan hành chính, chính sách đào tạo, bồi

dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, việc khen thưởng, xử lý kỷ luật
cán bộ, công chức.
Thứ ba, trong mối quan hệ với người dân, tổ chức, một bộ
phận cán bộ, viên chức nhà nước quan liêu, vi phạm dân chủ, thiếu
trách nhiệm gây phiền hà, sách nhiễu làm nhân dân bất bình. Ở một
số đơn vị, vai trò hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân vẫn còn mờ
nhạt dẫn đến việc giám sát, kiểm tra đối với những nội dung được
nêu tại Điều 11, Mục 4, Nghị định 04 của Chính phủ vẫn còn mang
tính hình thức.
Thứ tƣ, việc xây dựng và ban hành quy chế, quy định đạt số
lượng khá nhưng chất lượng việc thực hiện quy chế, quy định chưa
cao, có nơi chưa nghiêm túc. Một số đơn vị vẫn chưa nắm chắc quy
trình tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức hàng năm nên tổ chức chưa
đúng theo quy định.
*Nguyên nhân của hạn chế trong thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nƣớc
Một là, hệ thống pháp luật liên quan đến thực hiện dân chủ
cơ sở
Hai là, các bất cập trong các văn bản pháp luật khác
Ba là, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và tình hình
dân cư


20
Bốn là, cơ chế hoạt động và phối hợp hoạt động của các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền
Năm là, nhận thức và năng lực của đội ngũ cán bộ công chức
TIỂU KẾT
Qua tổng kết việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk cho thấy đây là chủ trương đúng đắn, được nhân

dân cả nước tiếp nhận một cách phấn khởi và tin tưởng, tạo nên
chuyển biến tích cực trong nhận thức chính trị và hành động của
đông đảo các tầng lớp nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, v.v…
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực lãnh đạo của các cấp
ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội; phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, đổi mới phương thức lãnh đạo,
quản lý điều hành, lề lối làm việc của các cơ quan hành chính nhà
nước, tạo ra động lực thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn.
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC Ở TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về dân chủ cơ sở
trong cơ quan hành chính nhà nƣớc ở tỉnh Đắk Lắk
3.1.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tổng kết lý luận và
thực tiễn về thực hiện dân chủ ở cơ sở
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở là một quá trình, do
đó cần từng bước tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm để xây dựng
lộ trình tiến hành các bước tiếp theo hiệu quả hơn. Một trong những
phương hướng để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ


21
ở cơ sở nói chung và pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành
chính nhà nước nói chung là cần tập trung chỉ đạo việc rà soát, sửa
đổi, bổ sung hương ước, quy ước, quy chế làm việc cho phù hợp với
pháp lệnh và nghị định mới ban hành, chỉ đạo tốt việc tổng kết, đánh
giá tình hình, kết quả công tác xây dựng cơ sở và thực hiện quy chế
dân chủ hàng năm, xây dựng kế hoạch hoạt động năm sau, đảm bảo

sát với tình hình cụ thể của cơ quan, đơn vị, địa phương.
3.1.2. Pháp luật về dân chủ ở cơ sở cần được tiến hành
đồng bộ trong công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính
và các nhiệm vụ chính trị khác của Đảng và Nhà nước, của địa
phương
Thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên toàn
quốc cũng như tại địa bàn Đắk Lắk cho thấy: để thực hiện được dân
chủ ở cơ sở phải tiến hành lâu dài và cần có những tiền đề toàn diện
và đồng bộ. Dân chủ ở cơ sở chỉ có thể phát huy hiệu quả trên cơ sở
một môi trường dân chủ chung. Đó là môi trường pháp lý, hành
chính và thể chế thuận lợi, tạo điều kiện cho thực thi pháp luật về
dân chủ ở cơ sở. Chính vì vậy, thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ
sở muốn có hiệu quả tốt phải được tiến hành đồng bộ với các hoạt
động khác đã và đang được tập trung chỉ đạo trong các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta, như: cải cách pháp luật, cải
cách tư pháp, cải cách hành chính.v.v.
3.1.3. Nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân trong phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn, tiêu cực ở cơ
sở
Để nâng cao vai trò của người dân cơ sở trong phòng, chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn, tiêu cực ở cơ sở, cần có
cơ chế thích hợp trong việc thu thập ý kiến nhân dân, tạo điều kiện


22
cho nhân dân tham gia giám sát tại địa phương, cơ quan, doanh
nghiệp. Hoạt động của các Ban Thanh tra nhân dân cần được đầu tư
và kiện toàn theo hướng thực chất, thực quyền hơn, gắn sát với nhân
dân hơn. Cơ chế tiếp dân cần bảo đảm tính công khai, minh bạch;
tăng cường hoạt động đối thoại với dân thông qua nhiều kênh khác

nhau: từ chính quyền cho đến các đoàn thể; từ tổ chức cho đến vai
trò cá nhân các đại biểu Quốc Hội, đại biểu hội đồng nhân dân các
cấp. Các cấp, các ngành cũng cần tăng cường vai trò tích cực trong
giải quyết khiếu nại tố cáo của nhân dân, đây cũng là điều kiện để
quyền kiểm tra, giám sát của người dân đối với các hoạt động của
cán bộ, công chức và người có thẩm quyền tại cơ quan hành chính
được thực hiện hiệu quả.
3.1.4. Nâng cao nhận thức của các chủ thể thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cơ sở và tầm quan trọng của thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở
Để nâng cao nhận thức của các chủ thể pháp luật trong thực
hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở nói chung và pháp luật về dân chủ
cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nước nói riêng thì việc tuyên
truyền, phổ biến các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các văn bản của
nhà nước, của tỉnh Đắk Lắk về xây dựng, thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở đến đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động
và nhân dân các dân tộc trong tỉnh có vai trò rất quan trọng. Tổng
hợp các văn bản đó bao gồm tất cả các quy định pháp luật về thực
hiện dân chủ ở cơ sở và các văn bản khác làm nền tảng cho việc thực
hiện pháp luật đó. Cùng với việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản
pháp luật, các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của
tỉnh về dân chủ cơ sở, cần kết hợp với các hoạt động mang tính tổ
chức thực tiễn nhằm nâng cao hiểu biết cho các chủ thể về dân chủ ở


23
cơ sở và các lĩnh vực liên quan. Đó là các cuộc thi, hôi nghị phổ biến
pháp luật, phổ biến kiến thức và kinh nghiệm thực hiện dân chủ ở cơ
sở. Đồng thời với các hoạt động đó, cần kết hợp với việc thực hiện
“Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thi hành
pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nƣớc
ở tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ
sở trong cơ quan hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu thực thi
dân chủ cơ sở của cả nước nói chung và của Đắk Lắk nói riêng
- Cụ thể hóa một số quy định tại các văn bản pháp luật về
thực hiện dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nước.
- Nên quy định chế tài xử lý đối với những vi phạm trong thực
hiện pháp luật về dân chủ cơ sở.
- Hoàn thiện các quy định trong các văn bản pháp luật khác có
liên quan đến thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
3.2.2. Nâng cao năng lực của cấp ủy, chính quyền, các đoàn
thể và của Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Để nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ
sở thì bên cạnh việc nâng cao tính chủ động, tích cực của người dân
ở cơ sở, cần tăng cường vai trò của các chủ thể pháp luật khác tại địa
phương như cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể; trong đó
đặc biệt là tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Công đoàn. Các
cấp ủy, chính quyền giữ vai trò chủ thể thực hiện trong việc thực
hiện pháp luật về dân chủ cơ sở nói chung và pháp luật về dân chủ
trong cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Mỗi chủ thể của hệ
thống chính trị ở cơ sở giữ một vai trò đặc trưng riêng. Cấp ủy có vai


24
trò quan trọng trong định hướng, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện những
nội dung của pháp luật dân chủ ở cơ sở, đồng thời, cũng là đầu mối
kết hợp điều hòa hoạt động của các cơ quan chính quyền và tổ chức

đoàn thể...
3.2.3. Tăng cường đối thoại giữa người dân và các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Để thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” ngoài việc tuân thủ, quán triệt đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, muốn để cho “dân biết” thì phải
công khai, minh bạch tất cả các công việc của các tổ chức Đảng, nhà
nước, các cấp chính quyền, đoàn thể, cũng như các cơ quan, đơn vị,
giúp người dân thực hiện tốt quyền tiếp cận thông tin của mình;
muốn để cho “dân bàn” thì cơ quan, tổ chức và người đứng đầu cơ
quan, đơn vị phải thực sự gần dân, biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến
của nhân dân, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, hết lòng vì nhân
dân mà phục vụ. Từ đấy, nhân dân mới được hỏi, được nói, được bàn
bạc mọi việc cho đến thấu tình đạt lý; và cũng từ đó dân mới có điều
kiện để thực hiện phương châm “dân làm”, hăng hái tham gia các
công việc của đất nước, của địa phương.
3.2.4. Nâng cao chất lượng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Để thực hiện tốt pháp luật về dân chủ ở cơ sở nói chung và
pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính nhà nước nói
riêng, cần chuyển tải các nội dung pháp luật về thực hiện dân chủ ở
cơ sở đến người dân, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động
một cách nghiêm túc và có hiệu quả. Nội dung tuyên truyền không
nên chỉ bó hẹp trong các văn bản pháp luật về dân chủ cơ sở mà cần
phải mở rộng ra cả các văn bản pháp luật khác có liên quan. Tuyên


25
truyền không chỉ về nội dung pháp luật mà về các lợi ích, các trách
nhiệm và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan trong thực hiện dân chủ

tại cơ quan, đơn vị và chính quyền cơ sở. Hình thức tuyên truyền
phong phú, đa dạng, sinh động, hấp dẫn cũng là một trong những
điều kiện để nâng cao chất lượng của công tác tuyên truyền pháp
luật, ví dụ như: tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về dân chủ
trong cán bộ, công chức; xây dựng các tiểu phẩm về thực hiện pháp
luật về dân chủ để đến từng địa bàn cơ sở diễn cho người dân xem
hay lồng ghép các tiết học về dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân
và trách nhiệm của công dân ngay từ trong trường trung học cơ sở và
trung học phổ thông... Đặc biệt, có thể lồng ghép các nội dung của
pháp luật về dân chủ cơ sở vào các hoạt động cụ thể của cơ quan,
đơn vị.
3.2.5. Thực hiện dân chủ ở cơ sở phải đồng bộ với việc phát
triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh
Có thể nói môi trường kinh tế, xã hội là điều kiện nền tảng và
cũng là động lực cho thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Không
thể phát huy dân chủ cơ sở nếu điều kiện sống của người dân còn quá
thấp kém, môi trường xã hội còn quá nhiều bất cập. Mọi quyền dân
chủ của người dân sẽ chỉ tồn tại trên giấy nếu không gắn nó với
những tiền đề và mục tiêu kinh tế, xã hội nhất định. Không có dân
chủ trong điều kiện đói nghèo, an ninh không được đảm bảo, người
dân chỉ có thể phát huy quyền làm chủ khi nỗi lo mưu sinh không
còn là nỗi lo thường trực. Chính vì vậy, thực hiện dân chủ cơ sở gắn
với phát triển kinh tế - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội để đảm
bảo dân chủ là yêu cầu, mục tiêu hoạt động của toàn bộ hệ thống
chính trị ở nước ta nói chung cũng như trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói
riêng.


×