Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.64 KB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ LIÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

ĐẮK LẮK, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ LIÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 60 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN ĐĂNG QUẾ



ĐẮK LẮK, NĂM 2017



LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng tại thị
xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Trong Luận văn đã sử dụng thông tin từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau,
các thông tin có sẵn đã trích dẫn rõ nguồn gốc.
Tôi xin cam đoan nội dung bản luận văn là kết quả tự nghiên cứu và thực
hiện của bản thân tôi.
Ngƣời thực hiện luận văn

Lê Thị Liên

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen
thƣởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk”, ngoài sự nổ lực của bản thân,
tôi còn nhận được sự giúp đỡ của quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia
đình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn quý thầy, cô Học viện Hành chính Quốc gia,
những người đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt khóa học vừa
qua; đặc biệt là TS. Nguyễn Đăng Quế, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình làm Luận văn này.
Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã
động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

Xin trân trọng cảm ơn!
Ngƣời thực hiện luận văn

Lê Thị Liên

ii


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG ............................................................................................... 9
1.1. Khái niệm về thi đua, khen thưởng ...................................................... 9
1.2. Mục đích, yêu cầu và vai trò của thi đua, khen thưởng .................... 15
1.3. Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ....................................... 18
1.4. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng ................................................................................................................. 35
1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở một số địa
phương cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk .................................................. 37
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK ............... 42
2.1. Khái quát chung về thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk .......................... 42
2.2. Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh
Đắk Lắk giai đoạn 2009-2016 ........................................................................... 46
2.3. Đánh giá chung công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk ...................................................................... 68
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ,

TỈNH ĐẮK LẮK .............................................................................................. 77
3.1. Quan điểm, định hướng, mục tiêu quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng giai đoạn 2016-2020 .............................................................................. 77
3.2. Một số giải pháp quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã
Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới ...................................................... 79

iii


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................ 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 99
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 105

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Bảng thống kê các trường hợp được bổ nhiệm từ năm 2009
đến năm 2016 trên địa bàn thị xã Buôn Hồ ...................................................... 49
Bảng 2.2. Bảng thống kê các trường hợp được cử đi đào tạo từ năm
2009 đến năm 2016 trên địa bàn thị xã Buôn Hồ ............................................. 50
Bảng 2.3. Bảng thống kê các trường hợp được nâng bậc lương trước
thời hạn từ năm 2009 đến năm 2016 trên địa bàn thị xã Buôn Hồ ................. 51
Bảng 2.4: Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
thi đua, khen thưởng trên địa bàn thị xã Buôn Hồ ........................................... 56
Bảng 2.5: Thống kê số lượng tặng thưởng các danh hiệu thi đua từ năm
2009 đến năm 2016 tại thị xã Buôn Hồ ............................................................ 64
Bảng 2.6: Thống kê số lượng tặng thưởng các hình thức khen thưởng từ
năm 2009 đến năm 2016 tại thị xã Buôn Hồ .................................................... 65


v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì
phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất” [28,
tr.473]. Vì vậy, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương lấy thi
đua làm động lực để phát huy tinh thần yêu nước, qua phong trào thi đua để
bồi dưỡng, nâng cao lòng yêu nước, biến lòng yêu nước thành sức mạnh vật
chất và tinh thần trong lao động sản xuất, trong huấn luyện chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc; đồng thời lấy lòng yêu nước để thúc đẩy thi đua và nâng cao hiệu
quả của công tác thi đua. Người viết: “Thi đua ái quốc là ích lợi cho mình, ích
lợi cho gia đình mình và ích lợi cho làng, cho nước và cho dân tộc” [27,
tr.659]. Chính vì vậy mà Bác Hồ đã đặt tên cho phong trào thi đua của nhân
dân ta là phong trào “Thi đua yêu nước”. Phong trào thi đua yêu nước do
Người khởi xướng và lãnh đạo từ những năm đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp đã nhanh chóng phát triển, thành phong trào sâu rộng và liên tục
qua nhiều thập kỷ, trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước. “Thi đua, khen
thưởng là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây dựng con
người mới. Thi đua yêu nước phải được tiến hành thường xuyên, liên tục hàng
ngày” [3, tr.226] và công việc hàng ngày chính là nội dung thiết thực của thi
đua. Từ thực tiễn tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk càng thấy được vai trò, vị
trí của thi đua, khen thưởng trong quá trình xây dựng và phát triển thị xã từ
khi thành lập đến nay; ở bất kỳ lĩnh vực nào, thời điểm nào cũng đều có sự
đóng góp quan trọng của thi đua, khen thưởng.
Vai trò quan trọng của thi đua, khen thưởng là không thể thiếu nhằm
góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của đất nước cũng như nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của tỉnh Đắk Lắk


1


nói chung và thị xã Buôn Hồ nói riêng. Tuy nhiên, công tác thi đua, khen
thưởng thời gian qua vẫn còn những hạn chế nhất định như: phương pháp duy
trì, phát động thi đua, bồi dưỡng gương điển hình tiên tiến, việc tuyên truyền
công khai, dân chủ, động viên khen thưởng chưa được thực hiện tốt. Có lúc,
có nơi thi đua, khen thưởng chưa gắn liền với công tác quản lý, bồi dưỡng,
quy hoạch, đề bạt cất nhắc cán bộ; chưa gắn liền thi đua với khen thưởng.
Khen thưởng còn tràn lan, còn tập trung vào một bộ phận lãnh đạo. Không ít
phong trào thi đua còn mang tính hình thức, chạy theo thành tích giả tạo, chưa
có chiều sâu ...
Để thi đua, khen thưởng luôn phát huy hiệu quả cao nhất trong mọi lĩnh
vực, mọi thời điểm thì công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
cũng cần được nghiên cứu thường xuyên nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định
cho phù hợp với tình hình thực tế và việc xây dựng các phong trào thi đua
phải gắn với nhiệm vụ cụ thể của từng lĩnh vực, từng thời kỳ. Vì vậy, tôi xin
mạnh dạn lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng tại
thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Hiện nay, đã có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu các vấn đề liên quan
tới thi đua, khen thưởng; một số đề tài hướng tới nghiên cứu đổi mới quản lý
nhà nước về thi đua, khen thưởng; một số đề tài nghiên cứu vai trò của đội
ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện
nay ... như:
- Trần Thị Hà (2013), Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua, khen
thưởng trong giai đoạn hiện nay, Đề tài độc lập cấp Nhà nước.
Mục đích của đề tài chính là nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn về thi đua, khen thưởng. Đánh giá thực trạng công tác thi đua, khen

thưởng và các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng, tổ chức làm

2


công tác thi đua, khen thưởng từ đó đề xuất các quan điểm, phương hướng và
giải pháp nhằm đổi mới hoạt động thi đua, khen thưởng và quản lý Nhà nước
về thi đua, khen thưởng, trực tiếp góp phần kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật
thi đua, khen thưởng để thi đua, khen thưởng thực sự là động lực góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ mới. Từ thực tiễn nâng lên
thành lý luận. Tuyên truyền toàn dân về vị trí, vai trò của thi đua, khen thưởng
sâu rộng và lan tỏa hơn [23].
- ThS. Nguyễn Thị Phương Lan (2016), Cơ sở khoa học xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ.
Công trình nghiên cứu tập trung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay; đánh giá thực trạng số lượng, chất lượng từ
đó tìm ra các nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm. Trên cơ sở
đó đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác thi đua, khen thưởng từng bước đủ về số lượng, mạnh về chất lượng,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác thi đua, khen thưởng trong thời kỳ
mới [25].
Đề tài đã khái quát một cách tương đối có hệ thống, chi tiết một số vấn
đề lý luận liên quan đến quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng
như vai trò của thi đua khen thưởng, các nôi dung quản lý nhà nước về công
tác thi đua, khen thưởng, các yếu tố chi phối, ảnh hưởng đến quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng; vị trí, vai trò, đặc điểm, cơ cấu của đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng. Bên cạnh đó, Đề tài đã phân
tích, làm rõ được thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi đua,

khen thưởng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, qua những số liệu điều tra
khảo sát cụ thể, nhóm tác giả đã khái quát lên được bức tranh thực trạng qua

3


những biểu đồ minh họa sinh động, từ đó đưa ra được những đánh giá chung,
những ưu điểm cũng như những hạn chế, bất cập và nguyên nhân. Trên cơ sở
kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả thực hiện Đề tài đã đưa ra được những đề
xuất, kiến nghị có giá trị tham khảo về định hướng, giải pháp để xây dựng và
phát triển đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng ở
nước ta phù hợp với nhu cầu và đặc điểm phát triển trong giai đoạn mới. Với
mỗi giải pháp đưa ra đều có những luận giải cụ thể từ việc chỉ ra mục tiêu, ý
nghĩa của giải pháp đến cách thức thực hiện, điều này mang lại tính khả thi và
tạo nên giá trị thực tiễn của cả công trình nghiên cứu. Nhìn chung, Đề tài đã
được thực hiện một cách công phu, nghiêm túc; kết quả nghiên cứu của Đề tài
có giá trị tham khảo rất tốt cho cán bộ, công chức làm công tác thi đua khen
thưởng ở nước ta hiện nay và những người quan tâm đến lĩnh vực này [25].
- TS. Phạm Huy Giang (2015), Phương pháp tổ chức phong trào thi
đua đạt hiệu quả cao trong giai đoạn hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ.
Trong công trình này, nhóm nghiên cứu đã hệ thống hóa các khái niệm
liên quan đến thi đua, phong trào thi đua, phương pháp tổ chức phong trào thi
đua, nội dung của các phong trào thi đua; các nội dung cơ bản tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, các chủ trương của Đảng qua các
giai đoạn cách mạng. Đây là những tiền đề cơ bản tạo cơ sở về mặt lý luận để
nghiên cứu thực trạng phương pháp tổ chức các phong trào thi đua ở các địa
phương trong thực tế từ khi có Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ
Chính trị và Luật thi đua, khen thưởng đến nay. Nhóm nghiên cứu cũng đã
phân tích chỉ ra những tồn tại và nguyên nhân, làm rõ những nguyên nhân
thuộc về chủ quan trong phương pháp tổ chức các phong trào thi đua yêu

nước ở các địa phương để làm căn cứ đề xuất các giải pháp. Một số phương
pháp tổ chức phong trào thi đua đạt hiệu quả cao trong giai đoạn hiện nay,
Nhóm nghiên cứu đã phân tích các yếu tố liên quan đến phương pháp tổ chức

4


phong trào thi đua. Dựa vào quan điểm, mục tiêu của Đảng về phương pháp
tổ chức trong phong trào thi đua, từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp [22].
- Đỗ Thúy Phượng (2010), Hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen
thưởng ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật.
Luận văn làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về công tác thi đua, khen
thưởng. Hệ thống hóa và đánh giá khái quát pháp luật về thi đua, khen thưởng
từ năm 1945 đến năm 2010, trong đó đi sâu phân tích, đánh giá những quy
định pháp luật hiện hành về thi đua, khen thưởng. Đánh giá tình hình thực
hiện và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở
nước ta tại thời điểm nghiên cứu [29].
- Dương Thị Thanh (2007), Đổi mới quản lý Nhà nước về công tác thi
đua, khen thưởng ở địa phương, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công.
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước về
công tác thi đua, khen thưởng ở tỉnh Ninh Bình từ những năm đổi mới đến
năm 2007 có tham khảo những thời kỳ trước đó, đề xuất các giải pháp đổi
mới để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng
ở địa phương [33].
- Lê Xuân Khánh (2010), Quản lý Nhà nước về thi đua, khen thưởng
giai đoạn 2011-2020, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công.
Đề tài nghiên cứu làm rõ thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước về thi
đua, khen thưởng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện nội dung,
phương thức quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng cho phù hợp với yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 [24].
Nhìn chung, các công trình khoa học nói trên đã đề cập đến công tác thi
đua, khen thưởng và quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở nhiều góc
độ. Tuy nhiên các công trình này hầu hết đều nghiên cứu nhằm hướng đến

5


việc đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng và hiệu quả
quản lý nhà nước về công tác này ở cấp Trung ương hoặc cấp tỉnh chứ chưa
tập trung nghiên cứu ở cấp huyện và cấp xã. Đặc biệt, chưa có bất kỳ đề tài
nghiên cứu nào đề cập đến quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã
Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý
nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, đề xuất những giải pháp
hữu hiệu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng tại thị xã Buôn Hồ là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk; nêu ra những vấn đề còn tồn tại, hạn
chế; từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Nhiệm vụ
Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống cơ sở khoa học quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở
cấp huyện.
- Đánh giá, phân tích thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
- Đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian

tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk
Lắk.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi thời gian: Từ khi thành lập thị xã Buôn Hồ đến nay (từ năm
2009 đến năm 2016).
- Phạm vi loại hình khen thưởng: Khen thưởng theo công trạng và
thành tích đạt được.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam về thi đua khen thưởng, kết hợp với lý thuyết và thực tiễn của
quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng ở cấp huyện thuộc tỉnh Đắk Lắk, cụ
thể tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được tác giả sử dụng trong đề tài gồm:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát, thu thập số liệu.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Làm cơ sở để nghiên cứu sâu hơn về chủ trương, đường lối của Đảng;
chính sách, pháp luật của Nhà nước hiện hành về thi đua, khen thưởng; là tài
liệu giúp cơ quan thi đua, khen thưởng ở địa phương tham khảo để thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.

7


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi
đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị
xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp quản lý nhà nước về
thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

8


Chƣơng 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA,
KHEN THƢỞNG
1.1. Khái niệm về thi đua, khen thƣởng
1.1.1. Khái niệm thi đua
Quá trình phân công lao động gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội
loài người. Trong suốt quá trình phát triển đó, nhiều học giả đã cố gắng tìm
hiểu, nghiên cứu mối quan hệ giữa động lực sản xuất và hiệu quả sản xuất

cũng như các yếu tố tác động trực tiếp tới quan hệ này. Sự hợp tác trong sản
xuất là một tất yếu khách quan trong quá trình lao động sản xuất của con
người. Các Mác đã đưa ra quan niệm về thi đua “Thi đua nảy nở trong quá
trình hợp tác lao động, trong hoạt động chung và kế hoạch của con người với
sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua và sự nâng cao theo lối đặc biệt, nghị lực
sinh động làm tăng thêm nghị lực riêng cho từng người” [26].
Bàn về ngày thứ bảy lao động cộng sản V.I. Lênin đã nói đến thi đua xã
hội chủ nghĩa đó là phong trào lao động tự nguyện, góp sức giải quyết khó
khăn, xây dựng xã hội mới của quần chúng lao động được giải phóng khỏi
ách áp bức bóc lột. Lênin coi đây là một sáng kiến vĩ đại, chính quyền cách
mạng cần chăm lo, tổng kết, phổ biến sáng kiến kinh nghiệm.
Khái niệm Thi đua xã hội chủ nghĩa trong quan điểm của V.I.
Lênin là một hình thức hợp tác giữa người với người, góp phần
phát triển năng lực của con người, phát triển của tính chủ động
sáng tạo của nhân dân lao động và của chế độ dân chủ trong xã hội
mới. Thi đua xã hội chủ nghĩa, ra đời trên cơ sở lao động tập thể,
trên cơ sở những quan hệ tương trợ và hợp tác, đoàn kết theo tinh
thần đồng chí, nhằm giúp đỡ những người lạc hậu dần dần tiến lên

9


ngang những người tiên tiến, nâng cao trình độ văn hóa và trình độ
sinh hoạt tinh thần của mọi người. V.I. Lênin coi thi đua là đòn
bẩy mạnh mẽ của tiến bộ kinh tế - xã hội, là trường học giáo dục
chính trị lao động và đạo đức cho nhân dân lao động. Chức năng
chủ yếu của thi đua xã hội chủ nghĩa là chức năng kinh tế: nâng
cao hiệu suất của sản xuất xã hội, đạt những kết quả cuối cùng cao
nhất của nền kinh tế quốc dân, đạt năng suất lao động cao hơn, tổ
chức lao động một cách khoa học v.v... [34].

Vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
về thi đua, thi đua xã hội chủ nghĩa vào hoàn cảnh nước ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nâng quan niệm về thi đua lên tầm tư tưởng, đường lối chính trị và
phương pháp cách mạng. Người coi tổ chức thi đua yêu nước là cách tốt nhất
để khơi dậy lòng yêu nước tiềm tàng trong mỗi người dân Việt Nam, biến nó
thành sức mạnh, thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cũng như
trong bảo vệ Tổ quốc. Người khẳng định: hễ là người Việt Nam yêu nước thì
phải thi đua, thi đua là yêu nước. Thi đua là một cách yêu nước thiết thực
nhất. Những người thi đua là những người yêu nước nhất. Thi đua phải có
mục đích, mục tiêu rõ ràng, cụ thể.
Ngay từ khi Nhà nước ta mới ra đời, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chú trọng đến công tác thi đua. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thi đua tồn tại
khách quan trong xã hội, Người dạy “... Tưởng lầm rằng thi đua là một việc
khác với những công việc hàng ngày. Thật ra công việc hàng ngày chính là
nền tảng của thi đua. Ví dụ: từ trước đến giờ ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở. Nay
ta thi đua ăn, mặc, ở cho sạch sẽ, cho hợp vệ sinh, cho khỏi ốm đau” [27,
tr.658]. Thi đua là một hiện tượng khách quan, là quy luật phát triển tất yếu
trong quá trình hợp tác lao động của con người. Ở đâu có hợp tác lao động thì
ở đó nảy sinh thi đua.

10


Dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, thi đua yêu nước bao giờ cũng là phong
trào thi đua tập thể của những công nhân, nông dân, trí thức, những người lao
động tự mình làm chủ vận mệnh của mình, không đối kháng về lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội; mọi người mang hết nhiệt tình và khả năng của mình
ra để xây dựng đất nước.
Nguyên tắc quan trọng nhất của thi đua xã hội chủ nghĩa là đoàn kết,
hợp tác cùng phát triển, phổ biến sáng kiến, kinh nghiệm; người tiên tiến thân

ái giúp đỡ người chậm tiến để đạt tới sự tiến bộ chung. Hoàn toàn không
giống với bí mật thương nghiệp trong cạnh tranh. Thi đua xã hội chủ nghĩa
chẳng những nhằm mục tiêu kinh tế mà còn nhằm xây dựng con người mới,
rèn luyện nhân cách cao đẹp cho người lao động.
Như vậy, thi đua được coi như một công cụ góp phần nâng cao hiệu
quả sản xuất. Công tác thi đua được hình thành và gắn liền với những chặng
đường lịch sử, đặc biệt khi xã hội đang được xây dựng trong thời kỳ đổi mới,
trong cơ chế thị trường. Nhà nước ta ghi nhận tính tất yếu của công tác thi đua
trong thời kỳ đổi mới đất nước bằng việc xây dựng và thông qua Luật Thi đua
– Khen thưởng năm 2003 và được sửa đổi bổ sung năm 2005, năm 2013.
Trong đó chỉ rõ “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện
của các cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [30].
1.1.2. Khái niệm khen thưởng
Cùng với thi đua, khen thưởng cũng là hoạt động tồn tại khá lâu và phát
triển gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người. Dưới các hình thái kinh
tế xã hội khác nhau, các hình thức khen thưởng cũng tồn tại dưới các hình
thức, giá trị khác nhau tùy thuộc vào bản chất của nhà nước ở trong từng giai
đoạn lịch sử.

11


Ở nước ta, khen thưởng đã được thực hiện từ các triều đại phong kiến
trước đây, các hình thức khen thưởng của thời phong kiến đã được Ngô Sỹ
Liên nêu rõ trong cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư” như sau:
- Khen thưởng người có công trong chiến trận
- Khen thưởng người có công trong việc đi sứ
- Khen thưởng người phò tá có công lao tài đức
- Khen thưởng người tiến cử, người hiền tài

- Khen thưởng người có lời tâu đúng
- Khen thưởng người cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người
quyền quý cấp trên
- Khen thưởng người có công làm thủy lợi
- Khen thưởng người có tài văn chương
- Khen thưởng người cao tuổi ...
Qua những hình thức khen thưởng đó cho thấy các triều đình phong
kiến ở nước ta chú trọng tới việc khen thưởng để khuyến khích, khích lệ động
viên mọi người hăng hái lập công để được khen thưởng. Cũng qua việc hăng
hái lập công đó cho thấy được tinh thần yêu nước sâu sắc của dân tộc. Cách
đây hơn 600 năm, Nguyễn Trãi cũng đã viết: Nhà nước thưởng nhiều hơn
phạt là Nhà nước phồn vinh; nhà nước thưởng, phạt nghiêm minh là nhà nước
vững mạnh; nhà nước phạt nhiều hơn thưởng là nhà nước đang suy tàn.
Đảng, Bác hồ đã rất quan tâm đến việc biểu dương khích lệ động viên
người tốt, việc tốt. Mỗi khi đọc báo, nghe đài, thấy có nghĩa cử đẹp là Bác
cho đi kiểm tra ngay để Bác khen thưởng. Bác thường nhắc nhở khen thưởng
phải chính xác và kịp thời để động viên phát huy mặt ưu điểm, tích cực, khắc
phục và đẩy lùi mặt khuyết điểm, tiêu cực nhằm xây dựng con người mới vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

12


Bác Hồ đã dạy “Có công thì thưởng, có lỗi thì phạt, khen thưởng phải
có tác dụng giáo dục, động viên, nêu gương ...” khen thưởng còn là một chính
sách của nhà nước để ghi công, tôn vinh các cá nhân, tập thể có thành tích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khen là sự nhận xét đánh giá tốt về một con người nào đó, một tổ chức
nào đó, về cái gì, việc gì đó với ý nghĩa hài lòng. Thưởng là tặng cho bằng
hiện vật hoặc tiền ... Khen thưởng là hình thức ghi nhận công lao, thành tích

của Nhà nước bằng quyết định của cơ quan có thẩm quyền do luật định. Như
vậy, khen thưởng là một vấn đề thuộc phạm trù khoa học xã hội. Khen thưởng
và trừng phạt được hình thành phát sinh và tồn tại trong quá trình phát triển
của con người là vấn đề thuộc tâm lý xã hội, sinh hoạt tinh thần của con
người, do đó khen thưởng phải thể hiện quan điểm quần chúng, phải có trách
nhiệm cao trong quá trình phát hiện xét khen thưởng. Khen thưởng tồn tại
cùng với sự tồn tại của Nhà nước. Còn Nhà nước là còn khen thưởng. Khen
thưởng vừa có ý nghĩa động viên về tinh thần và khích lệ bằng vật chất.
Trong điều kiện hiện nay, khen thưởng vẫn có vai trò quan trọng là
động lực thúc đẩy xã hội phát triển là biện pháp của người quản lý thực hiện
nhiệm vụ trọng tâm chính trị của cơ quan đơn vị mình nhằm khuyến khích
động viên mọi tầng lớp trong xã hội tích cực hăng hái lập thành tích trong lao
động sản xuất và công tác. Luật thi đua, khen thưởng đã nêu rõ “Khen thưởng
là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi
ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc” [30].
1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Thi đua và khen thưởng quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động biện
chứng lẫn nhau. Đó là hai mặt của một vấn đề, là hai thành tố hữu cơ của một
quá trình đem đến một hiệu quả chung.

13


Thi đua là động lực thúc đẩy cá nhân và cộng đồng hoàn thành nhiệm
vụ trên cơ sở đó thực hiện khen thưởng. Thi đua là cơ sở của khen thưởng,
nếu tổ chức tốt phong trào thi đua thì kết quả khen thưởng cao. Ngược lại,
khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời sẽ có tác dụng động viên, cổ vũ
cho thi đua. Thực tế cho thấy ở đâu phong trào thi đua thực sự là động lực thì
ở đó xã hội phát triển, quần chúng phấn khởi và khen thưởng chuẩn xác;

ngược lại ở đâu phong trào thi đua yếu, hoặc không có phong trào thi đua thì
ở đó xã hội trì trệ, công tác khen thưởng không chuẩn xác, quần chúng kém
phấn khởi, thậm chí có những tiêu cực.
Khen thưởng vừa là kết quả, vừa là yếu tố thúc đẩy phong trào thi đua
phát triển. Thực tế cho thấy ở đâu làm tốt công tác khen thưởng, công tác này
được đánh giá khách quan, công minh trên cơ sở phong trào thi đua thì ở đó
quần chúng phấn khởi, có được phong trào thi đua mới, tốt hơn và ngược lại.
Bác Hồ coi thi đua là đoàn kết, là cải tạo con người. Theo Bác thi đua
phải toàn dân, toàn diện, thường xuyên. Đặc biệt Bác nhấn mạnh thi đua phải
gắn với khen thưởng một cách đích đáng; khen thưởng phải có tác dụng động
viên, giáo dục nêu gương; Bác khái quát bản chất của mối quan hệ giữa thi
đua và khen thưởng là “thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch” [3,
tr.264]. Như vậy có tổ chức tốt phong trào thi đua thì kết quả khen thưởng
mới chính xác, mới có tác dụng giáo dục, nêu gương, động viên khuyến
khích, hơn nữa còn tạo điều kiện cho đợt thi đua sau đạt kết quả cao hơn. Do
vậy, không coi nhẹ khen thưởng trong thi đua, ngược lại không có thi đua thì
không có căn cứ đánh giá thành tích để khen thưởng, thiếu chính xác, ít tác
dụng.
Lý luận và thực tiễn cho thấy thi đua, khen thưởng luôn bổ sung hỗ trợ
cho nhau. Thi đua là động lực thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân phát huy tinh
thần sáng tạo, nổ lực vượt mọi khó khăn vươn lên hoàn thành các mục tiêu

14


kinh tế - xã hội đề ra. Từ kết quả tổng kết thi đua mà lựa chọn tập thể và cá
nhân xứng đáng để khen thưởng. Khen thưởng chính là việc đánh giá kết quả
phong trào thi đua. Khen thưởng chính xác, kịp thời có tác dụng động viên,
giáo dục và nêu gương tốt trong xã hội, đồng thời cổ vũ phong trào thi đua
phát triển sâu, rộng. Nếu khen thưởng không đúng, không chuẩn xác sẽ làm

mất tác dụng thậm chí còn ảnh hưởng xấu đến phong trào thi đua và dẫn đến
tiêu cực trong phong trào thi đua, ảnh hưởng đến công tác khen thưởng.
Tuy nhiên, trong thực tế có những hình thức khen thưởng không phản
ánh kết quả trực tiếp từ phong trào thi đua như: Khen thưởng tổng kết thành
tích kháng chiến, khen thưởng người có quá trình cống hiến lâu dài trong cơ
quan, tổ chức, đoàn thể ...; khen thưởng đối với những cá nhân tổ chức trong
nước và ngoài nước có công lao, đóng góp cho xã hội, cho Việt Nam trong
quá trình hội nhập, phát triển kinh tế, những cá nhân dũng cảm cứu người, tài
sản của nhà nước, của tập thể, của công dân ... song việc khen thưởng này
cũng có quan hệ nhất định đối với thi đua, nó cũng bị ảnh hưởng nhất định từ
phong trào thi đua, từ truyền thống thi đua yêu nước của dân tộc.
1.2. Mục đích, yêu cầu và vai trò của thi đua, khen thƣởng
1.2.1. Mục đích, yêu cầu của thi đua, khen thưởng
Mục đích của việc thi đua, khen thưởng là “nhằm tạo động lực động
viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu
nước, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [32]; khích lệ,
khơi dậy một cách đúng đắn động cơ làm việc của con người, khiến cho họ
coi việc thực hiện mục tiêu của tổ chức cũng như thực hiện nhu cầu của bản
thân, từ đó làm cho tính tích cực và sáng tạo của họ tiếp tục được duy trì và
phát huy, góp phần xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; thi đua, khen
thưởng có tác dụng giáo dục, nêu gương, để sau khi được biểu dương, khen

15


thưởng, tập thể, cá nhân được khen phát huy tính tích cực trong công việc
được giao; người chưa được khen cũng thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ
của mình, cần phải phấn đấu để được ghi nhận trong thời gian tới và đạt được
mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị, địa phương đề ra.

Công tác khen thưởng phải bảo đảm chính xác, kịp thời, công khai,
minh bạch. Khen thưởng bảo đảm đúng tiêu chuẩn, thực chất, tránh tràn lan.
Cần đề cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu trong việc phát hiện những
điển hình tiên tiến để khen thưởng. Chú trọng khen thưởng người có công với
cách mạng, đối tượng chính sách, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tập thể nhỏ,
công nhân, nông dân, người trực tiếp lao động sản xuất, kinh doanh, cán bộ,
chiến sĩ lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ … Quan tâm khen thưởng cơ sở,
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo và vùng dân tộc thiểu số.
1.2.2. Vai trò của thi đua, khen thưởng
Thi đua - Khen thưởng là một phạm trù đồng nhất, là hai mặt của một
vấn đề. Vì vậy công tác khen thưởng là một nội dung không thể thiếu được
của công tác thi đua, nó đã tác động, thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước
phát triển đạt tới những đỉnh cao qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, góp
phần giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Qua các
phong trào thi đua đã xuất hiện bao tấm gương tập thể, cá nhân anh hùng,
dũng sĩ, chiến sĩ thi đua trong hai cuộc kháng chiến và bao tấm gương điển
hình, tiên tiến “Người tốt, việc tốt”... Có thể nói, các phong trào thi đua yêu
nước là mảnh đất màu mỡ để gieo trồng nên những điển hình tiên tiến trong
lao động sản xuất và mọi mặt công tác.
Trong giai đoạn hiện nay cùng với thi đua, khen thưởng giữ một vị trí,
vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Khen thưởng là sự động viên, biểu
dương, ghi nhận công lao, thành tích của tập thể, cá nhân có thành tích tốt cần
được nhân rộng. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, khen thưởng

16


còn góp phần quan trọng trong việc xây dựng cuộc sống mới, nền văn hoá
mới, con người mới hoàn chỉnh và toàn diện hơn, thực sự làm cho mặt thiện
trong mỗi con người ngày càng sinh sôi nảy nở như hoa mùa xuân và mặt ác

ngày càng bị đẩy lùi.
Hiện nay, công tác thi đua khen thưởng đã được các ngành, các cấp
quan tâm hơn và luôn gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Công tác thi
đua, khen thưởng thực sự đã trở thành động lực quan trọng trong việc thúc
đẩy mọi người, mọi thành phần trong xã hội thi đua lao động sản xuất, học
tập, sáng tạo, sẵn sàng chiến đấu ... Nhiều đồng chí lãnh đạo, thủ trưởng cơ
quan, đơn vị đã coi công tác thi đua, khen thưởng là một trong những biện
pháp quản lý, điều hành cơ quan, đơn vị có hiệu quả, thực sự có tác dụng
động viên cán bộ, công nhân viên chức và người lao động hoàn thành những
nhiệm vụ được giao. Nhờ có sự động viên, khen thưởng kịp thời nên ngày
càng xuất hiện nhiều đơn vị, tập thể sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, các
hộ gia đình nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi trên khắp các vùng miền của
Tổ quốc.
Thi đua tạo ra động lực sản xuất thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thi đua thường xuyên được tổ chức thực hiện hàng ngày, hàng tháng, hàng
quý, hàng năm nhằm thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu và chương trình công tác đề
ra. Các phong trào thi đua được tổ chức để thực hiện những nhiệm vụ công
tác trọng tâm, đột xuất theo từng giai đoạn và thời gian được xác định.
Nhiều tập thể, cá nhân được khen thưởng đã thực hiện tốt và nhận thức
sâu sắc ý nghĩa của công tác thi đua khen thưởng nên họ càng phấn đấu cao
hơn với mục đích vô tư, trong sáng. Nếu tiếp tục được khen họ sẽ càng vui,
nếu chưa được thì họ lại tiếp tục thi đua, phấn đấu nhiều hơn, tích cực hơn
nữa chứ không vì thế mà biểu hiện tư tưởng dừng lại, chán nản, tiêu cực ...

17


×