Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Cưỡng chế trong thi hành án dân sự từ thực tiễn Thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.31 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG ĐOÁN

CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH CÀ MAU

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG ĐOÁN

CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH CÀ MAU
Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 60.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong
Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của Luận văn chưa từng được
công bố trong các công trình khác.
Hà Nội, ngày

tháng 8 năm 2017

Tác giả luận văn

Trần Hoàng Đoán


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..........................................................................9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nguyên tắc của cưỡng chế trong thi hành án
dân sự ....................................................................................................................... 9
1.2. Nội dung của cưỡng chế trong thi hành án dân sự ......................................... 15
1.3. Cơ sở pháp luật về cưỡng chế trong thi hành án dân sự ................................. 19
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng (tác động) đến cưỡng chế trong thi hành án dân sự ... 35
Chương 2: THỰC TRẠNG CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN DỰ
Ở TỈNH CÀ MAU ...................................................................................................39
2.1. Khái quát về Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau ............................................... 39
2.2. Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau ................... 46
2.3. Kết quả cưỡng chế trong thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau .......................... 47
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót của cưỡng chế trong thi hành án
dân sự ở tỉnh Cà Mau ............................................................................................. 61

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH CÀ MAU .............66
3.1. Quan điểm, yêu cầu của việc nâng cao chất lượng cưỡng chế thi hành án dân
sự ở tỉnh Cà Mau...................................................................................................67
3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng cưỡng chế trong thi hành án dân sự ở
tỉnh Cà Mau ........................................................................................................... 72
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCT

Bộ Chính trị

BLDS

Bộ luật dân sự

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự


BMNN

Bộ máy Nhà nước

BPCC

Biện pháp cưỡng chế

BPCCTHADS

Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự

BTP

Bộ Tư pháp

CCTHADS

Cưỡng chế thi hành án dân sự

CHV

Chấp hành viên

KSV

Kiểm sát viên

LHP


Luật hiến pháp

LTHADS

Luật thi hành án dân sự

NN và PL

Nhà nước và Pháp Luật

NN

Nhà nước

PL

Pháp luật

PLTHADS

Pháp lệnh thi hành án dân sự

TAND

Tòa án nhân dân

TP

Thẩm phán


TPL

Thừa phát lại

THA

Thi hành án

THADS

Thi hành án dân sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết hiện nay Cơ quan THADS thuộc BTP quản lý và là một
trong những cơ quan độc lập trong hệ thống các cơ quan tư pháp của BMNN của
Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Vì trong tiến trình xây dựng NN
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về lĩnh vực tổ chức, hoạt động của NN, Đảng đã chủ
trương phải thực hiện đồng bộ ba cuộc cải cách: Cải cách tư pháp, cải cách PL, cải
cách hành chính. Trong đó cải cách tư pháp luôn được Đảng quan tâm chú trọng

ngay từ những năm đầu của thế kỷ XXI, với Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của BCT đã chỉ rõ: “…Trên cơ sở tổng kết, đánh giá về công tác thi
hành án, cần sớm xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao trách nhiệm
của cơ quan thi hành án, bảo đảm các quyết định, bản án của tòa án đã có hiệu lực
pháp luật phải được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh ...”[3. Tr 3]; Nghị quyết
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của BCT về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
tiếp tục khẳng định “...Chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để thực
hiện việc chuyển giao tổ chức và công tác thi hành án cho Bộ tư pháp...Xây dựng
các chế định bổ trợ tư pháp đủ mạnh, đáp ứng kịp thời với tình hình; làm thí điểm ở
một số địa phương về chế định thừa phát lại; từng bước xã hội hóa các hoạt động
bổ trợ tư pháp”[5. Tr 7-8];
Vậy thi hành án dân sự là gì? Đây là một trong những hoạt động quan trọng
của NN trong việc đưa các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền ra thi
hành trên thực tế. Hoạt động THA một mặt đảm bảo cho quyền lực tư pháp được
thực thi trên thực tế nhưng mặt khác, nó còn là công cụ hữu hiệu để khôi phục lại
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại. Hiệu quả của hoạt động THA
có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với PL. Tuy nhiên, trong điều
kiện kinh tế, xã hội hiện nay, không phải bản án, quyết định có hiệu lực nào của cơ
quan có thẩm quyền cũng có thể được tổ chức thi hành một cách thuận lợi. Do đó
các BPCCTHADS được sử dụng.
Cưỡng chế thi hành án dân sự là gì? Đây là biện pháp THADS dùng quyền
lực của NN để buộc người phải THA thực hiện nghĩa vụ THADS của họ, mà cụ thể:
CHV áp dụng trong trường hợp người phải THA có điều kiện thi hành án mà không

1


tự nguyện THA. Do vậy hiệu quả hoạt động CCTHADS, sẽ tác động trực tiếp đến
hiệu quả công tác THADS.
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng NN pháp quyền XHCN của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân, đòi hỏi NN cần quản lý xã hội bằng PL và không ngừng tăng
cường pháp chế XHCN, đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Để khẳng định yêu cầu này, Điều 106 Hiến pháp của Nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam năm 2013 ghi nhận: “Bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật
phải được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [57].
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác THADS, Đảng và NN ta đã
đề ra mục tiêu phải: "...Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của toà án có hiệu lực
pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán
quyết của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành". Trong những năm qua NN ta đã
xác định công tác THADS là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đã đưa ra
nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác này mà cụ
thể là: Sau rất nhiều PLTHADS, lần đầu tiên NN ta đã ban hành LTHADS năm
2008 (sửa đổi, bổ sung lần gần nhất năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày
01.7.2015) cùng với một loạt các văn bản quy phạm PL thể chế hoá các quy định
của Luật này vào cuộc sống, đã đánh dấu bước đổi mới cơ bản điều chỉnh tất cả các
lĩnh vực trong công tác THADS. Đồng thời xác định BTP là cơ quan giúp Chính
phủ quản lý NN thống nhất công tác THADS, từng bước xã hội hoá hoạt động
THADS và để đảm bảo cho công tác THADS thực hiện có hiệu quả NN ta đã đặc
biệt quan tâm đến việc xây dựng khung pháp lý cho việc áp dụng BPCC, mà cụ thể:
Các nhà làm luật khi ban hành LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã
dùng riêng một chương: Chương IV với 55 điều luật, từ Điều 66 đến Điều 121 để
quy định về Biện pháp bảo đảm và CCTHADS. Việc CCTHADS còn được cụ thể
trong Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều LTHADS năm 2008 về thủ tụcTHADS; Nghị định
125/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị
định số 58/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
LTHADS; Nghị định 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về cưỡng chế thi

2



hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLTBTP-BCA quy định cụ thể về việc phối hợp bảo vệ CCTHADS; Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi
hành một số điều của LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Tại mục
12. Chương IV Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của TANDTC
quy định:“...về trường hợp khi giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bị
CCTHADS” [65. Tr 17]. Do vậy công tác THADS trong những năm qua đã đạt
được một số kết quả đáng khích lệ, trong đó nổi bật nhất theo đánh giá của Chính
phủ là: "Hệ thống cơ quan THADS được hình thành trong cả nước, công tác
THADS đã được triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu".
Cà Mau với số lượng án bàn giao và thụ lý hàng năm tương đối lớn, trong
những năm qua công tác THADS ở tỉnh Cà Mau đã đạt được những kết quả đáng
ghi nhận. Nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng lâu năm đã được tổ chức thi hành dứt
điểm; một số án lớn, tính chất phức tạp, ảnh hưởng lớn về kinh tế, trật tự an toàn xã
hội cũng đã được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo. Kết quả đạt được nói trên
phản ánh sự cố gắng, nỗ lực của toàn ngành tư pháp nói chung, cũng như đội ngũ
cán bộ, CHV cơ quan THADS nói riêng; là sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp
uỷ đảng, chính quyền địa phương; Sự phối hợp chặt chẽ của các ngành hữu quan
trong việc thực hiện và áp dụng pháp luật THADS.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được cũng như nhiều tỉnh, thành
trên cả nước. Thực trạng áp dụng và thực hiện pháp luật THADS ở tỉnh Cà Mau vẫn
còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình mới. Lượng án tồn đọng qua các năm còn lớn, nhiều bản án, quyết định về
THADS đã có hiệu lực PL nhưng chưa được tổ chức thi hành. Tình trạng trên có nhiều
nguyên nhân khác nhau như: Số lượng vụ việc THADS hàng năm có chiều hướng gia
tăng, số vụ việc có tính chất phức tạp ngày càng nhiều. Trong khi lực lượng công
chức làm công tác THA nhiều nơi còn mỏng, đã tạo áp lực công việc lên đội ngũ
cán bộ, CHV; một số cán bộ, CHV cơ quan THA còn thiếu tinh thần trách nhiệm,
thiếu tận tụy trong công việc và không loại trừ có trường hợp cá nhân cán bộ, CHV

suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, đã cố tình vận dụng những kẽ hở của hệ
thống pháp luật THADS hiện hành còn nhiều điểm bất cập để thực hiện các hành vi
sai trái trong THA nhằm vụ lợi cá nhân, khiến cho quần chúng nhân dân kêu ca phàn

3


nàn; Ở một số nơi cấp ủy, chính quyền các cấp chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của
mình trong việc thực hiện tổ chức, chỉ đạo THADS theo quy định của PL; Ban chỉ đạo
THADS hoạt động còn hình thức, chưa hiệu quả; công tác phối hợp
THA của các cơ quan hữu quan theo qui định của PL còn chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ,
không tạo điều kiện thuận lợi cho công tác THADS, gây thiệt hại đến lợi ích của NN,
quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự tham gia vào quan hệ pháp luật THADS và
uy tín của NN.
Đây cũng là những vấn đề bức xúc, rất cấp thiết đặt ra đối với công tác
THADS ở tỉnh Cà Mau trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi cần phải tiếp tục nâng cao
việc áp dụng pháp luật về THADS nói chung và công tác CCTHADS nói riêng mới
mong đảm bảo cho các quyết định, bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật được thi
hành trong thực tế ở tỉnh Cà Mau là vấn đề trở nên cấp bách.
Với tất cả những ý nghĩa đã nêu ở trên, việc chọn đề tài “Cưỡng chế trong
thi hành án dân sự từ thực tiễn Thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau” làm Luận
văn Thạc sĩ Luật học là cấp thiết và có ý nghĩa cả về lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước tháng 7 năm 1993, hoạt động THADS chưa được nghiên cứu một cách
có hệ thống, rất ít những công trình khoa học hay các bài nghiên cứu của các nhà
khoa học đề cập đến vấn đề này. Chỉ sau khi công tác THADS chuyển giao cho
Chính phủ thống nhất quản lý, nhất là trong tiến trình cải cách tư pháp, thực tiễn đòi
hỏi cần phải giải quyết, thì các vấn đề liên quan đến công tác THADS, CCTHADS
mới được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện. Trong các
công trình nghiên cứu về lĩnh vực THADS phải kể đến:

- Đề tài cấp NN: “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức
hoạt động THA ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ TTP chủ trì, 1998 [8].
- Đề tài cấp NN thực hiện: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và
hoạt động THA ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do BTP chủ trì, 2009 [9].
- Đề tài KX 04.06 thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp NN năm 2001 2005 do TS. Uông Chu Lưu - Bộ trưởng BTP làm chủ nhiệm đã nghiên cứu: “Cải
cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện các hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao
hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân và vì dân”[39].

4


- Đề tài: “THADS, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001”
do BTP chủ trì thực hiện dự án, năm 2009 [10].
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành
án”, mã số 96-98-027/ĐT do Cục THADS và BTP chủ trì thực hiện năm 2010 [39].
- Đề án khoa học cấp Bộ năm 2010: “Kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ
cán bộ THA để thực hiện có hiệu quả LTHADS năm 2008”, do PGS.TS Nguyễn
Văn Luyện làm chủ nhiệm đề tài [38].
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định
TPL”, mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - BTP và Sở Tư pháp
thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện, 2010 [74].
- Đề án số: 02/ĐA-UBND ngày 01/11/2016 của UBND tỉnh Cà Mau: “Đề án
thực hiện chế định thừa phát lại trên địa bàn tỉnh Cà Mau đến năm 2020”[66].
- Luận án Tiến sĩ của nghiên cứu sinh Nguyễn Thanh Thuỷ với đề tài “Hoàn
thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008 [52].
- Luận án Tiến sĩ của nghiên cứu sinh Nguyễn Quang Thái với đề tài “Pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008 [46].

- Luận văn thạc sĩ luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự,
thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" của tác giả Nguyễn Công Long, Trường
Đại học Luật Hà Nội năm 2000 [36].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
trong quân đội” của tác giả Tăng Đình Năm, Khoa luật trường Đại học quốc gia Hà
Nội năm 2006 [42];
- Luận văn thạc sỹ luật của tác giả Nguyễn Trọng Tân “Áp dụng pháp luật trong
cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh năm 2008 [45].
Những công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về hiệu quả thực hiện
PL nói chung và hiệu quả THADS nói riêng ở nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và
thực trạng hiệu quả công tác cưỡng chế trong THADS, lý giải các nguyên nhân ảnh
hưởng đến chất lượng và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác CCTHADS tại

5


một địa phương cụ thể là tỉnh Cà Mau một cách toàn diện, chuyên sâu và trong điều
kiện pháp luật THADS đã có nhiều thay đổi về căn bản như hiện nay.
Để nghiên cứu và thực hiện đề tài “Cưỡng chế trong thi hành án dân sự từ
thực tiễn Thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau” Tôi đã tham khảo, kế thừa có chọn
lọc kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố trên đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc phát
huy kết quả đã đạt được cũng như khắc phục những yếu kém, hạn chế đang còn tồn
tại và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THADS ở tỉnh Cà Mau hiện
nay nói chung và nâng cao hiệu quả công tác CCTHADS nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về THADS, làm sáng tỏ về pháp luật THADS, phân
tích những kết quả đạt được, điểm yếu kém, hạn chế trong thực tiễn nhằm nâng cao
hiệu quả công tác THADS;
- Phân tích cơ sở lý luận về cưỡng chế trong THADS nói chung và cưỡng
chế trong THADS từ thực tiễn tỉnh Cà Mau nói riêng, để làm sáng tỏ tính pháp quy
của CCTHADS và qua phân tích những kết quả đạt được, điểm yếu kém, hạn chế
trong thực tiễn áp dụng các BPCC trong THADS nhằm nâng cao hiệu quả công tác
THADS và CCTHADS.
- Đánh giá đúng đắn, đích thực về thực trạng hiệu quả công tác THADS,
CCTHADS từ đó đi sâu phân tích những kết quả đã đạt được và những hạn chế, tồn tại
trong việc nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, đặc biệt là khâu công tác
cưỡng chế trong THADS ở tỉnh Cà Mau và làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
- Xây dựng những quan điểm, giải pháp có tính lâu dài, thường xuyên liên
tục để đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả công tác THADS, CCTHADS được
đúng quy định pháp luật, đồng bộ, thống nhất trong toàn hệ thống các cơ quan
THADS ở tỉnh Cà Mau.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

6


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng các BPCC trong THADS ở tỉnh Cà Mau.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ thực tiễn áp dụng BPCC trong THADS ở tỉnh Cà Mau, luận văn nghiên
cứu một cách tổng quát có hệ thống chế định CCTHADS hiện hành. Trong đó tập
trung nghiên cứu phân tích thực trạng về hiệu quả công tác THADS nói chung và

khâu công tác cưỡng chế trong THADS nói riêng; những hạn chế, tồn tại và nguyên
nhân của nó, để từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp đảm bảo cho việc nâng cao
hiệu quả THADS, CCTHADS trong điều kiện hiện nay ở tỉnh Cà Mau.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc CCTHADS của Cục
THADS tỉnh Cà Mau khi thực hiện công tác THADS trong 05 năm (2012-2017) và
những văn bản quy phạm pháp luật về THADS nói chung và CCTHADS nói riêng
trong khoảng thời gian từ năm 1993 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về NN và PL và những quan điểm của Đảng và NN ta về công
tác THADS, về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và những nghiên cứu có
liên quan đến áp dụng pháp luật trong công tác CCTHADS.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, chủ yếu sử dụng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân
tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, so sánh, hệ thống hóa, logic, thống kê kết hợp với
khảo sát thực tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn là công trình nghiên cứu cơ bản, toàn diện, có hệ thống về cơ sở lý
luận, thực tiễn công tác THADS và khâu công tác CCTHADS; Nâng cao hiệu quả
công tác CCTHADS ở tỉnh Cà Mau. Vì vậy, có thể xem những nội dung sau đây là
những đóng góp mới về khoa học của luận văn.
- Luận văn nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình
thành và phát triển của công tác THADS nói chung và cưỡng chế trong THADS nói

7


riêng trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ năm 1946 đến nay.
- Luận văn đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm

pháp luật THADS, CCTHADS; Đánh giá, phân tích đúng thực trạng hiệu quả cưỡng
chế trong THADS và đưa ra những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng khâu công tác cưỡng chế trong THADS ở tỉnh Cà Mau.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất phương
hướng và giải pháp đảm bảo tuân thủ pháp luật khi thực hiện CCTHADS trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam và các
chế định về Thừa phát lại trong điều kiện đổi mới, phát triển ổn định, bền vững và hội
nhập quốc tế.
Học viên hy vọng kết quả nghiên cứu luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo
cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên
cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật; Phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ, CHV đang công tác tại các Cơ quan THADS các cán
bộ, Kiểm sát viên VKSND thực hiện công tác kiểm sát việc chấp hành pháp luật
trong công tác THADS nói chung và CCTHADS nói riêng được khách quan, có căn
cứ và đúng pháp luật.
7. Cơ cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 10 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về cưỡng chế trong thi hành
án dân sự
Chương 2: Thực trạng cưỡng chế trong thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng cưỡng chế trong thi
hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nguyên tắc của cưỡng chế trong thi
hành án dân sự
1.1.1 Khái niệm cưỡng chế trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt
Nam
Để bảo đảm thực thi PL mà mình ban hành ra, bất kỳ NN nào cũng sử dụng
sức mạnh cưỡng chế. “Cưỡng chế” là khái niệm thuộc phạm trù Nhà nước và Pháp
luật, là hiện tượng gắn liền với NN. Về thuật ngữ, hiểu theo nghĩa rộng, trong cuốn
Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam do Nxb Văn
hoá - Thông tin ấn hành 1998 nêu rõ: “cưỡng chế là bắt phải tuân theo bằng sức
mạnh quyền lực”. Còn theo cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam tập l xuất bản năm
l995, thì khái niệm cưỡng chế là “dùng quyền lực NN để bắt buộc người khác thực
hiện những việc làm trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế là một trong những phương
pháp chủ yếu của hoạt động quản lý nhà nước”; Theo cuốn Từ điển Luật học do
Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội xuất bản năm 1999 thì khái niệm cưỡng chế là
“những biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện và phục tùng một
mệnh lệnh nhất định của cơ quan NN có thẩm quyền do nhà nước quy định”. Như
vậy, cưỡng chế là một phương thức sử dụng và bảo đảm cho quyền lực NN. Tuỳ
từng chế độ chính trị và điều kiện phát triển của kinh tế - xã hội cụ thể, mà ở từng
NN khác nhau, phương pháp cưỡng chế được sử dụng ở các phạm vi, mức độ và
cách thức khác nhau. Ngoài ra, các hình thức và các BPCC cũng được sử dụng tuỳ
từng quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh. Nhưng nhìn chung bất cứ lĩnh vực nào
mà PL điều chỉnh cũng đều cần sử dụng các BPCC bảo đảm thi hành. Trong hoạt
động tư pháp, để bảo đảm tính hiệu lực của các bản án, quyết định NN phải định ra
các BPCC nghiêm khắc bảo đảm cho việc thi hành. Thực ra khi Toà án ra bản án,
quyết định thì bản thân sự phán quyết đó đã thể hiện quyền lực đặc biệt của NN, thể

9


hiện sự cưỡng chế của NN. Chính vì vậy ở khía cạnh nào đó, nói đến THA cũng có

nghĩa là nói đến cưỡng chế.
Theo quyết định của Toà án, người bị kết án phải chịu một hình phạt nhất
định, hoặc một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đó phải gánh chịu một nghĩa vụ tài
sản hay thực hiện một công việc vì lợi ích của người khác. Các chế tài này hiển
nhiên là hoàn toàn trái với ý muốn của những người đó. Khó có thể hy vọng vào sự
tự “trừng phạt” hoặc sự tự nguyện tuyệt đối của người phải THA. Việc PL quy định
các biện pháp nhằm bảo đảm việc thực thi các bản án, quyết định của Toà án là tất
yếu; Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực PL có được thi hành nghiêm chỉnh,
dứt điểm hay không; kỷ cương PL có được tôn trọng, lợi ích hợp pháp của NN, của
tập thể, của các tổ chức xã hội và mọi công dân có được bảo đảm hay không phụ
thuộc nhiều vào kết quả THA; trong THADS các bên đương sự có quyền tự định
đoạt, thoả thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo bản án,
quyết định của Tòa án. Tự nguyện THA đã trở thành một nguyên tắc, biện pháp
quan trọng được Đảng và Nhà nước ta tập trung chỉ đạo tăng cường thường xuyên
trong mọi giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước. Làm tốt công tác động viện tự
nguyện THA một mặt giúp các cơ quan THADS đạt được số vụ việc thi hành xong
mà không phải tốn kém kinh phí của ngân sách Nhà nước, không cần phải huy động
lực lượng và các nguồn lực khác để tổ chức cưỡng chế; tự nguyện THA tốt giúp giải
tỏa mâu thuẫn, cũng cố tình làng, nghĩa xóm, thắt chặt tình đoàn kết trong nội bộ
nhân dân.
Giải thích, thuyết phục để các bên tự nguyện THADS là nhiệm vụ của CHV,
của cơ quan THADS trong quá trình tổ chức THA; Còn thuyết phục trong THADS
bắt nguồn từ việc các bên đương sự có quyền tự nguyện thực hiện các quyền, nghĩa
vụ dân sự đã được bản án, quyết định ghi nhận, thể hiện ý chí của các bên đương sự
nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Tuy vậy, khi người phải THA đã
được giải thích, thuyết phục, mặc dù có điều kiện THA mà tìm mọi cách trì hoãn,
trốn tránh để không tự nguyện thi hành, thì buộc cơ quan THADS phải tổ chức
CCTHA. CCTHA thể hiện quyền năng của cơ quan THA, bảo đảm tính nghiêm

10



minh của pháp luật, nhằm đảm bảo bản án, quyết định được thi hành nghiêm chỉnh,
đúng pháp luật.
Cưỡng chế NN là dùng quyền lực NN bắt buộc cá nhân, tổ chức thực hiện
hoặc không thực hiên một công việc nhất định trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế
gắn liền với hoạt động quản lý NN và là phương pháp thường xuyên được áp dụng
trong quản lý NN. Cưỡng chế NN có nhiều lĩnh vực như: Cưỡng chế hành chính,
hình sự, dân sự, THADS ... Tuy LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)
không định nghĩa cưỡng chế trong THADS nhưng tại khoản 2 Điều 9 lại quy định:
“người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này”[58]. Theo đó, người phải
THA sẽ phải tự nguyện THA khi có điều kiện, nếu không thực hiện thì người có
thẩm quyền THA tiến hành cưỡng chế. Theo pháp luật hiện hành thì người có thẩm
quyền trực tiếp THA và áp dụng BPCC bao gồm CHV và TPL (sau đây gọi chung
là người có thẩm quyền THA).
Nói tóm lại:“Biện pháp cưỡng chế là biện pháp THADS dùng quyền lực NN
cưỡng bức bắt buộc của cơ quan THA do CHV quyết định theo thẩm quyền nhằm
buộc người phải THA phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo
bản án, quyết định của tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải THA có
điều kiện THA mà không tự nguyện THA trong thời hạn do CHV ấn định hoặc
trường hợp cần ngăn chặn người phải THA tẩu tán, hủy hoại tài sản.”
1.1.2. Đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự
1.1.2.1. Cưỡng chế thi hành án là quyền năng đặc biệt của Nhà nước
Chỉ có cơ quan chức năng của NN, người có thẩm quyền được NN giao mới
được phép áp dụng các BPCCTHA và việc áp dụng BPCC phải theo quy định của
pháp luật, ví dụ: Theo quy định của BLTTHS Việt Nam thì cơ quan công an, tổ
chức trong quân đội mới có quyền THA phạt tù; Còn theo quy định của LTHADS
năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì chỉ có CHV mới được quyền ra quyết
định áp dụng BPCCTHADS...

1.1.2.2. Cưỡng chế là một nguyên tắc cơ bản trong thi hành án dân sự

11


Quá trình tổ chức THA tuân theo nguyên tắc kết hợp giữa tinh thần tự
nguyện của người phải THA và sự cưỡng chế của cơ quan THA mà người thực hiện
là CHV. Tuy nhiên, cưỡng chế không phải là phương pháp bắt buộc duy nhất trong
quá trình tổ chức THA. Pháp luật THADS khuyến khích và tạo các điều kiện cho
người phải THA tự nguyện THA, tránh việc phải áp dụng BPCC. Người phải THA
trong điều kiện nhất định có khả năng lựa chọn phương thức thi hành nghĩa vụ.
Theo LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định: NN khuyến khích
các đương sự tự nguyện THA và ấn định cho người phải THA có thời gian tự
nguyện THA là 10 ngày, kể từ ngày người phải THA nhận được quyết định THA
hoặc được thông báo hợp lệ quyết định THA. Nếu hết thời gian tự nguyện mà
đương sự không thực hiện nghĩa vụ của mình thì CHV có thể áp dụng BPCCTHA.
1.1.2.3. Đối tượng cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc hành vi của
người phải thi hành án
THADS không nhằm mục đích trừng trị bản thân người phải THA, mà nhằm
khôi phục những quyền, lợi ích về tài sản và các quyền dân sự khác đã bị tổn hại.
Người phải THA phải thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hoặc hành vi dân sự của bản
thân họ. Vì vậy, việc CCTHA phải áp dụng đối với người phải THA trên cơ sở các
đối tượng này sau khi động viên mà tự nguyện THA.
1.1.2.4. Người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí về cưỡng chế
Các hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình ... mang tính cưỡng chế
tuyệt đối, người bị kết án không có khả năng lựa chọn cách thức chấp hành hình
phạt. Do vậy NN phải thiết lập hệ thống trại giam và các trang thiết bị khác, phạm
nhân ngoài nghĩa vụ lao động học tập, cải tạo thì được hưởng các chế độ vật chất do
PL quy định. Tuy nhiên, trong THADS xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt
của đương sự, người phải THA có thể lựa chọn phương thức thi hành nghĩa vụ: tự

nguyện hoặc bị cưỡng chế. Khi bị áp dụng BPCC thì ngoài khả năng bị tước đoạt
một số tài sản để thi hành nghĩa vụ, người phải THA còn phải chịu mọi chi phí cho
việc tổ chức cưỡng chế. Tuy nhiên, pháp luật về THADS cũng quy định quyền của
Thủ trưởng cơ quan THADS là có thể xét miễn, giảm chi phí CCTHA cho người

12


phải THA, đây là chính sách của NN đối với những người phải THA lâm vào hoàn
cảnh quá khó khăn.
1.1.2.5. Hiệu lực của quyết định cưỡng chế
Quyết định cưỡng chế không chỉ có giá trị bắt buộc đối với người phải THA,
mà tất cả những tổ chức, cá nhân có liên quan đều phải tôn trọng và thực hiện. Nói một
cách khác, ngoài bản thân người phải THA phải thực hiện quyết định cưỡng chế của
CHV, thì những tổ chức, cá nhân có liên quan đều phải thực hiện, ví dụ: Khi CHV ra
quyết định khấu trừ tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc
NN của người phải THA, thì theo quy định tại LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung
năm 2014): Ngân hàng, tổ chức tín dụng, hoặc Kho bạc nhà nước phải thực hiện quyết
định này [55, 58].
1.1.3. Các nguyên tắc của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
1.1.3.1. Chỉ người có thẩm quyền thi hành án mới có quyền áp dụng biện
pháp thi hành án dân sự
Theo PL hiện hành thì chỉ có cơ quan THADS và Văn phòng TPL mới được
NN trao cho quyền tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực PL của cơ
quan có thẩm quyền và chỉ người có thẩm quyền THA mới có quyền quyết định
BPCC. Ngoài ra các chủ thể khác, bằng sức mạnh của mình, bắt buộc người khác
phải THA đều trái pháp luật.
1.1.3.2. Chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự khi hết thời
gian tự nguyện thi hành trừ trường hợp áp dụng cưỡng chế ngay
Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của LTHADS năm 2008 (sửa đổi,

bổ sung năm 2014), người phải THA có điều kiện THA mà không tự nguyện THA
thì bị cưỡng chế. Tuy nhiên để đảm bảo công tác THA thật sự hiệu quả, với mục
đích ngăn chặn những hành vi tẩu tán tàn sản, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa
vụ THA của đương sự trong thời gian tự nguyện THA thì chủ thể có thẩm quyền
vẫn được áp dụng biện pháp bảo đảm, BPCCTHA được quy định tại chương IV
LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) [55, 58].

13


1.1.3.3. Không được cưỡng chế thi hành án trong thời gian mà pháp luật quy
định không được cưỡng chế thi hành án
Xuất phát từ mục đích nhân đạo đối với người phải THA, PL quy định không
tổ chức CCTHA trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày
nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt như 15 ngày
trước và sau tết nguyên đán, các ngày truyền thống của các đối tượng chính sách.
1.1.3.4. Chỉ được áp dụng 06 biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được
quy định theo pháp luật
Để tránh sự lạm quyền của các chủ thể trong việc cưỡng chế THA dân sự,
pháp luật quy định người có thẩm quyền THA chỉ có thể áp dụng trong 06
BPCCTHA quy định tại Điều 71 Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014). Việc áp dụng BPCCTHADS phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi
hành án và các chi phí cần thiết. Trường hợp người phải THA chỉ có một tài sản
duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải THA mà tài sản đó không thể phân
chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì người có
thẩm quyền THA vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, BPCC để THA.
1.1.3.5. Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải đảm bảo
và tôn trọng quyền con người, quyền công dân và tính nhân đạo
THADS là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền con người đã được Hiến
pháp quy định. Vì vậy, chỉ trong trường hợp cần thiết mới áp dụng các BPCCTHA,

còn lại cần tôn trọng sự tự nguyện và thỏa thuận của các bên tham gia vào quan hệ
pháp luật trong THADS; đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; khi
áp dụng BPCC, kê biên để THA, pháp luật chỉ cho phép kê biên những tài sản đủ để
THA và thanh toán chi phí về việc THA chứ không kê biên tất cả tài sản của người
phải THA. Đồng thời, khi kê biên tài sản, CHV không được kê biên những thứ cần
thiết tối thiểu cho cuộc sống và của gia đình người phải THA. Yêu cầu đặt ra đối
với Cán bộ, Chấp hành viên trong công tác tiếp dân, tiếp đương sự tham gia giải
quyết liên quan đến THADS cần có sự mẫu mực, công tâm khách quan, tôn trọng
đúng mức; cần có sự bảo vệ và tôn trọng tuyệt đối các quyền công dân, quyền con

14


người, các lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi người khi tham gia vào các công
việc liên quan đến hoạt động THADS.
1.1.4.Vai trò của cưỡng chế trong thi hành án dân sự
Các BPCCTHA là chế tài độc lập nhằm bảo đảm việc thi hành nghĩa vụ của
người phải THA. Một người không thực hiện nghĩa vụ THA ngoài khả năng bị
CCTHA còn có thể bị các cơ quan có thẩm quyền chế tài bằng nhiều biện pháp. Tuy
nhiên, việc CCTHADS không có tính chất trừng phạt, mà chỉ là cách thức để bảo vệ
quyền lợi cho người được THA. Các biện pháp CCTHADS là công cụ pháp lý hữu
hiệu nhất bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh, hiệu quả bản án, quyết định của Toà án.
Ngoài ra hiệu lực của quyết định cưỡng chế có tác dụng lớn trong việc răn đe, giáo
dục ý thức tự giác chấp hành PL của người phải THA, góp phần nâng cao ý thức PL
của nhân dân.
1.2. Nội dung của cưỡng chế trong thi hành án dân sự
1.2.1. Căn cứ cưỡng chế thi hành án
Điều 70 LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định 03 căn
cứ để CCTHA bao gồm:
a) Bản án, quyết định: Đây là những bản án, quyết định được thi hành theo

thủ tục THADS, gồm có: Bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản,
truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định
dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành
chính của Toà án. Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của
bên phải THA của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài
thương mại.
b) Quyết định thi hành án: Là quyết định do Thủ trưởng cơ quan THA ban
hành, đó có thể là quyết định THA được ban hành theo thủ tục chủ động ra quyết
định THA án hoặc quyết định THA được ban hành theo thủ tục THA theo đơn yêu
cầu.
c) Quyết định cưỡng chế thi hành án: Là quyết định do CHV ban hành.

15


Tuy nhiên, trong trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong toả
tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời của Toà án, thì không phải có quyết định CCTHA [55, 58].
1.2.2. Biện pháp cưỡng chế thi hành án
Các BPCCTHA theo Điều 71 LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014), gồm có sáu biện pháp cưỡng chế sau đây:
1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án.
2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ.
4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công
việc nhất định [62].

1.2.3. Kế hoạch cưỡng chế thi hành án
Điều 72 LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định: Kế
hoạch CCTHA bao gồm các nội dung chính sau đây: BPCC cần áp dụng; Thời gian,
địa điểm cưỡng chế; Phương án tiến hành cưỡng chế; Yêu cầu về lực lượng tham
gia và bảo vệ cưỡng chế; Dự trù chi phí cưỡng chế. Kế hoạch cưỡng chế phải được
gửi ngay cho VKSND, cơ quan Công an cùng cấp, UBND xã nơi tổ chức cưỡng chế
hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc CCTHA. Căn cứ vào kế hoạch cưỡng
chế của cơ quan THADS, cơ quan Công an có trách nhiệm lập kế hoạch bảo vệ
cưỡng chế, bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để giữ gìn trật tự, bảo vệ hiện
trường, kịp thời ngăn chặn, xử lý hành vi tẩu tán tài sản, hành vi cản trở, chống đối
việc THA, tạm giữ người chống đối, khởi tố vụ án hình sự khi có dấu hiệu phạm tội.
1.2.4. Chi phí cưỡng chế thi hành án
Chi phí CCTHA được xác định là các khoản chi phí do người phải THA chịu
để tổ chức CCTHA, trừ trường hợp pháp luật quy định chi phí CCTHA do người

16


được THA hoặc do ngân sách NN chi trả. Đối tượng chịu chi phí CCTHA theo quy
định tại Điều 73 LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) như sau:
1. Người phải thi hành án chịu chi phí CCTHA sau đây:
a) Chi phí thông báo về CCTHA.
b) Chi phí mua nguyên liệu, nhiên liệu, thuê phương tiện, thiết bị bảo vệ, y
tế, phòng, chống cháy, nổ, các thiết bị, phương tiện cần thiết khác cho việc
CCTHA.
c) Chi phí cho việc định giá, giám định tài sản, bán đấu giá tài sản; chi phí
định giá lại tài sản, trừ trường hợp đó là chi phí xác minh theo yêu cẩu của người
được THA hoặc chi phí định giá lại tài sản nếu người được THA yêu cầu định giá
lại và trường hợp định giá lại do có vi phạm quy định về định giá.
d) Chi phí cho việc thuê, trông coi, bảo quản tài sản; chi phí bốc dỡ, vận

chuyển tài sản; chi phí thuê nhân công và khoản chi phục vụ cho việc xây ngăn, phá
dỡ; chi thuê đo đạc, xác định mốc giới để thực hiện việc CCTHA.
đ) Chi phí cho việc tạm giữ, thu giữ tài sản, giấy tờ.
e) Tiền bồi dưỡng cho những người trực tiếp tham gia cưỡng chế và bảo vệ
CCTHA.
2. Người được THA phải chịu chi phí CCTHA sau đây:
a) Chi phí định giá lại tài sản nếu người được THA yêu cầu định giá lại, trừ
trường hợp định giá lại do có vi phạm quy định về định giá.
b) Một phần hoặc toàn bộ chi phí xây ngăn, phá dỡ trong trường hợp bản án,
quyết định xác định người được THA phải chịu chi phí xây ngăn, phá dỡ.
3. Ngân sách NN trả chi phí CCTHA trong các trường hợp sau đây:
a) Định giá lại tài sản khi có vi phạm quy định về định giá.
b) Chi phí xác minh điều kiện THA;
c) Chi phí cần thiết khác theo quy định của Chính phủ;
d) Trường hợp đương sự được miễn, giảm chi phí CCTHA theo quy định của PL.

17


4. CHV dự trù chi phí cưỡng chế và thông báo cho người phải THA biết ít
nhất 03 ngày làm việc trước ngày cưỡng chế đã được ấn định, trừ trường hợp cần
thiết phải cưỡng chế ngay. Chi phí CCTHA được tạm ứng từ ngân sách NN.
5. Các khoản chi phí CCTHA được thanh toán theo mức chi thực tế, hợp lý
do Thủ trưởng cơ quan THADS duyệt theo đề xuất của CHV. Thủ trưởng cơ quan
THADS nơi tổ chức việc THA thực hiện xét miễn, giảm các khoản chi phí CCTHA.
6. Chi phí CCTHA do đương sự nộp hoặc được khấu trừ vào tiền thu được,
tiền bán đấu giá tài sản kê biên, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ. Sau khi xử
lý tài sản hoặc thu được tiền, CHV phải làm thủ tục hoàn trả ngay các khoản tiền đã
tạm ứng trước đó [55, 58].
1.2.5. Cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung

- Trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải
THA với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, CHV phải thông báo cho chủ sở hữu
chung biết việc cưỡng chế. Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án
xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được
THA hoặc CHV có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải
THA trong khối tài sản chung để bảo đảm THA. Nếu là tài sản thuộc quyền sở hữu
chung của vợ, chồng thì CHV xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định
của PL về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ
hoặc chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án phân chia tài sản
chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được CHV xác định. Hết thời
hạn trên, đương sự không khởi kiện thì CHV tiến hành xử lý tài sản và thanh toán
lại cho vợ hoặc chồng của người phải THA giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu
của họ.
- Khi tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của
các chủ sở hữu chung được xử lý như sau: Đối với tài sản chung có thể chia được
thì CHV áp dụng BPCC phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải
THA; khi tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm

18


đáng kể giá trị của tài sản thì CHV có thể áp dụng BPCC đối với toàn bộ tài sản và
thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu
của họ.
- Khi bán tài sản chung, chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua tài sản.
1.2.6. Xử lý đối với tài sản khi cưỡng chế có tranh chấp
Khi cưỡng chế đối với tài sản của người phải THA mà có tranh chấp với
người khác thì CHV vẫn tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh
chấp khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. CHV xử

lý tài sản đã kê biên theo quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm quyền. Trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày CHV yêu cầu mà đương sự, người có tranh chấp không
khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì tài sản được
xử lý để THA.
1.3. Cơ sở pháp luật về cưỡng chế trong thi hành án dân sự
1.3.1. Cơ sở lý luận
Việc pháp luật THADS quy định về BPCCTHADS xuất phát từ những cơ sở
lý luận sau đây:
Thứ nhất, từ yêu cầu của việc áp dụng kết hợp giữa biện pháp tự nguyện
THADS và biện pháp bảo đảm THADS.
Thứ hai, từ yêu cầu của việc đa dạng hóa biện pháp tổ chức THADS và sự
khác nhau giữa biện pháp tự nguyện THADS và biện pháp bảo đảm THADS.
1.3.2. Cơ sở thực tiễn
Qua thực tiễn công tác THADS, chúng ta thấy khi người phải THA không tự
nguyện THA thì sẽ bị CHV áp dụng biện pháp đảm bảo THADS với một số biện
pháp như phong tỏa tài sản; tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự và tạm dừng việc
đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản. Nhưng hai biện pháp kể trên
cũng chỉ là biện pháp để người phải THA có thời gian để tự nguyện THA mà thôi.
Khi hết thời gian áp dụng biện pháp đảm bảo THA nếu không có biện pháp cứng
rắn hơn thì nguy cơ người phải THA sẽ thực hiện việc tẩu tán, chuyển dịch, thay đổi
hiện trạng về tài sản để nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ THA. Do vậy đòi hỏi cơ

19


quan pháp luật phải có biện pháp cứng rắn hay còn gọi là BPCC trong THADS là
rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng, vừa góp phần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của các đương sự, vừa góp phần giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của người phải
THA và đảm bảo được tính nghiêm minh của PL trong công tác THADS.Và theo
quy định của pháp luật THADS Việt Nam hiện hành có những BPCC trong

THADS, cụ thể như sau:
1.3.3. Các biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự theo pháp luật
Việt Nam hiện hành
1.3.3.1. Cưỡng chế thi hành đối với tài sản là tiền
Khấu trừ tiền trong tài khoản
CHV ra quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải THA, số tiền
khấu trừ không được vượt quá nghĩa vụ THA và chi phí cưỡng chế. Ngay sau khi
nhận được quyết định về khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải THA, cơ
quan, tổ chức đang quản lý tài khoản phải khấu trừ tiền để chuyển vào tài khoản của
cơ quan THADS hoặc chuyển cho người được THA theo quyết định khấu trừ.
Việc phong toả tài khoản được chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
a) Người phải thi hành án đã thi hành xong nghĩa vụ THA.
b) Cơ quan, tổ chức đã thực hiện xong yêu cầu của CHV về khấu trừ tiền
trong tài khoản của người phải THA.
c) Có quyết định đình chỉ THA theo quy định tại Điều 50 của LTHADS năm
2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). CHV ra quyết định chấm dứt việc phong toả tài
khoản ngay sau khi có căn cứ nêu trên [55, 58].
Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án
Thu nhập của người phải THA gồm tiền lương, tiền công, tiền lương hưu,
tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập hợp pháp khác. Việc trừ vào thu nhập của
người phải THA được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
a) Theo thỏa thuận của đương sự;
b) Bản án, quyết định ấn định trừ vào thu nhập của người phải THA;

20


×