Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tieu luan mon cong tac DAn van

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.81 KB, 14 trang )

A. MỞ ĐẦU

Công tác dân vận là một lĩnh vực rộng lớn, cơ bản, quan trọng trong quan
điểm, đường lối cách mạng của Đảng ta, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội và trong hầu hết các văn kiện của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước. Trong phạm vi của chuyên đề này, chủ yếu trình bày một số vấn đề cơ bản
về công tác dân vận của Đảng và một số nhiệm vụ chủ yếu của công tác dân vận
trong giai đoạn hiện nay.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Nhân dân là người sáng tạo ra mọi của
cải vật chất và những giá trị tinh thần, nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Lênin đã chỉ rõ: “Không một phong trào cách mạng nào mà lại vững
chắc được, nếu không có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm
những người lãnh đạo”. Đảng cộng sản cầm quyền lãnh đạo toàn xã hội không chỉ
bằng cương lĩnh chính trị, đường lối chiến lược, sách lược, mà còn phải thông qua
vai trò tổ chức hoạt động của bộ máy chính quyền nhà nước và các đoàn thể quần
chúng. Mỗi đảng viên không những phải luôn thực hiện tốt công tác vận động quần
chúng nhân dân để tạo nên sức mạnh vô địch cho đảng, mà còn phải thường xuyên
học tập, rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, đạo đức cách
mạng, nhằm hướng đích xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa,
phát triển những tinh hoa của triết học phương Tây, triết học phương Đông cũng
như những tư tưởng tiến bộ của ông cha ta về nhân dân, đưa ra những quan điểm
về nhân dân rất độc đáo gồm mấy điểm chính sau đây:
- Muốn giành thắng lợi, Đảng phải dựa vào dân, tôn trọng dân, quý dân.
Bác viết: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có
gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân”. Người luôn căn dặn cán bộ đảng
viên phải tin tưởng nhân dân, phải biết dựa vào nhân dân vì “dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. “Nước phải lấy dân làm gốc…
Gốc có vững thì cây mới bền… Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân
chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”.
- Đảng phải tổ chức quần chúng để biến hành động của họ từ tự phát


thành tự giác. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Bác Hồ chỉ ra rằng: “Trước
hết phải có Đảng cách mạng” và công việc của Đảng là “Trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi
nơi”. Đánh giá nguyên nhân thành công của Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết
“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải sự nghiệp của cá nhân
anh hùng nào. Thành công của Đảng là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực
lượng cách mạng vô tận của nhân dân”.

1


- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thế nào là Dân vận. Ngay sau khi giành
được chính quyền, ngày 15/10/1949, Bác Hồ đã viết bài báo “Dân vận” đăng trên
báo Sự thật. Bác đã chỉ rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác dân vận, giải thích dân
vận là gì, ai có trách nhiệm làm dân vận và phương pháp làm dân vận như thế nào.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một
người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực
hành những công việc nên làm, những công việc của Chính phủ, đoàn thể giao cho”.
Từ định nghĩa trên ta thấy: Đối tượng công tác dân vận là nhân dân. Mục tiêu công
tác dân vận là mục tiêu chung của cách mạng. Lực lượng làm công tác dân vận phải
là “Tất cả cán bộ chính quyền, cán bộ đoàn thể và tất cả các hội viên của các đoàn
thể đều phải phụ trách dân vận”. Điều này càng làm rõ hơn luận điểm: Công tác dân
vận không chỉ của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân mà chính quyền, cán bộ chính
quyền cũng phải làm công tác dân vận. Từ đó đến nay, công tác dân vận đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn, song đối chiếu với lời dạy của Bác Hồ thì công tác dân vận
của chúng ta cũng còn nhiều thiếu sót, nhiều lúc, nhiều nơi chưa cụ thể hoá, vận
động đến từng người dân. Đây cũng chính là lý do mà cần phải “Tăng cường và đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Dân vận trong tình hình mới”. Qua
những kiến thức được học đối với môn “Công tác Dân vận của Đảng trong giai đoạn
hiện nay”, em xin chọn nội dung “Những vấn đề lý luận, thực tiễn và giải pháp

thực hiện công tác Dân vận trong tình hình mới” để làm đề tài tiểu luận, rất mong
được sự các Thầy, Cô cảm thông và góp ý nếu phần trình bày của em còn hạn chế để
em hoàn thiện them về kiến thức của mình.

2


B. NỘI DUNG

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN

1.1. Khái niệm về dân vận
Theo Hồ Chủ tịch, “dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân,
không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân để thực hành những
công việc nên làm, những công việc mà đoàn thể và Chính phủ đã giao cho” (bài
báo “Dân vận” của Người đăng trên Báo Sự Thật với bút danh X.Y.Z (ngày 15-101949).
1.2. Khái niệm về công tác dân vận
Cũng theo Hồ Chí Minh, “công tác dân vận” là công việc của toàn bộ hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành tập hợp vận động, đoàn kết
nhân dân, đưa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc
sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận xã hội, thực hiện thắng lợi đường lối cách
mạng của Đảng.
1.3. Vai trò của công tác dân vận
Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan
trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành
công”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng vai trò, vị trí và
khẳng định tầm quan trọng của công tác dân vận. Quan điểm của Đảng về công tác
dân vận được thể hiện xuyên suốt và thống nhất từ Cương lĩnh chính trị, văn kiện

đại hội, các nghị quyết chuyên đề của Trung ương, quy chế, quy định… cùng sự
vận dụng phù hợp theo từng thời kỳ cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của công tác dân vận. Người
nêu một mệnh đề như là một chân lý: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất
quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành
công”. Người còn nói: “Khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử
ra một ban hoặc vài người, mà thường cử cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì
tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom giúp đỡ, tự
cho mình không có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại”.
“Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu,
truyền đơn, chỉ thị mà đủ”. Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một
người dân hiểu rằng: “Việc đó là lợi ích cho họ, là nhiệm vụ của họ, họ phải hăng
hái làm cho kỳ được”. Điểm thứ hai là, “bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân,
cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên
tổ chức toàn dân ra thi hành”. Điểm thứ ba là, trong lúc thi hành phải theo dõi,
3


giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Điểm thứ tư là, khi thi hành xong phải cùng
với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm phê bình khen thưởng”. Quy trình
và phương thức dân vận nêu trên chính là tiền đề của phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà Đảng ta khái quát sau này.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong cách của người làm dân vận là phải: “Óc
nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Bác chỉ rõ 3 việc: tuyên
truyền cho dân, gương mẫu trước dân, quan tâm và giải quyết lợi ích của dân.
Tư tưởng của Bác còn được nhấn mạnh: Phải gần gũi quần chúng, kiên trì giải
thích cho quần chúng hiểu rõ chủ trương chính sách. Người còn chỉ rõ: “Muốn
thực sự gần gũi quần chúng thì phải cùng ăn cùng ở cùng làm mới biết sinh hoạt
của quần chúng thế nào”. Cán bộ đảng viên phải tự mình làm gương cho quần
chúng: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên

truyền”. “Cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện tuyên truyền, khẩu hiệu viết
báo... của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: Từ quần chúng mà ra, về
sâu quần chúng”. Cách tổ chức và làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta
phải có gan đề nghị với cấp trên bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng,
quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta phải đề nghị cấp trên mà đặt ra. Nếu cần thì
cứ đặt ra, rồi báo cáo sau miễn là được việc”.
Trong giai đoạn hiện nay, các quan điểm đó được thể hiện tập trung, đầy đủ
nhất ở Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03-6-2013 Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ bảy (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác dân vận trong tình hình mới”. Nghị quyết khẳng định quan điểm: (1)
cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân là chủ.
(2) Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi
ích thiết thực của nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với
nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân
phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, nhưng
gì có hại cho dân thì hết sức tránh. (3) Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của
Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin
tưởng, noi theo. (4) Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân
dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ
chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt. (5) Nhà nước tiếp
tục thể chế hóa có chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thành
quy chế, quy định để các tổ chức trong hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang thực hiện công tác dân vận;
các hình thức tập hợp nhân dân phải phong phú, đa dạng, khoa học, hiệu quả.
1.4. Đối tượng của công tác dân vận
Từ khái niệm dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng,
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03-6-2013 đã chỉ rõ “đối tượng của công tác dân
vận là tất cả đảng viên, cán bộ, công chức, người lao động, đoàn viên, hội viên, lực

lượng vũ trang và nhân dân”.
4


1.5. Lực lượng làm công tác dân vận
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03-6-2013 Ban Chấp hành Trung ương (khóa
XI) đã xác định rõ “Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân
dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang”.
Như vậy, có thể thấy, lực lượng làm công tác dân vận là: đối với tập thể gồm
(1) các cấp ủy và tổ chức đảng, (2) lãnh đạo cơ quan, đơn vị, (3) các tổ chức đoàn
thể. Đối với cá nhân, lực lượng làm công tác dân vận là cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể chính trị - xã hội. Xác định rõ
chủ thể của công tác dân vận sẽ giúp các cấp ủy đảng và các tổ chức đoàn thể trong
các cơ quan, đơn vị nhận thức đầy đủ trách nhiệm cũng như vai trò trong việc tổ
chức thực hiện nhiệm vụ công tác dân vận.
1.6. Phương pháp công tác dân vận
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phương pháp công tác dân vận có ba việc quan
trọng để thực hiện, đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đó là: tuyên truyền cho dân,
gương mẫu trước dân và quan tâm giải quyết lợi ích của dân.
- Thứ nhất là tuyên truyền cho dân, tức là làm cho dân biết, dân hiểu, dân tin,
dân làm theo. Trong quan niệm của mình về dân vận, Hồ Chí Minh yêu cầu người
làm dân vận phải giải thích cho quần chúng nhân dân hiểu được việc đảng, đoàn
thể vận động họ làm là có lợi cho họ và là nhiệm vụ của họ, họ phải hăng say thực
hiện. Mục đích của những người cộng sản chân chính vận động nhân dân làm cách
mạng là nhằm mang lại lợi ích cho nhân dân. Song, để nhân dân có thể một lòng đi
theo Đảng, khi mà những lợi ích đối với họ không những chưa có ngay trước mắt
mà còn phải đương đầu với gian khổ, hy sinh thì cần phải tuyên truyền, giải thích
để nhân dân hiểu, thấy được lợi ích lâu dài của sự hy sinh, gian khổ khi làm cách
mạng mà dấn thân làm theo. Hiểu và thấy được lợi ích chính đáng mà họ được thụ

hưởng khi cách mạng thành công thì chắc chắn họ sẽ một lòng theo Đảng, xả thân
vì sự nghiệp của họ, do họ và vì họ. Thực tế cách mạng nước ta hơn 80 năm dưới
ngọn cờ của Đảng đã minh chứng, một khi đường lối đúng, dân vận khéo, cán bộ
tận tụy, trong sáng, vì dân vì nước nêu gương thì nhân dân một lòng một dạ theo
Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng.
- Thứ hai là gương mẫu trước dân, vì theo Người “một tấm gương sống còn
có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”. Khi nói về Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là của giai cấp công
nhân, vừa là của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vận động được dân,
nhân dân, cả dân tộc, Đảng phải: vừa là đạo đức, vừa là văn minh; Đảng Cộng sản
phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại; Đảng phải
thực sự đoàn kết nhất trí; được nhân dân thừa nhận.
Muốn dân vận có kết quả tốt, bên cạnh nội dung và phương pháp tuyên
truyền, vận động thì đòi hỏi đạo đức, năng lực của mỗi đảng viên, cán bộ. Cán bộ,
đảng viên phải làm gương trong sáng, không vun vén cho riêng mình, coi lợi ích
cho dân là lợi ích cho mình, sống được dân yêu thương, quý trọng; phải xứng đáng
tiên phong trong mọi công việc, giải quyết tốt những vấn đề thuộc về trách nhiệm
5


của người cán bộ, đảng viên. Nhân dân trọng đức, nể tài đảng viên, cán bộ là
nguyên nhân căn bản làm nên thành công của công tác dân vận.
- Thứ ba là quan tâm và giải quyết lợi ích của dân. Công tác dân vận phải gắn
liền với việc quan tâm và giải quyết lợi ích của nhân dân “việc gì có lợi cho dân
phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Dân chủ, đoàn kết là tư tưởng xuyên suốt trong công tác dân vận. Người
nói: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”; “Thực hành dân chủ là chìa khóa
vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”.
Về đoàn kết, Người nói: “Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức
để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5,7 người giết 2,3

anh vua, 9, 10 anh quan mà được”. Người kêu gọi:“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Tư tưởng đoàn kết của người thể hiện rất rõ ràng: Đoàn kết góp thành lực
lượng. Đoàn kết trong tổ chức trong phong trào cách mạng của quần chúng, ngay
trong khi thực hiện một khẩu hiệu cách mạng. Muốn vận động nhân dân, thì điều
cơ bản đầu tiên là phải dân chủ.
CHƯƠNG II
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN

2.1. Quan điểm của Đảng về công tác dân vận
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã đặc biệt coi trọng công tác dân vận và
khẳng định: Sức mạnh của cách mạng ở nơi dân. Đảng ta phải dựa vào dân để làm
cách mạng. Đây là điều cốt yếu hằng ngày của Đảng và công tác dân vận của Đảng
ta được xác định là một nhiệm vụ trung tâm hàng đầu của toàn Đảng. Bác Hồ đã
dạy: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân
chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”.
Xây dựng Đảng không chỉ là công việc của Đảng mà còn là công việc của
nhân dân. Nhân dân luôn góp ý, nêu sáng kiến tham gia xây dựng đường lối của
Đảng và chính nhân dân là lực lượng thực hiện hăng hái, có hiệu quả đường lối đó;
nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên, công chức và các tổ chức đảng, chính quyền
các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách và pháp luật; nhân dân góp
phần phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch
sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính
đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân.
6



Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối
với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Công tác
dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
Đảng và dân tộc”. Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW (khóa VI) ngày 7/3/1990 đã
nêu ra 4 quan điểm cơ bản về công tác Dân vận là:
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân cần được
quán triệt sâu sắc hơn nữa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Động lực thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng là đáp ứng lợi
ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa giữa các lợi ích, thống nhất giữa
nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
Công tác dân vận là trách nhiệm của Đảng, đoàn thể nhân dân, của mọi cán bộ
đảng viên, cán bộ chính quyền công chức, viên chức của nhà nước.
2.2. Quan điểm của Đảng về công tác Dân vận trong tình hình mới
Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) ngày 03/6/2013 quán triệt 5 quan điểm
sau: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân là
chủ, nhân dân làm chủ. Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền
làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền
lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân;
huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì
hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Phương thức lãnh đạo công
tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong
sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước
phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo.
Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ,
chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực
hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt. Nhà nước tiếp tục thể chế hóa
cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" thành quy chế, quy
định để các tổ chức trong hệ thống chính trị; cán bộ, đảng viên, công chức, viên

chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang thực hiện công tác dân vận; các hình
thức tập hợp nhân dân phải phong phú, đa dạng, khoa học, hiệu quả.
2.3. Vai trò của Ban Dân vận trong hoạt động của cấp ủy Đảng
Trong hệ thống các ban đảng, Ban Dân vận - cơ quan tham mưu của các cấp
ủy đảng về công tác quần chúng giữ vị trí quan trọng và có vai trò to lớn, tác động
đến hầu hết các lĩnh vực lãnh đạo của cấp ủy, đến các giai cấp, tầng lớp, các nhóm
dân cư… trong xã hội. Trong hoàn cảnh lịch sử hiện nay của đất nước, bằng hoạt
động thực tiễn của mình, Ban Dân vận các cấp tham mưu cho cấp ủy đề ra những
chủ trương, biện pháp thực hiện công tác quần chúng, xử lý kịp thời, chính xác
những vấn đề mới phát sinh ở các đối tượng quần chúng khác nhau.

7


Ban Dân vận là cơ quan tham mưu của cấp ủy về công tác quần chúng mà hệ
thống chính trị tiến hành, giúp cấp ủy thẩm định chủ trương khi ban hành; hướng
dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện các chủ trương về công tác dân vận. Đó là nhân tố
cực kỳ quan trọng tác động đến nhiều lĩnh vực hoạt động của Đảng và Nhà nước
các đoàn thể chính trị - xã hội… tạo nên uy tín của Đảng, đến sự gắn bó máu thịt
giữa Đảng với nhân dân. Với ý nghĩa đó, Ban Dân vận cũng là ban xây dựng đảng
và có vị trí không thể thiếu trong công tác xây dựng đảng.
Như vậy, Ban Dân vận do cấp ủy lập ra theo Điều lệ Đảng quy định, là một ban
xây dựng Đảng. Sự ra đời và tồn tại của nó là một tất yếu như sự ra đời, tồn tại và
phát triển của Đảng. Với hoạt động có chất lượng và hiệu quả của mình, Ban Dân
vận trực tiếp và gián tiếp nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy, chuyển tải chủ
trương của Đảng tới quần chúng, xây dựng niềm tin của quần chúng nhân dân với
Đảng, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với dân.
CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN CỦA CÔNG
TÁC DÂN VẬN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

3.1. Thực trạng công tác dân vận của Đảng bộ quận Thủ Đức hiện nay
3.1.1. Mặt đạt được:
- Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với
công tác vận động nhân dân được đổi mới, đã có nhiều chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên địa bàn Quận.
- Hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội được kiện
toàn, củng cố, đổi mới phương thức hoạt động, giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ cơ sở. Có nhiều hình thức hoạt
động, vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhân dân và công tác
vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của đoàn viên, hội viên được chăm lo, bảo vệ. Công tác tập hợp, phát triển đoàn
viên, hội viên được chú trọng, công tác giáo dục thế hệ trẻ được quan tâm.
- Công tác dân vận của các cấp ủy đảng và chính quyền đã góp phần tạo sự
đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác dân vận hiện nay còn tồn tại
những hạn chế sau:
8


- Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận lần thứ V, nhiệm kỳ 2015 - 2020
đã chỉ rõ những khuyết điểm, hạn chế trong công tác dân vận của Đảng bộ Quận
thời gian qua, đó là “Nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và
một bộ phận đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động về vai trò,
vị trí công tác dân vận còn hạn chế. Công tác dân vận trong toàn Đảng bộ, nhất là
dân vận trong các cơ quan nhà nước còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Việc thực

hiện dân chủ ở cơ sở chưa được đề cao; thực hiện cải cách hành chính trong nội bộ
tổ chức đảng và nhiều cơ quan còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu”.
- Trách nhiệm nêu gương của đảng viên, cán bộ trong công tác vận động cán
bộ, đảng viên và quần chúng cũng còn hạn chế. Chưa có nhiều tấm gương, điển
hình tiên tiến được tôn vinh và nhân rộng. Một số cấp ủy, lãnh đạo cơ quan chưa
nhận thức đầy đủ mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tổ chức các hoạt
động thi đua nên chưa lãnh đạo, chỉ đạo một cách tích cực, hiệu quả. Công tác cán
bộ còn nhiều khó khăn và hạn chế. Tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ của cả hệ thống
dân vận chưa được xác định rõ, do đó việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
một cách bài bản kiến thức lý luận, thực tiễn cũng như bằng cấp, chứng chỉ cho cán
bộ dân vận còn hạn chế. Cán bộ làm công tác dân vận nhưng ít được đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ tham mưu, năng lực công tác dân vận.
- Một số cấp ủy, cơ quan, tổ chức đoàn thể còn lúng túng trong việc xây dựng
nội dung và phương thức tiến hành công tác dân vận phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ và đối tượng của mình.
- Việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về
công tác dân vận chưa kịp thời, kém hiệu quả.
- Chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến thay đổi cơ cấu xã hội,
thành phần dân cư, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân... để có chủ
trương, chính sách phù hợp.
- Việc thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác dân vận chưa
kịp thời, nhất là cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
- Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng về công tác dân vận chưa được quan tâm đúng mức.
- Một số chính sách chưa kịp thời đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân,
còn tồn tại một vài bức xúc của nhân dân chưa được giải quyết kịp thời, còn tình
trạng khiếu nại tập thể (bức xúc chủ yếu rơi vào công tác bồi thường giải tỏa mặt
bằng, quy hoạch dự án còn chậm thực hiện,…) – dẫn đến tình trạng làm giảm lòng
tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước trong một thời gian nhất định ở một vài nơi.
3.2. Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cơ bản của công tác Dân vận trong giai

đoạn hiện nay
9


3.2.1. Mục tiêu
Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong
tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng; tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân
dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong
trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2.2. Nhiệm vụ, giải pháp
Một là, Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ,
tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của nhân dân,
làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối quan hệ
máu thịt của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Không ngừng nâng cao chất lượng các
tổ chức cơ sở Đảng, hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ
sở. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải hiểu dân, gương mẫu, tận tụy với
công việc, nói đi đôi với làm để nhân dân tin tưởng, noi theo. Quan tâm quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tập trung giải quyết những bức xúc, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân như đời sống, việc làm, đền bù đất đai...
Chủ động tham mưu cấp ủy Đảng thường xuyên quán triệt, nâng cao nhận
thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của
công tác dân vận trong tình hình mới; làm cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
nắm vững các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ công tác dân vận. Nêu cao tinh thần
gương mẫu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, gắn với
nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đổi mới, tăng cường tuyên truyền, cổ vũ, động viên các nhân tố mới, điển
hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực, phát huy chủ nghĩa yêu

nước, tinh thần sáng tạo, tự lực, tự cường, tạo ra phong trào hành động cách mạng
của toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và phát triển địa phương. Đấu
tranh có hiệu quả các luận điệu xuyên tạc, chống đối, kích động quần chúng của
các thế lực thù địch.
Kiên quyết, kiên trì thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây
dựng Đảng, làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh, thực hiện nghiêm nguyên tắc
tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, ngăn chặn, đẩy
lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đao đức, lối sống. Thực hiện tốt quy
chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội, quy định để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân
tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Hai là, Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí công tác
dân vận trong tình hình mới. Đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo
dục, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững, nhất trí với mục tiêu, quan
điểm, nhiệm vụ công tác dân vận. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm tốt công tác dân tộc, tôn giáo.
10


Tăng cường công tác dân vận của các cấp chính quyền, các cơ quan nhà nước,
làm tốt công tác dân vận theo đúng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Tất cả
cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân
dân đều phải phụ trách dân vận”. Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải có trách nhiệm
nâng cao, sự hiểu biết về công tác vận động nhân dân, đặc biệt là những ngành,
những đơn vị có quan hệ trực tiếp với dân. Thực hiện tốt việc công khai các quy
định, các tiêu chuẩn cụ thể về trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân để nhân
dân biết và kiểm tra việc thực hiện. Tổ chức tốt việc tiếp dân và giải quyết kịp thời
những đơn thư khiếu nại, tố cáo của dân; cán bộ, đảng viên cơ quan chính quyền
các cấp, nhất là người đứng đầu thực hiện đối thoại với nhân dân, lắng nghe tâm
tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Quan tâm xây dựng nguồn quy hoạch, tuyển chọn, bồi dưỡng và sử dụng cán
bộ vừa có trình độ, năng lực, vừa có kinh nghiệm, kỹ năng vận động quần chúng,
gương mẫu, có uy tín để giới thiệu, bố trí công tác ở Mặt trận tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội các cấp.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, không ngừng nâng cao
nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là trách nhiệm của người
đứng đầu, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền về công tác vận
động quần chúng của Đảng trong tình hình mới.
Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân; trách nhiệm của
đoàn viên, hội viên, trách nhiệm của người có uy tín trong công tác vận động quần
chúng của Đảng. Tăng cường phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống
chính trị và các lực lượng trên địa bàn về công tác vận động quần chúng. Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; nâng cao
trách nhiệm của nhân dân trong giám sát, góp ý cho cán bộ, công chức, viên chức
và tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch,
vững mạnh.
Ba là, Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước.
Nhà nước phải thể chế hóa các quan điểm, chủ trương mới của Đảng về dân vận
thành các văn bản pháp luật. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đổi mới lề lối
làm việc, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức. Tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân và giải quyết kịp thời
đơn thư khiếu tố của dân. Chú trọng bảo đảm chính sách an sinh xã hội.
Bốn là, Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, góp phần thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế, giữ vững độc lập chủ quyền, an
ninh chính trị. Đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với việc “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và các phong trào do Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội phát động. Các phong trào thi đua cần thiết
thực, tiết kiệm, tránh hình thức, sáo rỗng, lấy hiệu quả chính trị, kinh tế - xã hội làm
thước đo đánh giá từng phong trào thi đua. Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra,
sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời.

Thực hiện rộng rãi và có hiệu quả các chủ trương, chính sách về đại đoàn kết
toàn dân tộc, về công tác dân tộc, công tác tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài.
11


Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân cho sự nghiệp đổi mới đất nước; tăng
cường mối quan hệ máu thịt, gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân. Tranh thủ
sự đồng tình và ủng hộ của tổ chức và bạn bè quốc tế, góp phần tạo sự đồng thuận
và sức mạnh mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Năm là, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối
với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể chính trị - xã hội làm tham mưu và nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội,
phát huy dân chủ, tăng thêm tính tự chủ, chủ động hơn trong hoạt động để gần dân,
sát dân hơn. Nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức đoàn thể, đoàn viên, hội
viên; phát hiện, lựa chọn những đoàn viên, hội viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để giới
thiệu kết nạp vào Đảng, giới thiệu quy hoạch, đào tạo cán bộ. Tiếp tục nâng cao
năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành các cơ quan nhà nước; ban hành các chính
sách hợp lòng dân; khuyến khích nhân dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, khai thác
tiềm năng, trí tuệ và các lợi thế trong dân, mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân.
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn tể
chính trị - xã hội, các hội quần chúng để tập hợp nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới. Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể tiếp tục đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, thực hiện tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi
chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; đa dạng hóa các hình thức tập hợp
nhân dân, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở, phù hợp với trình độ dân trí và đặc
điểm, tình hình thực tế tại địa phương trong từng giai đoạn cách mạng.
Tiếp tục việc cải cách thủ tục hành chính phục vụ nhân dân và doanh nghiệp.
Tăng cường tiếp xúc, đối thoại, tháo gỡ khó khăn cho nhân dân; hỗ trợ vốn… để
nhân dân phát triển sản xuất, kinh doanh, ổn định cuộc sống. Giải quyết hài hòa

chính sách đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là trong đề bù, thu hồi đất, giải
phóng mặt bằng; thục hiện chính sách công bằng, bảo đảm lợi ích cho các tầng lớp
nhân dân khi tham gia các chương trình kinh tế, xã hội của đất nước.
Nâng cao vai trò, ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức, trách nhiệm
người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác dân vận. Phối hợp tổ chức tập huấn,
bồi dưỡng cán bộ; đổi mới phong cách dân vận của cán bộ, công chức, thực hiện
tốt quy tắc ứng xử, quy tắc giao tiếp hành chính và thực hiện tốt trách nhiệm công
vụ trong việc giải quyết các việc liên quan đến nhân dân.
Nâng cao vai trò, ý thức trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tiếp
dân, giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; xử lý nghiêm minh
những cán bộ, công chức, viên chức vi phạm pháp luật, góp phần củng cố, nâng
cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng trong thời kỳ mới.
Sáu là, Quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ Ban
Dân vận, Mặt trận, đoàn thể nhân dân các cấp vững mạnh. Có cơ chế, chính sách
thu hút người có năng lực, có uy tín, có kinh nghiệm làm công tác dân vận; chú trọng
luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận,
nhất là cán bộ trẻ tuổi có năng lực; khắc phục tình trạng đưa cán bộ phẩm chất, năng
lực yếu kém và không có uy tín về công tác dân vận. Kiện toàn tổ chức, bộ máy và
12


cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu về
trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và kỹ năng công tác vận động nhân dân.
Bảy là, Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thực hiện
công tác dân vận. Các cấp ủy Đảng lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân phối hợp chặt chẽ trong giải quyết các công việc liên quan đến
nhân dân và vận động nhân dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân. Có kế
hoạch thường xuyên tìm hiểu tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân
để có chủ trương, biện pháp xử lý đúng đắn, kịp thời. Thường xuyên phối hợp, kiểm
tra, giám sát chặt chẽ quá trình triển khai, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương

của Đảng về công tác dân vận.
Tám là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thực hiện
công tác dân vận. Thường xuyên phối hợp, kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình
triển khai thực hiện; đồng thời theo dõi, kiểm tra việc thể chế hóa các quan điểm,
chủ trương của Đảng về công tác dân vận. Xác định công tác vận động và chăm lo
lợi ích của nhân dân là một trong những nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình.

KẾT LUẬN


Dù bất cứ giai đoạn nào, gắn với quá trình cách mạng của Việt Nam công tác
dân vận luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Để góp phần nâng cao nhận thức lý
luận về công tác dân vận, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận nói
chung và những quan điểm của Người trong tác phẩm “Dân vận” nói riêng có ý
nghĩa to lớn cả về tầm lý luận và thực tiễn. Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh, tác
phẩm Dân vận của Hồ Chí Minh có sức sống mãnh liệt, ngày càng ăn sâu, bén rễ
13


vào cuộc sống và lấy đó làm kim chỉ nam cho công tác dân vận:“Dân vận kém thì
việc gì cũng kém; dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Chính vì thế, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định
“Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự
nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của
Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân”.
Trong những năm qua, Đảng bộ quận Thủ Đức đã chú trọng lãnh đạo về
công tác dân vận có trọng tâm, trọng điểm. Các cơ quan tham mưu của Đảng về
dân vận, các tổ chức chính trị - xã hội, các cấp ủy Đảng xây dựng chương trình, kế
hoạch triển khai và bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm nâng cao nhận thức cho

cán bộ, đảng viên, về vai trò, vị trí và trách nhiệm của hệ thống chính trị đối với
công tác dân vận; các cấp chính quyền tổ chức thực hiện tốt sự chỉ đạo của cấp ủy
về công tác dân vận, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đối thoại trực tiếp, kịp
thời giải quyết nhu cầu nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội không ngừng đổi mới phương thức hoạt động theo
hướng thiết thực, gần dân; tích cực vận động đoàn viên, hội viên, quần chúng thực
hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước, địa phương; tăng cường công tác nắm
tình hình, kịp thời tham mưu, phối hợp giải quyết những kiến nghị của nhân dân,
thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội.
Sự nỗ lực thực hiện công tác dân vận của hệ thống chính trị trong toàn hệ
thống chính trị đã góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc
phòng- an ninh, trật tự an toàn xã hội; củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân; tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn
Quận. Đồng thời, trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, để làm tốt công tác
dân vận, mỗi cán bộ, đảng viên, viên chức trong hệ thống chính trị cần thấm nhuần
và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân vận kém thì việc gì cũng
kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.


14



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×