Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận môn hành chính học thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác cải cách thủ tục hành chính ở xã tân ninh, huyện triệu sơn, tỉnh thanh hóa trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.83 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Công tác cải cách hành chính trong những năm qua đã được Nhà nước ta
quan tâm, nhận thức rõ thực trạng thủ tục hành chính và nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 30/QĐ-TTg,
ngày 10 tháng 01 năm 2007 phê duyệt Đề án Đơn giản hóa thủ tục hành chính trên
các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007- 2010 và Quyết định số 07/QĐ-TTg
phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án này nhằm tạo bước chuyển căn bản trong cải
cách thủ tục hành chính, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, đơn giản, công khai,
minh bạch của thủ tục hành chính; tạo môi trường thuận lợi cho cá nhân, tổ chức
và doanh nghiệp trong tiếp cận và thực hiện thủ tục hành chính; nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; góp phần phòng,
chống tham nhũng và lãng phí.
Xã Tân Ninh, thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa là một địa phương
điển hình trong công tác cải cách hành chính trong thời gian qua, xã đã được huyện
Triệu Sơn và tỉnh Thanh Hóa biểu dương và nhân rộng điển hình này ra khắp tỉnh.
Chính những hiệu quả mà công tác cải cách thủ tục hành chính mang lại nên
đây có thể coi là một bước đột phá trong công tác hành chính, làm cho công tác
này trở nên hiệu quả và thiết thực, bớt thời gian đi lại cũng như công sức của nhân
dân khi đến các cơ quan hành chính làm thủ tục.
Vì những lý do trên đây nên em chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng
cao chất lượng công tác cải cách thủ tục hành chính ở xã Tân Ninh, huyện
Triệu Sơn, Tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu kết
thúc môn Hành Chính Học.


2. Tình hình nghiên cứu
Do tầm quan trọng của vấn đề công tác cải cách thủ tục hành chính nên đã
có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này:
Quyết định số 902/2003/QĐ-TTg ngày 14/8/2003 phê duyệt Chương trình
đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm


pháp

luật;

+ Quyết định số 121/2003/QĐ-TTg ngày 11/6/2003 phê duyệt Chương trình
nghiên cứu xác định vai trò, chức năng và cơ cấu tổ chức của các cơ quan trong hệ
thống

hành

chính

nhà

nước;

+ Quyết định số 69/2003/QĐ-TTG ngày 29/4/2003 phê duyệt Chương trình xây
dựng,

nâng

cao

chất

lượng

đội

ngũ


cán

bộ,

công

chức;

+ Quyết định số 08/2004/QĐ-TTG ngày 15/01/2004 phê duyệt Chương trình đổi
mới cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công;
+ Quyết định số 112/2001/QĐ-TTg ngày 25/7/2001 phê duyệt Đề án tin học hoá
quản



hành

chính

nhà

nước

giai

đoạn

2001




2005;

+ Quyết định số 169/2003/QĐ-TTg ngày 12/8/2003 phê duyệt Đề án Đổi mới
phương thức điều hành và hiện đại hoá công sở của hệ thống hành chính nhà nước
giai

đoạn

I

(2003-

2005);

+ Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 ban hành Quy chế thực hiện
cơ chế "một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương;
+ Quyết định số 178/2003/QĐ-TTg ngày 03/9/2003 phê duyệt Đề án tuyên truyền
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -2010
+ Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -2010
được ban hành kèm theo Quyết định số 136 của Thủ tướng Chính phủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ các khái niệm có liên quan đến hành chính công, tiểu luận
đi sâu nghiên cứu thực trạng cải cách hành chính tại xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn,
tỉnh Thanh Hóa
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ các khái niệm liên quan
- Phân tích thực trạng cải cách hành chính tại xã Tân Ninh, huyện Triệu
Sơn, tỉnh Thanh Hóa
- Đề xuất giải pháp để từng bước nâng cao chất lượng công tác cải cách thủ
tục hành chính ở xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, Tỉnh Thanh Hóa
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng
Vấn đề nâng cao chất lượng công tác cải cách thủ tục hành chính ở xã Tân
Ninh, huyện Triệu Sơn, Tỉnh Thanh Hóa.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong tiểu luận này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề xoay
quanh vấn đề nâng cao chất lượng công tác cải cách thủ tục hành chính ở xã Tân
Ninh, huyện Triệu Sơn, Tỉnh Thanh Hóa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam, quan điểm nâng
cao chất lượng công tác cải cách thủ tục hành chính của Đảng bộ và ủy ban nhân
xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, Tỉnh Thanh Hóa
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật về lịch sử, cùng với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ


thể như: phân tích, tổng hợp, trừ tượng và cụ thể, logic và lịch sử, thống kê…
nhằm đạt tới mục đích mà đề tài đề ra.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của tiểu luận
Đề tài góp phần làm sáng tỏ các khái niệm về công tác cải cách thủ
tục hành chính.Tìm hiểu thực trạng nâng cao chất lượng công tác cải cách thủ tục
hành chính ở xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, Tỉnh Thanh Hóa. Từ đó, đề xuất một

số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác cải cách thủ tục hành
chính ở xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, Tỉnh Thanh Hóa
7. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, tiểu
luận được bố cục gồm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về công tác cải cách thủ tục hành
chính.
1.1

Thủ tục hành chính và công tác cải cách thủ tục hành chính

Thủ tục hành chính hiểu theo nghĩa chung nhất, là trình tự, cách thức thực
hiện và hồ sơ do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết
từng công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức. Thủ tục hành chính có vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp và đời sống nhân dân. Thông qua thủ tục hành chính, các cá
nhân, tổ chức thực hiện được quyền lợi, nghĩa vụ của mình và đồng thời, các cơ
quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Công tác cải cách hành chính trong những năm qua đã được Nhà nước ta
quan tâm, nhận thức rõ thực trạng thủ tục hành chính và nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 30/QĐ-TTg,


ngày 10 tháng 01 năm 2007 phê duyệt Đề án Đơn giản hóa thủ tục hành chính trên
các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007- 2010 và Quyết định số 07/QĐ-TTg
phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án này nhằm tạo bước chuyển căn bản trong cải
cách thủ tục hành chính, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, đơn giản, công khai,
minh bạch của thủ tục hành chính; tạo môi trường thuận lợi cho cá nhân, tổ chức
và doanh nghiệp trong tiếp cận và thực hiện thủ tục hành chính; nâng cao hiệu lực,

hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; góp phần phòng,
chống tham nhũng và lãng phí.
Cải cách hành chính là một sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất
định,

được

xác

định

bởi



quan

nhà

nước



thẩm

quyền;

- Cải cách hành chính không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành chính, mà
chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn so
với trước, chất lượng các thể chế quản lý nhà nước đồng bộ, khả thi, đi vào cuộc

sống hơn, cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước sau khi tiến hành cải cách
hành chính đạt hiệu quả, hiệu lực hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế – xã hội
của

một

quốc

gia.

- Cải cách hành chính tuỳ theo điều kiện của từng thời kỳ, giai đoạn của lịch sử,
yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, có thể được đặt ra những
trọng tâm, trọng điểm khác nhau, hướng tới hoàn thiện một hoặc một số nội dung
của nền hành chính, đó là tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, thể chế pháp
lý,

hoặc

tài

chính

công

v.v...

Ở Việt Nam hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào chính thức định
nghĩa khái niệm cải cách hành chính là gì. Tuy nhiên, nhiều văn bản quan trọng của
Đảng đã đề cập đến thuật ngữ này, như Nghị quyết Đại hội VII, Nghị quyết TW 8 khoá VII, Nghị quyết Đại hội VIII v.v... đã nêu ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể



cho công cuộc cải cách hành chính nhà nước. Đồng thời, Chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -2010 của Chính phủ được ban hành
kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính
phủ cũng đã nêu 4 nội dung cơ bản của cải cách hành chính Việt Nam, đó là cải
cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, đổi mới, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. Mục tiêu của cải cách hành
chính nhà nước đến 2010 theo Chương trình tổng thể là “Xây dựng một nền hành
chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng
lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Năm 2010, hệ
thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”
2.1 Quá trình thực hiện công tác cải cách thủ tục hành chính.
Công cuộc cải cách thủ tục hành chính được bắt đầu thực hiện từ năm 1994
kể từ sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5/1994. Từ đó đến
nay, Chính phủ đã nổ lực thực hiện với nhiều nội dung cải cách đã được thể chế
hóa trong các văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định của Chính phủ như
đăng ký kinh doanh, hộ khẩu, hộ tịch, đầu tư nước ngoài, xuất nhập cảnh, xuất
nhập khẩu, thuế, hải quan,… và người dân cũng dễ nhận thấy những thay đổi căn
bản trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính của họ. Đảng và Nhà nước coi
trọng cải cách thủ tục hành chính là do thủ tục hành chính liên quan trực tiếp đến
việc thực hiện thẩm quyền của các chủ thể quản lí hành chính nhà nước, tới việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức.


Thể chế hoá đường lối của Đảng, Nhà nước đă ban hành nhiều văn
bản pháp luật quy định về cải cách thủ tục hành chính, trong đó đặc biệt quan trọng

là về cơ chế “một cửa - một dấu”. Quyết định 181/2003/QĐ-TTg, ngày 4-9-2003,
ban hành Quy chế thực hiện cơ chế "một cửa" tại các cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương mà chúng ta thường gọi là thực hiện theo cơ chế "một cửa". Và tiếp
theo là Quyết định số 93/2007/NĐ-TTg, ngày 22-6-2007, của Thủ tướng Chính
phủ về "Thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương".
Công tác cải cách hành chính đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, thể
hiện qua các Quyết định sau:
+Quyết định số 902/2003/QĐ-TTg ngày 14/8/2003 phê duyệt Chương trình
đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm
pháp

luật;

+ Quyết định số 121/2003/QĐ-TTg ngày 11/6/2003 phê duyệt Chương trình
nghiên cứu xác định vai trò, chức năng và cơ cấu tổ chức của các cơ quan trong hệ
thống

hành

chính

nhà

nước;

+ Quyết định số 69/2003/QĐ-TTG ngày 29/4/2003 phê duyệt Chương trình xây
dựng,

nâng


cao

chất

lượng

đội

ngũ

cán

bộ,

công

chức;

+ Quyết định số 08/2004/QĐ-TTG ngày 15/01/2004 phê duyệt Chương trình đổi
mới cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công;
+ Quyết định số 112/2001/QĐ-TTg ngày 25/7/2001 phê duyệt Đề án tin học hoá
quản



hành

chính


nhà

nước

giai

đoạn

2001



2005;

+ Quyết định số 169/2003/QĐ-TTg ngày 12/8/2003 phê duyệt Đề án Đổi mới
phương thức điều hành và hiện đại hoá công sở của hệ thống hành chính nhà nước
giai

đoạn

I

(2003-

2005);

+ Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 ban hành Quy chế thực hiện


cơ chế "một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương;

+ Quyết định số 178/2003/QĐ-TTg ngày 03/9/2003 phê duyệt Đề án tuyên truyền
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -2010
+ Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -2010
được ban hành kèm theo Quyết định số 136 của Thủ tướng Chính phủ.
1.3

Sự cần thiết phải cải cách thủ tục hành chính

Cải cách thủ tục hành chính là một nội dung của cải cách hành chính, nhưng
là nội dung phản ánh rõ nhất mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, đồng thời là
nội dung có nhiều bức xúc nhất của người dân, doanh nghiệp, cũng như có nhiều
yêu cầu đổi mới trong quá trình hội nhập kinh tế. Trong điều kiện nguồn lực còn
nhiều khó khăn nên chưa thể cùng một lúc thực hiện được nhiều nội dung cải cách
như: cải cách tài chính công, cải cách tiền lương, cải cách tổ chức bộ máy …
Thông qua cải cách thủ tục hành chính, chúng ta có thể xác định căn bản các công
việc của cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp; qua đó chúng ta có thể
xây dựng bộ máy phù hợp và từ đó có thể lựa chọn đội ngũ cán bộ, công chức hợp
lý,

đáp

ứng

được

yêu

cầu

công


việc.

Như vậy, có thể coi cải cách thủ tục hành chính là tiền đề để thực hiện các nội dung
cải cách khác như: nâng cao chất lượng thể chế; nâng cao trình độ, thay đổi thói
quen, cách làm, nếp nghĩ của cán bộ, công chức; phân công, phân cấp thực hiện
nhiệm vụ giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp của bộ máy hành
chính;

thực

hiện

chính

phủ

điện

tử,



Cải cách thủ tục hành chính có tác động to lớn đối với việc thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội. Thông qua việc cải cách thủ tục hành chính (mà đặc biệt là việc triển
khai thực hiện thành công Đề án 30) sẽ gỡ bỏ những rào cản về thủ tục hành chính
đối với môi trường kinh doanh và đời sống của người dân, giúp cắt giảm chi phí và


rủi ro của người dân và doanh nghiệp trong việc thực hiện thủ tục hành chính.

Thực tế triển khai Đề án 30 cho thấy, sau khi tất cả các giải pháp đơn giản hóa thủ
tục hành chính được thông qua sẽ cắt giảm tối đa chi phí tuân thủ thủ tục hành
chính mà xã hội phải gánh chịu, hàng chục nghìn tỷ đồng chi phí tiết kiệm được sẽ
được tái phân bổ vào các hoạt động phục vụ việc đầu tư, tạo việc làm, qua đó góp
phần

thúc

đẩy

tăng

trưởng

kinh

tế

-



hội.

Bên cạnh đó, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính sẽ góp phần nâng cao hình ảnh
của Việt Nam nói chung và các bộ, ngành, địa phương nói riêng trước cộng đồng
trong nước và quốc tế, nâng cao vị trí xếp hạng của Việt Nam về tính minh bạch,
môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Đây là những giá trị vô hình nhưng
có tác động to lớn đến việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cụ thể là có ảnh
hưởng tích cực đến việc đầu tư trong và ngoài nước, xuất nhập khẩu, việc làm, an

sinh xã hội… Theo báo cáo môi trường kinh doanh năm 2011 của Ngân hàng thế
giới công bố ngày 04 tháng 11 năm 2010, thông qua hoạt động cải cách theo Đề án
30 đã đưa Việt Nam vào nhóm 10 nền kinh tế có nhiều sự cải thiện môi trường
kinh doanh nhất và tăng 10 bậc trong bảng xếp hạng các nền kinh tế (đứng thứ 78
trong số 183 nền kinh tế). Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD) cho rằng Đề
án 30 của Việt Nam như một điểm sáng về cải cách trong khu vực và mở ra cơ hội
hợp tác giữa OECD và các nước ASEAN trong lĩnh vực cải cách thể chế.
Với thành công bước đầu của Đề án 30, lần đầu tiên Việt Nam thiết lập và công bố
Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính tại 4 cấp chính quyền và công khai
trên mạng internet. Chúng ta đã chuẩn hóa và thống nhất được bộ TTHC cấp
huyện, cấp xã theo hướng rút gọn từ 10.000 bộ thủ tục hành chính cấp xã và 700
bộ thủ tục hành chính cấp huyện xuống còn 63 bộ ở mỗi cấp … Theo đó, mỗi tỉnh,
thành phố có một bộ TTHC cấp xã và một bộ TTHC cấp huyện để thống nhất thực
hiện tại địa phương. Trong năm 2010, Chính phủ đã ban hành 25 Nghị quyết để
đơn giản hóa gần 5.000 thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của


24 bộ, ngành. Bên cạnh việc dự kiến cắt giảm thời gian, chi phí và rủi ro cho các
các nhân, tổ chức trong việc thực hiện thủ tục hành chính, với tổng chi phí tiết
kiệm được lên tới gần 30.000 tỷ đồng mỗi năm (khi các phương án đơn giản hóa đi
vào thực thi trong giai đoạn 3 của Đề án), cải thiện môi trường kinh doanh, Đề án
đã nâng cao khả năng tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính của mỗi cá nhân, tổ
chức; tạo điều kiện cho nhân dân giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính tại các
cơ quan hành chính các cấp. Thành công của Đề án trong việc hợp tác công - tư đã
khẳng định tính đúng đắn trong việc huy động người dân và doanh nghiệp tham gia
cải cách thủ tục hành chính chính. Đây là một minh chứng rõ rệt của việc phản ánh
ý chí nguyện vọng của nhân dân, gắn bó với dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước và xã hội,
tham gia vào quá trình hoạch định chính sách pháp luật của Nhà nước. Đề án đã
phát huy được tính tích cực chính trị của nhân dân, là yếu tố cơ bản để phát huy nội

lực

của

đất

nước.

Chương 2. Thực trạng công tác cải cách thủ tục hành chính ở xã Tân Ninh,
huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay
2.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác cải cách thủ tục hành chính ở xã
Tân Ninh
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, xã hội
Điều kiện tự nhiên
Tân Ninh là một xã của huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Xã
Tân Ninh là xã cực nam của huyện Triệu Sơn, giáp ranh với huyện Nông Cống ở
phía Đông Nam (các xã Tân Khang, Tân Thọ), giáp ranh với huyện Như Thanh ở
phía Tây Nam (xã Mậu Lâm). Mặt phía Bắc, Tân Ninh giáp các xã cùng huyện
là: Thái Hòa (phía Tây Bắc), Khuyến Nông (phía Bắc), Đồng Lợi (phía Đông Bắc).


Tân Ninh nằm dưới chân núi Nưa cao khoảng 500 m. Tân Ninh cách thành phố
Thanh Hóa khoảng 25km, cách Hà Nội 175km. Tân Ninh là một xã trung du của
tỉnh Thanh Hóa.
Hiện nay xã Tân Ninh được chia thành 13 thôn từ thôn 1 đến thôn 13.
Tân Ninh có điều kiện tự nhiên đặc biệt, dãy núi Nưa nằm phía tây nam của
xã, tạo điều kiện thuận lợi về nguồn tài nguyên thiên nhiên và là danh lam thắng
cảnh trong vùng. Ngoài hệ thống núi, xã Tân Ninh còn có vùng đất bằng phẳng, có
thể thâm canh cây lúa nước và các loại hoa màu khác.
Tân Ninh nằm gần một vùng mỏ Cromit vào loại lớn nhất Việt Nam.

Mỏ Cromit Cổ Định nằm trên địa bàn xã đã được Bộ Công Nghiệp nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra quyết định thành lập từ ngày 28 tháng 2 năm 1956, nhằm
khai thác Crom sa khoáng.
Lịch sử hình thành
Tân Ninh một xã nằm trên vùng đất tối cổ có từ thời các Hùng Vương dựng
nước. Xã Tân Ninh được hình thành từ một làng cổ mang tên Cổ Định thuộc tổng
Cổ Định, huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa thời nhà Nguyễn. Vào
thời Hùng Vương, Tân Ninh nay (tức làng Cổ Định xưa) có tên gọi là chạ Kẻ Nưa
(dưới chân dãy núi Ngàn Nưa). Đến thời thuộc nhà Hán chạ Kẻ Nưa được gọi là
Cà Ná giáp. Thời thuộc nhà Tùy, nhà Đường sách sử ghi là Cà Ná giáp, dân giã gọi
là Kẻ Nưa.
Thời nhà Lý, nhà Trần, xã được đổi thành hương Cổ Na. Thời Lê sơ, Lê Thái
Tổ đổi Cổ Na thành Cổ Ninh, thời Lê Trung Hưng được đổi thành Cổ Định (do
tránh gọi tên húy của vua Lê Duy Ninh), sau Cách mạng tháng Tám, xã lại được
đổi tên thành Tân Ninh (với chữ Tân nghĩa là mới). Làng Cổ Định (Kẻ Nưa) vào
năm 248 là căn cứ kháng chiến chống quân Đông Ngô của Bà Triệu. Kẻ Nưa (Tân


Ninh) được cho là nơi khởi nguồn của một số dòng họ của người Việt trên đất nước
Việt Nam như họ Trịnh, họ Doãn.
Dân cư
Hiện nay toàn xã có 10.3421 người, toàn dân trong xã là dân tộc kinh. Các
dòng họ lớn trong xã là: Lê Bật, Doãn, Hứa… được chia làm 13 thôn. Chủ tịch xã
là ông Hứa Đinh Nam.
Giáo dục
Toàn xã có 1 trường tiểu học và 1 trường trung học cơ sở, ngoài ra có hệ
thống trường mầm non bán trú cho học sinh học tập và vui chơi.
2.2 Kết quả của công tác cải cách hành chính của xã và nguyên nhân
Về công tác kiểm soát TTHC, trong một thời gian ngắn công tác kiểm soát
TTHC đã có những chuyển động rất tích cực trong toàn bộ bộ máy của xã. Cùng

với việc kiện toàn về tổ chức và nhân sự cho phòng kiểm soát TTHC, hệ thống cán
bộ đầu mối kiêm nhiệm làm công tác kiểm soát TTHC tại các cơ quan của xã cũng
được quan tâm, kiện toàn.
Toàn thể cán bộ công chức làm công tác kiểm soát TTHC tại địa phương đã
tham dự đầy đủ chương trình tập huấn nghiệp vụ do tỉnh ủy Thanh Hóa tổ chức.
Thông qua tập huấn, nhận thức của lãnh đạo và công chức về công tác này được
nâng cao, công tác đánh giá tác động các quy định về TTHC và lấy ý kiến về
TTHC được coi trọng, hoạt động kiểm soát TTHC bước đầu đã đi vào nề nếp. Các
đơn vị kiểm soát TTHC đã tham mưu cho lãnh đạo địa phương thực hiện việc sửa
đổi, bổ sung theo thẩm quyền quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan mình, theo đó phải thực hiện đánh giá tác động và lấy ý kiến
đơn vị kiểm soát TTHC đối với dự thảo quy định về TTHC; ban hành quy chế phối


hợp trong việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy
định hành chính; xây dựng kế hoạch kiểm soát TTHC năm 2011 và kế hoạch
truyền thông phục vụ kiểm soát TTHC của địa phương. Đây là nền tảng tốt để đưa
hoạt động kiểm soát TTHC đi vào nề nếp, duy trì và phát huy kết quả cải cách
TTHC trong thời gian tới.
Một trong những biện pháp cải cách thủ tục hành chính căn cơ là xoá bỏ tình
trạng độc quyền trong cung ứng dịch vụ công. Trong điều kiện công tác quản lý
được tin học hoá, các dữ kiện, thông tin liên quan đến hồ sơ hành chính có thể
được tiếp cận dễ dàng từ các địa điểm khác nhau. Bởi vậy, có thể cân nhắc việc
thừa nhận cho người dân quyền lựa chọn cơ quan mỗi khi cần giao tiếp với thiết
chế công, theo sự thuận tiện đối với bản thân, mà không bị ràng buộc về địa chỉ
giao tiếp theo địa bàn nơi cư trú hay nơi toạ lạc tài sản, nơi đặt trụ sở doanh
nghiệp. Chắc chắn, cơ quan công quyền khi đó sẽ trở nên tích cực, mẫn cán trong
việc cải tiến thủ tục hành chính, theo sự thôi thúc tự nhiên của nhu cầu tự hoàn
thiện, coi đó là một trong những biện pháp thu hút người dân đến giao tiếp với thiết
chế công.

Với 13 đơn vị hành chính, 12 đơn vị sự nghiệp thuộc huyện, hơn 100 doanh
nghiệp và hộ kinh doanh cá thể, 830 đối tượng hưởng chế độ bảo trợ xã hội thường
xuyên, nên nhu cầu giao dịch, giải quyết các thủ tục hành chính tại xã Tân Ninh rất
lớn. Trong thực hiện vừa qua, xã đã chỉ đạo tập trung vào những lĩnh vực còn
nhiều bức xúc như quản lý đất đai, xây dựng cơ bản, chế độ chính sách… Các thủ
tục hành chính đều được giải quyết tại bộ phận “một cửa”; xã đã quan tâm đầu tư
trang thiết bị, niêm yết công khai các thủ tục, bố trí các công chức có năng lực,
trách nhiệm để trực và giải quyết kịp thời.


Từ kết quả đạt được trong chỉ đạo thực hiện công tác cải cách hành chính và
yêu cầu thực tế, Tân Ninh đã được huyện chọn làm điểm thực hiện mô hình tiếp
nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa liên thông, hiện đại. Mục tiêu của mô hình
là xây dựng bộ phận “một cửa” hoạt động độc lập, chuyên trách và liên thông với
các ngành, các địa phương trong xã; thực hiện tin học hóa và đơn giản các quy
trình giải quyết thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân và các tổ
chức khi đến giao dịch và tham gia giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước;
đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ công chức có trình độ năng lực chuyên môn,
có kỹ năng hành chính, công tâm, thạo việc, có thái độ tận tụy phục vụ nhân dân.
Qua quá trình triển khai thực hiện từ việc đầu tư xây dựng mới phòng làm việc, lắp
đặt các trang thiết bị, đào tạo cán bộ công chức, triển khai các phần mềm ứng
dụng, đến tháng 6/2011, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế “một cửa”
liên thông, hiện đại đã chính thức đi vào hoạt động. Các lĩnh vực được đưa vào
hoạt động tại bộ phận “một cửa” bao gồm: các thủ tục về đất đai, cấp phép xây
dựng, tư pháp hộ tịch, chế độ chính sách, dự án sản xuất kinh doanh, hai lĩnh vực
đã được liên thông với bộ phận “một cửa” là thuế và kho bạc. Với hệ thống mạng,
thiết bị điện tử chuyên dụng như máy đếm số xếp hàng tự động, máy tra cứu hướng
dẫn thủ tục hành chính, hệ thống camera quan sát toàn bộ hoạt động của bộ phận
làm việc một cửa, hệ thống máy tính nối mạng sử dụng phần mềm tác nghiệp theo
quy trình ISO 9001-2000 tạo điều kiện thuận lợi cho công chức giao dịch và xử lý

hồ sơ. Với không gian rộng, thoáng mát, niêm yết đầy đủ các hướng dẫn quy trình,
thủ tục hành chính, có bàn ghế ngồi chờ, phục vụ nước uống… đã tạo điều kiện
thuận lợi cho công dân và tổ chức đến giao dịch, đồng thời thể hiện được sự tôn
trọng nhân dân, sự rõ ràng, minh bạch các hoạt động của cơ quan công quyền. Qua
gần 18 tháng đi vào hoạt động, bộ phận một cửa đã tiếp nhận và xử lý hơn 800 hồ
sơ thủ tục hành chính, trong đó lĩnh vực đất đai có lượng giao dịch nhiều nhất (531
hồ sơ), lĩnh vực chính sách đã giải quyết 230 hồ sơ; nhiều thủ tục hành chính được


rút ngắn thời gian giải quyết, giảm bớt các khâu phải đi lại nhiều lần làm mất thời
gian của nhân dân.
Nghị quyết Hội đồng nhân dân xã kỳ họp thứ 3 (khóa XVIII) đã quyết nghị
các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2013 với mức độ cao và các giải pháp mạnh, trong
đó, cải cách thủ tục hành chính được xác định là một trong những nhóm giải pháp
quan trọng, là khâu đột phá cần tập trung thực hiện với nội dung trọng tâm là:
Tiếp tục rà soát đầu tư đồng bộ cả về trang thiết bị, chất lượng đội ngũ công
chức và cơ chế hoạt động của bộ phận “một cửa” để đảm bảo hoạt động độc lập,
chuyên trách, tiến tới chuyên nghiệp và hiện đại. Xây dựng, bổ sung nội dung lĩnh
vực hoạt động “một cửa”; bổ sung hoàn thiện các quy chế hoạt động, quy chế phối
hợp trong giải quyết các thủ tục hành chính để xác định rõ việc, rõ người và rõ
trách nhiệm.
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức
làm việc tại bộ phận “một cửa”, nhất là các kiến thức về kỹ thuật, kỹ năng hành
chính và đạo đức công vụ. Ban hành các cơ chế để xây dựng đội ngũ công chức
làm việc ở bộ phận “một cửa” có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực, có tính
chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ nhân dân, đào tạo họ trở thành nguồn cán bộ chủ
chốt của huyện và cơ sở.
Tổ chức công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính; thông qua hoạt
động của bộ phận “một cửa” tổ chức rà soát, loại bỏ hoặc đề nghị cấp có thẩm
quyền thay thế những thủ tục, mẫu đơn, tờ khai không còn phù hợp nhằm tạo điều

kiện thuận lợi cho công dân và các tổ chức đến giao dịch.
Với quyết tâm chính trị cao và thực hiện đồng bộ các giải pháp, tin tưởng
công tác cải cách thủ tục hành chính ở xã tiếp tục có những chuyển biến tích cực,


đảm bảo sự hài lòng của các cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành
chính Nhà nước, góp phần quan trọng cho kinh tế - xã hội xã nhà phát triển nhanh
hơn.
2.3 Hạn chế của công tác cải cách hành chính của xã và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả và tiến bộ đạt được, thực trạng cải cách thủ tục
hành chính của xã Tân Ninh những năm qua còn bộc lộ những hạn chế và tồn tại
chủ yếu sau đây:
Một là: Mặc dù đã qua nhiều tháng cải cách nhưng cho đến thời điểm
hiện tại, thủ tục hành chính của xã trên hầu hết các lĩnh vực vẫn còn tồn tại nhiều
bất hợp lý, gây phiền phức cho nhân dân và cho doanh nghiệp. Ngay trong những
lĩnh vực trọng điểm được đánh giá là có nhiều đổi mới nhưng vẫn còn tình trạng
thiếu thông thoáng, trùng lắp, nặng về dành thuận lợi cho cơ quan quản lý, cho
người thực thi công vụ, gây bức xúc trong xã hội.
Hai là: Quá trình cải cách chủ yếu dừng lại ở những biện pháp tình
thế, vướng đâu gỡ đó, thiếu một giải pháp toàn diện, cơ bản để có thể giải quyết tận
gốc những nguyên nhân sâu xa làm phát sinh những bất hợp lý cả về nội dung và
hình thức của các quy trình, thủ tục, nên hiệu quả không cao, kết quả không vững
chắc. Khuynh hướng cải cách để nhằm tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý, cho
người thực thi công vụ hơn là tháo gỡ cho dân, cho doanh nghiệp vẫn chưa được
khắc phục.
Ba là: Cũng như cải cách hành chính nói chung, việc rà soát, sửa đổi,
bổ sung thủ tục hành chính trong những tháng qua, không bảo đảm tính đồng bộ.
Đặc biệt là giữa cải cách thủ tục hành chính với cải cách thể chế, cơ chế chính



sách, đổi mới tổ chức bộ máy, điều chỉnh sự phân công phân cấp, đổi mới lề lối
làm việc, nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức…
Những tồn tại và nhược điểm trên do nhiều nguyên nhân nhưng chủ
yếu và trước hết là:
Về khách quan:
Trên nhiều lĩnh vực, những biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu
còn phổ biến (cả trong cơ chế, chính sách, trong quy định pháp luật) chưa được xóa
bỏ tận gốc. Trên không ít làm việc của đời sống kinh tế - xã hội, quan hệ "xin cho" thậm chí còn phổ biến.
Không ít vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến nội dung quản lý
nhà nước trong điều kiện cơ chế kinh tế mới chưa được làm rõ để trên cơ sở đó
định ra lộ trình và giải pháp cải cách phù hợp.
Những biểu hiện bất hợp lý trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước chậm
được xem xét khắc phục một cách triệt để; chế độ công chức, công vụ không rõ
ràng.
Về chủ quan:
Nhận thức về tầm quan trọng, mục đích, ý nghĩa của công tác cải
cách thủ tục hành chính chưa ngang tầm, nhất là của người đứng đầu cơ quan, đơn
vị. Cải cách thủ tục hành chính là công việc phức tạp, nhạy cảm nhưng do chưa
làm tốt công tác tư tưởng nên chưa tạo sự thông suốt và nhất trí cao trong các cơ
quan hành chính nhà nước.


Cải cách thủ tục hành chính đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của các
bộ, ngành và địa phương cũng như lợi ích của bản thân cán bộ, công chức nên
trong nhiều trường hợp còn biểu hiện làm cầm chừng, thiếu kiên quyết, thậm chí
tránh né.
Sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tỉnh ủy, huyện ủy
cũng như của các bộ, ngành và địa phương chưa tập trung ráo riết. Chủ tịch, kế
hoạch đề ra nhiều nhưng việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện chưa thường xuyên.

Những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện chưa được xem
xét, giải quyết kịp thời để tháo gỡ; việc triển khai thực hiện thiếu đồng bộ.
Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức ở các cấp, các
ngành, nhất là ở địa phương còn hạn chế, bất cập, trong khi việc hướng dẫn của các
cơ quan chuyên môn chưa cụ thể và không thường xuyên
Các hoạt động của bộ phận “một cửa” chưa thực sự mang tính độc lập,
chuyên trách; nội dung các lĩnh vực đưa vào hoạt động tại bộ phận “một cửa” còn
ít; chưa thực hiện liên thông đến các thôn trong xã. Một số cán bộ chưa thực sự
hiểu và chưa áp dụng chính sách cải cách hành chính trong công tác tiếp dân, dẫn
đến còn những khó khăn khi nhân dân đến giải quyết thủ tục hành chính.Quá trình
cải cách thủ tục hành chính cũng còn những hạn chế, bất cập; nhiều thủ tục hành
chính còn chưa tạo thuận lợi, thậm chí gây phiền hà, tốn kém cho người dân và
doanh nghiệp.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác cải cách thủ
tục hành chính ở xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, Tỉnh Thanh Hóa


3.1 Tổ chức nghiên cứu một cách cơ bản và toàn diện hơn để hình thành
cho được hệ thống những nguyên tắc, giải pháp cơ bản đồng bộ về cải cách
thủ tục hành chính
Để cải cách thủ tục hành chính thực sự trở thành khâu đột phá, thúc đẩy tiến
trình cải cách hành chính nói chung, cần tổ chức nghiên cứu một cách cơ bản và
toàn diện hơn để hình thành cho được hệ thống những nguyên tắc, giải pháp cơ bản
đồng bộ về cải cách thủ tục hành chính.
Xã cần phải xác định thật rõ vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của cải
cách thủ tục hành chính trong nội dung tổng thể của cải cách hành chính nói chung.
Từ đó quy định cụ thể nhiệm vụ, trách nhiệm đối với việc cải cách, đổi mới thủ tục
hành chính; đặc biệt là trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan trong
công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
Về mặt thể chế, thủ tục hành chính xét cho cùng là hiện thân về mặt

hình thức của các cơ chế, chính sách quản lý. Một khi cơ chế, chính sách được đổi
mới triệt để, tổ chức bộ máy quản lý được đổi mới về chức năng, thẩm quyền và
trách nhiệm thì tất yếu thủ tục hành chính sẽ có cơ sở, điều kiện để được cải cách
một cách cơ bản, triệt để. Ngược lại, khi cải cách hành chính chưa được tiến hành
đồng bộ, đều khắp thì chưa thể đòi hỏi cải cách cơ bản về thủ tục hành chính. Do
vậy, cải cách thủ tục hành chính phải tiến hành đồng thời với đổi mới cơ chế, chính
sách, hoàn thiện chức năng quản lý nhà nước ở cấp xã, tăng cường phân công,
phâp cấp quản lý, điều chỉnh trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan hành chính
cũng như chế độ công vụ.
Thiết lập cơ chế giám sát thường xuyên, có hiệu quả đảng viên cán
bộ, công chức trong tiếp nhận, xử lý công việc của dân và doanh nghiệp. Coi trọng
cơ chế giám sát trong nội bộ cơ quan, đơn vị, kiên quyết không để tình trạng khép


kín nội bộ trong xử lý công việc liên quan đến công việc của người dân; thiết lập
cơ chế giám sát từ bên ngoài, từ trên xuống. Một mặt tăng cường thực hiện công
khai đầy đủ, cụ thể về thủ tục hành chính, thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan,
cán bộ, công chức để nhân dân giám sát. Cần nhanh chóng thiết lập đồng bộ khuôn
khổ thể chế và thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm tra công vụ trong
hoạt động của bộ máy hành chính để phòng ngừa và kịp thời phát hiện, kiên quyết
xử lý những vi phạm.
Cải cách thủ tục hành chính có vị trí và vai trò quan trọng công cuộc
cải cách hành chính, có nội dung và yêu cầu cụ thể, do vậy cần phải có sự phân
công và xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cơ quan, chỉ đạo công tác
cải cách thủ tục hành chính một cách thường xuyên.
Thủ tục hành chính là hình thức pháp lý thể hiện cụ thể các nội dung
cơ chế, chính sách, thể chế quản lý trên các lĩnh vực, là công cụ thực hiện các chức
năng, thẩm quyền và trách nhiệm quản lý của các cơ quan hành chính giữa các cơ
quan hành chính với nhau và với công dân, tổ chức. Nhưng bản thân thủ tục hành
chính có những nội dung và yêu cầu riêng, như phải bảo đảm tính công khai, minh

bạch, đơn giản hóa, dễ hiểu, dễ thực hiện đối với người dân… Để tạo cơ sở pháp lý
vững chắc, nhất quán, có hiệu quả cao cho quá trình cải cách thủ tục hành chính,
xin đề nghị nghiên cứu xây dựng pháp lệnh hoặc luật về thủ tục hành chính.
Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết hoàn thiện mô hình "một cửa" trong giải
quyết công việc của dân và doanh nghiệp, và mở rộng áp dụng mô hình này vào
các quan hệ tiếp nhận và xử lý công việc giữa các cơ quan hành chính với nhau.
Gắn liền đồng bộ cải cách thủ tục hành chính với đổi mới phương
thức chỉ đạo, điều hành của các cơ quan hành chính. Trước hết là trên 2 vấn đề: a)
nghiên cứu áp dụng hình thức quản lý chất lượng vào hoạt động của các cơ quan


hành chính và b) triển khai nhanh kế hoạch xây dựng Chính phủ điện tử, từng bước
thực hiện việc tiếp nhận và xử lý công việc của các cơ quan hành chính thông qua
mạng tin học, kể các việc chỉ đạo cũng như xử lý công việc thuộc thẩm quyền của
lãnh đạo.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thu hút và phát huy vai trò của nhân dân,
các tổ chức xã hội, các hiệp hội vào công cuộc cải cách thủ tục hành chính, trước
hết là phát hiện những bất hợp lý về thủ tục hành chính và giám sát các cơ quan
hành chính, giám sát người thi hành công vụ trong việc thực hiện thủ tục hành
chính.
3.2 Đẩy mạnh việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
ISO trong việc giải quyết hồ sơ theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông gắn
với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành
Đẩy mạnh việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
trong việc giải quyết hồ sơ theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông gắn với việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành cũng như xử lý hồ sơ, công
việc của tổ chức, công dân; đây là một trong những giải pháp thúc đẩy công tác cải
cách thủ tục hành chính đang được triển khai thực hiện có hiệu quả tại các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp của xã Tân Ninh.
Áp dụng ISO trong cơ quan hành chính nhà nước là cách giúp xây dựng một

quy trình xử lý công việc trong cơ quan một cách khoa học, hợp lý, tạo điều kiện
để người đứng đầu cơ quan hành kiểm soát được quá trình giải quyết công việc
trong nội bộ của cơ quan, đơn vị, thông qua đó từng bước nâng cao chất lượng,
hiệu quả của công tác quản lý và cung cấp dịch vụ công. Quy trình này đang được
triển khai áp dụng tại xã Tân Ninh đã tích cực áp dụng trên lĩnh vực đất đai theo cơ
chế một cửa và một cửa liên thông tại địa bàn quận thông qua việc xây dựng các


quy trình công việc cụ thể như: Quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
quy trình chuyển quyền sử dụng đất; trình tự thủ tục đăng ký và xóa thế chấp, bảo
lãnh bằng quyền sử dụng đất...; Ban Quản lý khu Công nghiệp và Chế xuất quặng
Crôm mít đã xây dựng và áp dụng Quy trình cấp giấy chứng nhận đầu tư; chứng
chỉ quy hoạch; quy trình thỏa thuận thiết kế tổng mặt bằng và giải pháp kiến trúc;
cấp giấy phép thành lập Văn phòng đại diện; cấp giấy hoàn thành công trình trong
khu công nghiệp; quy trình chứng nhận hợp đồng văn bản về bất động sản; cấp
giấy phép lao động cho người nước ngoài; quy trình thẩm định và phê duyệt báo
cáo; quy trình cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa; quy trình xác nhận bản cam
kết bảo vệ môi trường; quy trình tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả tại Ban quản lý;
Trung tâm y tế, áp dụng các quy trình về khám chữa bệnh và cung cấp các dịch vụ
y tế, quản lý thuốc …
Các quy định về quy trình nêu trên đã hệ thống hóa được trình tự các công
việc, các loại biểu mẫu, xác định rõ trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức và bộ
phận có liên quan khi tham gia giải quyết hồ sơ, công việc đối với tổ chức, công
dân.
Đồng thời với việc xác lập hệ thống quy trình chuẩn cho việc xử lý hồ sơ,
công việc nhiều cơ quan, đơn vị đã củng cố, đưa vào sử dụng mạng nội bộ, xây
dựng cơ sở dữ liệu dùng chung, bảo đảm khai thác hiệu quả các giao dịch điện tử
trong xử lý công việc của mọi cán bộ, công chức, viên chức; từng bước kết nối hạ
tầng kỹ thuật của cơ quan, đơn vị với mạng Internet để cung cấp thông tin và dịch
vụ hành chính công theo chức năng, nhiệm vụ. Việc ứng dụng phần mềm một cửa,

một cửa liên thông đang được triển khai tại xã, đã đem lại nhiều tiện ích cho người
sử dụng, chỉ cần cập nhật thông tin một lần nhưng có thể sử dụng cho nhiều việc từ
việc lập sổ theo dõi, viết giấy biên nhận, in văn bản phát hành theo mẫu quy định
cho đến việc truy xuất phục vụ cho việc thống kê, tổng hợp báo cáo được nhanh


chóng, kịp thời và đầy đủ, tạo thuận lợi cho việc theo dõi, kiểm tra, quản lý hồ sơ,
công việc của tổ chức, cá nhân, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho công tác quản
lý.
Kết quả việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO cùng
với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong việc tiếp nhận và trả kết quả hồ
sơ của tổ chức, cá nhân theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông đã làm cho việc
luân chuyển và xử lý hồ sơ, công việc của tổ chức, công dân trong nội bộ cơ quan,
đơn vị một cách rành mạch và rõ ràng hơn, từ khâu tiếp nhận, xử lý hồ sơ đến khâu
trả kết quả; trong mối quan hệ phối hợp giữa Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ
sơ với các bộ phận, cơ quan chuyên môn trực thuộc hoặc với các cơ quan, tổ chức
có liên quan; tạo ra sự thông suốt, hiệu quả trong quá trình xử lý; thời gian giải
quyết nhiều loại hồ sơ, công việc của tổ chức cá nhân đã được rút ngắn hơn nhiều
so với thời gian theo quy định.
Quy trình xử lý công việc rành mạch, trách nhiệm rõ ràng, quan hệ phối hợp
đồng bộ, giải quyết nhanh chóng hơn hồ sơ, công việc của dân đó là hiệu quả mang
lại của việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO, ứng dụng
công nghệ thông tin và cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục
hành chính.
Giải pháp nêu trên đã làm cho chất lượng và hiệu quả của việc giải quyết hồ
sơ, công việc của tổ chức, cá nhân được nâng cao một bước đáng kể đồng thời
cũng có thể nói đây là giải pháp quan trọng, thiết thực góp phần thúc đẩy công tác
cải cách thủ tục hành chính có hiệu quả của nhiều các cơ quan, đơn vị hành chính
nhà nước ở xã Tân Ninh hiện nay; giúp cải thiện được mối quan hệ hành chính nhà
nước với nhân dân; từng bước đáp ứng được mục tiêu của Chương trình tổng thể

cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 là: “Xây dựng một nền hành


chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả.."
Kết Luận
Công tác cải cách hành chính của xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh
Hóa trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận. Tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân, doanh nghiệp khi đến làm thủ tục hành chính. Tiểu luận đã
nghiên cứu hệ thống các khái niệm liên quan, thực trạng công tác cải cách thủ tục
hành chính ở xã hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp.
Tiểu luận được triển khai theo 3 chương:
-

Một số vấn đề lý luận về công tác cải cách thủ tục hành chính

-

Thực trạng công tác cải cách thủ tục hành chính ở xã Tân Ninh, huyện

Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay
-

Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác cải cách thủ tục hành

chính ở xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, Tỉnh Thanh Hóa
Để thực hiện tiểu luận này em đã có sự đầu tư, nghiên cứu về cả tri thức và
thời gian nhưng do vốn tri thức và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên chắc chắn
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ Qúy
thầy cô và các bạn. Em xin cảm ơn




×