Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận môn hệ thống quan điểm đổi mới và phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.69 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU......................................................................................................
B. NỘI DUNG...................................................................................................
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quần chúng nhân dân
trong phòng chống tham nhũng.
1.1

Một số khái niệm

1.2

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng ta về tham nhũng và phòng chống tham nhũng

1.3

Vai trò của quần chúng nhân dân đối với cuộc đấu tranh chống tham
nhũng

Chương 2: Thực trạng Quần chúng nhân dân đối với việc phòng chống
tham nhũng ở nước ta hiện nay
2.1. Một số nét về kinh tế- xã hội và thực trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay
2.2. Thực trạng Quần chúng nhân dân với đấu tranh chống tham nhũng trong
thời gian qua
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao vai trò của quần chúng nhân dân
trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay
3.1. Phát huy vai trò giám sát của các đoàn thể nhân dân
3.2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong đấu tranh chống tham nhũng
3.3. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong quần chúng nhân
dân


C. PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


PHẦN MỞ ĐẦU
Tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền lực Nhà nước để trục lợi cho
mục đích cá nhân đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người. Hiện
nay tham nhũng đã trở thành một trong những vấn đề bức xúc không chỉ ở
Việt Nam mà còn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh những thành tựu rất quan trọng về phát
triển kinh tế- xã hội, tình trạng tham nhũng, lãng phí cũng diễn ra khá phức
tạp, là một thách thức lớn cản trở công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Nó gây tác hại nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực: Làm suy yếu bộ máy
Đảng và Nhà nước, làm giảm lòng tin của nhân dân vào chế độ.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ
trương, đề ra nhiều giải pháp phòng chống tham nhũng, lãng phí và đã thu
được một số kết quả nhất định góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới đất nước. Tuy nhiên, tình hình tham nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng gây
bức xúc trong dư luận xã hội đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải đẩy mạnh đấu
tranh chống tham nhũng.
Trong cuộc đấu tranh này, quần chúng nhân dân giữ vai trò hết sức
quan trọng. Bởi quần chúng nhân dân là người chủ của xã hội, tham gia công
tác giám sát, kiểm tra việc xây dựng các quy chế, quy định của đơn vị, địa
phương; vào công tác thanh tra nhân dân; vào việc đóng góp ý kiến với
Đảng, Nhà nước về những vấn đề có liên quan đến tham nhũng, đấu tranh
chống tham nhũng thông qua các cơ quan dân cử, thông qua các cơ quan
thông tin đại chúng.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, tác giả chọn đề tài “Phát huy vai trò

của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta
hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình để thông qua nghiên cứu, phần nào
có thể làm rõ hơn vị trí, vai trò của quần chúng nhân dân trong đấu tranh
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.

2


B. NỘI DUNG
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quần chúng nhân dân
trong phòng chống tham nhũng
1.1.

Một số khái niệm

1.1.1 Quần chúng nhân dân là gì?
Nhân dân là bộ phận đông đảo những người thuộc nhiều giai cấp, tầng
lớp xã hội khác nhau, chủ yếu là những người lao động, phân biệt với bộ phận
khác là giai cấp và tầng lớp thống trị xã hội.Quần chúng nhân dân là khái
niệm chỉ bộ phận đông đảo nhân dân, phân biệt một cách tương đối dưới dạng
chủ thể con người chính trị với bộ phận khác là những người đứng đầu hay
lãnh tụ chính trị và đội ngũ tinh hoa (cán bộ lãnh đạo chính trị )
Quần chúng nhân dân là tập đoàn đông đảo những người liên hiệp với
nhau theo cùng một luật pháp và cùng một cộng đồng lợi ích nào đó. Họ là
chủ thể của mọi quyền lực xã hội nhưng lại là lực lượng bị cai trị trong quan
hệ với chính quyền nhà nước. Quần chúng nhân dân là một lực lượng xã hội
có sức mạnh tự nhiên. Khi đựơc tổ chức lại, giữ vai trò quyết định trong đời
sống chính trị và những biến cố chính trị.
1.1.2 Tham nhũng là gì?
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội có từ rất lâu trong lịch sử loàii

người. Thuật ngữ tham nhũng theo cách hiểu thông thưòng hiện nay là để chỉ
những hành vi tiêu cực của cá nhân, tổ chức và của công dân để thoả mãn
lòng tham, tính vụ lợi cá nhân.
Theo từ điển tiếng việt xuất bản 2002: “Tham nhũng là lợi dụng quyền
hành để nhũng nhiễu dân, lấy của dân”
Tại kỳ họp thứ 7, quốc hội khoá XI, hai dự luật chống lãng phí và
phòng chống tham nhũng đã được đưa ra thảo luận lấy ý kiến của nhân dân đã
nhấn mạnh: “Tham nhũng là những hành vi của người có chức vụ quyền hạn
để thực hiện hành vi trái pháp luật để vụ lợi”
Trên cơ sở tìm hiểu và kế thừa quan niệm của tham nhũng ta có thể hiểu
khái niệm tham nhũng như sau: “Tham nhũng là hành vi của người có chức
vụ, quyền hạn, lợi dụng quyền lực không bị kiểm soát để chiếm đoạt tài sản
của nhà nước, của tổ chức, cá nhân làm của riêng cho mình nhằm thoả mãn
3


long tham, sự ham muốn lợi ích cá nhân, gây thiệt hại tài sản nhà nước ,tập
thể, cá nhân”.
1.1.3 Chống tham nhũng là gì?
Tham nhũng là một hành động tiêu cực đã và đang cản trở, gây tác động
xấu đến công cuộc xây dựng đất nước. Có thể nói tham nhũng là cái nhọt bọc
sinh trưởng trên cơ thể xã hội. Do đó phải cắt bỏ cái nhọt bọc này để làm cho
cơ thể xã hội ngày càng phát triển lành mạnh hơn, tốt đẹp hơn.
Nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội nên cuộc đấu
tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái
là một nội dung cơ bản của đấu tranh giai cấp.
Đại hội IX của đảng cộng sản Việt Nam khẳng định tình trạng tham
nhũng và sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức của người cán bộ chính trị, lối
sống tư hữu, tư nhân, lạm dụng quyền hành để vơ vét của cải của nhà nước và
nhân dân là một trong bốn nguy cơ đe doạ đến sự tồn vong của chế độ.

Chính vì vậy để giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
nhân dân, đảng ta cần đề ra những chủ trương, chính sách, biện pháp đúng đắn
phù hợp. Đảng phải lãnh đạo toàn dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh
chống tham nhũng những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, làm sai trái
pháp luật để thu lợi bất chính hoặc nhũng nhiễu nhân dân, xã hội có lành
mạnh, bộ máy Đảng, nhà nước có trong sạch, thì các yếu tố tích cực mới có
điều kiện phát huy, nhân rộng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.4. Hậu quả và tác hại của tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội có ảnh hưởng tiêu cực tới tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội.
Về kinh tế : Tham nhũng làm thất thoát công quỹ, năng suất lao động
giảm, thậm chí có thể triệt tiêu động lực lao động. Trước mắt tham nhũng
chẳng những bóc lột người lao động mà còn về lâu dài khi công quỹ bị thâm
hụt chúng ta phải vay để phát triển và tất nhiên con cháu chúng ta phải gánh
chịu những khoản nợ khổng lồ đó. Hậu quả này chúng ta có thể nhìn thấy rất
rõ ở một số nước châu phi.
Về chính trị -xã hội:
4


Tham nhũng làm gia tăng sự phân hoá giàu nghèo, ảnh hưởng xấu đến
giá trị chuẩn mực xã hội, là nguyên nhân dẫn đến tệ lãng phí và cũng là nguồn
cơn dẫn đến sự sa đoạ về đạo đức, lối sốngcủa cán bộ đảng viên.
Tham nhũng sẽ làm mất long tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và
chế độ xã hội chủ nghĩa.
Như vậy tham nhũng có thể làm hỏng đời sống, kinh tế,xã hội, thậm chí
làm tăng tình trạng nợ nần, bần cùng hoá của đất nước và không loại trừ khả
năng làm đổ vỡ chính quyền, đánh mất chủ quyền, quốc gia, dân tộc.
Hiện nay ở nước ta tham nhũng đang trở thành bệnh dịch lây lan phổ

biến ở mọi cấp, mọi ngành…Tham nhũng thậm chí còn “lây lan” ở các cơ
quan bảo vệ pháp luật. Tham nhũng đã trở thành “quốc nạn” và là một trong
bốn nguy cơ đe doạ sự tồn vong của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy đấu tranh chống tham nhũng được Đảng ta coi là nhiệm vụ cấp
bách hiện nay.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và của Đảng ta về tham nhũng và phòng chống tham nhũng.
1.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Theo chủ nghĩa Mác –Lênin, tham nhũng là một hiện tượng xã hội,
nó xuất hiện khi xã hội có giai cấp và nhà nước. Trong xã hội chiếm hữu nô
lệ sự đấu tranh giữa hai giai cấp chủ nô và nô lệ diễn ra gay gắt nó không
chỉ dẫn tới nguy cơ tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để
thảm hoạ đó không diễn ra thì nhà nước được ra đời để bảo vệ lợi ích chung
của cộng đồng. Sau đó, với các thiết chế riêng của mình nhà nước dần trở
thành một công cụ hữu ích để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Và như
vậy từ khi ra đời với ý nghĩa là “ tôi tớ” của xã hội thì nay nhà nước trở
thành “chủ nhân” của xã hội.
Cùng với nhà nước, giai cấp thống trị muốn duy trì quyền lực của
mình thì cần phải có hệ thống các cơ quan pháp luật như binh lính, quân
đội, viên chức chuyên làm công việc hành chính. Các cơ quan này được
thành lập là do từ dân mà ra nhưng nó ngày càng thoát khỏi nhân dân và
đứng đối lập với nhân dân.

5


Bộ máy nhà nước cùng với các cơ quan quyền lực của giai cấp thống trị
tồn tại được là nhờ sự chu cấp của dân bằng tự nguyện hoặc cưỡng bức. Và
đây chính là nguyên nhân sâu sa của tệ quan liêu, tham nhũng.
Theo Lênin thì tham nhũng, quan liêu là kẻ thù nguy hiểm đe doạ đến

sự tồn vong của mọi nhà nước. Trong đó nhà nước xã hội chủ nghĩa ông cũng
khẳng định nạn tham nhũng, hối lộ cùng với bệnh kiêu ngạo cộng sản chủ
nghĩa, nạn mù chữ là một trong ba nguy cơ lớn của xã hội. Và theo Lênin phải
luôn nhắc nhở cán bộ Đảng và nhà nước cần hiểu rằng cuộc đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng là tuyệt đối cần thiết và cũng phức tạp như cuộc đấu
tranh chống xu thế tự phát tiểu tư sản. Lênin cũng đã miêu tả những biện pháp
để khắc phục như các cán bộ đảng viên cộng sản phải công minh, gương mẫu
giữ gìn kỷ cương phép nước làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh có uy tín
trong quần chúng.
1.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tham nhũng và phòng chống tham
nhũng
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí,quan liêu là giặc “nội xâm”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “tham ô,lãng phí, bệnh quan liêu dù có ý hay
không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Tội lỗi ấy cũng
nặng như tội lỗi việt gian, mật thám”.
Vì thế Người thường căn dặn cán bộ chính quyền luôn phải kiên quyết
chống tệ quan liêu, tham nhũng, hối lộ, ức hiếp quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cúng đã chỉ ra một số hành vi tham nhũng mà cán bộ nhà nước đã mắc
phải như tham ô của công, đục khoét của dân, lợi dụng của công ăn hối lộ…
Những ngày đầu lãnh đạo Đảng và nhân dân xây dựng đất nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: tiêu cực, tham ô sẽ gây ra hậu quả khôn
lường cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội “nó làm hỏng tinh thần trong sạch
phá hoại đạo đức cách mạng của Đảng ta là cần, kiệm, liêm, chính…mà
những kẻ tham ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức
lực, tiêu hao của cải của chính phủ và của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh đó là những căn bệnh xấu xa của xã hội do lòng tự tư, tư lợi, ích kỉ
hại nhân dân mà ra. Nó được hình thành bởi chế độ người bóc lột người vì vậy
chúng ta muốn xây dựng một xã hội mới, một xã hội tự do bình đẳng, một xã
6



hội cần, kiệm , liêm, chính, cho nên chúng ta phải tẩy cho sạch hết các thói
xấu của xã hội cũ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề chống tham nhũng như một nhiệm
vụ cấp bách nhằm làm trong sạch đội ngũ cán bộ của Đảng, nhà nước.
Người coi “chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và
cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận, đây là mặt trận tư tưởng và chính
trị” bởi vì “chúng ta chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách tăng
gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác
nào gió vào nhà trống. Cho nên phải giữ gìn của công. Tham ô, lãng phí
tài sản của nhà nước, của tập thể của nhân dân là hành động trộm cắp mà
ai cũng phải thù ghét phải từ bỏ”.
Về biện pháp đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu Hồ Chí Minh chỉ
rõ chống tham ô, lãng phí cần dựa vào quần chúng mới thành công. Phải động
viên quần chúng, làm cho quần chúng hiêur rõ và hăng hái tham gia thì mới
chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy
đủ, mau chóng.
1.2.3 Quan điểm của Đảng ta về phòng chống tham nhũng
Trên nền tảng quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, kế thừa và nhất quán
với tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh chống tham nhũng, cùng với sự nhận
thức một cách đầy đủ, sắc bén về diễn biến phức tạp về mối nguy hại của
tham nhũng đối với quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong gíai đoạn hiện nay. Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng đã chỉ
đích danh tội tham nhũng, sự cần thiết phải nghiêm trị những kẻ tham nhũng.
Ngày 12/09/1987 Bộ chính trị đã ra nghị quyết 4 về “ cuộc vận động làm
trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy nhà nước”,
và nghị quyết 8b ban chấp hành trung ương Đảng khoá VI đã yêu cầu phải coi
chống tham nhũng là ưu tiên hàng đầu trong cuộc đấu tranh chống các hiện
tượng tiêu cực trong giai đoạn hiện nay.
Hôị nghị trung ương Đảng lần VI (tháng 10/1998) và lần VII (tháng

8/1999) ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII, Đảng ta đã phê phán nạn

7


quan liêu, tham nhũng nghiêm trọng, kéo dài, và lãng phí nặng nề của bộ máy
nhà nước, gây bất bình trong nhân dân đe doạ sự sống còn của chế độ.
Báo cáo của chính phủ trước kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá IX đã nhânj
định: “ Bộ máy hành chính nhà nước cồng kềnh, thiếu trong sạch, kém năng
lực và hiệu lực. Tệ quan liêu tham nhũng còn nặng, gây khó khăn và thiệt hại
cho dân”.
Trong báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng, sau khi phân tích 4
nguy cơ đối với đất nước, chế độ, Đảng ta đã nhấn mạnh: “ Tình trạng tham
nhũng và suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối chủ trương
chính sách của Đảng, gây bất bình và giảm lòng tin trong nhân dân. Do đó,
sau đại hội IX, Đảng ta ra nghị quyết lần 4 (tháng 11/2001) chỉ rõ phải tiếp tục
thực hiện nghị quyết lần VI của Ban chấp hành trung ương khoá VIII. Hội
nghị cũng đề xuất 6 nguyên nhân và 10 giải pháp. Hội nghị ban chấp hành
trung ương lần thứ 9 tiếp tục nhấn mạnh: “điều làm cho dân còn nhiều bất
bình, lo lắng, bức xúc nhất hiện nay là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và phẩm chát đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên còn rất nghiêm trọng. Kỷ cương phép nước trong
nhiều việc, nhiều lúc chưa nghiêm.
Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI các đại biểu Quốc hội đã thảo luận
nghiêm túc về dự luật phòng chống tham nhũng và dự án luật thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) cũng chỉ rõ
“ tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi
bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng, nhằm xây dựng một bộ

máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh khắc phục một trong những
nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta” và yêu cầu “phải thi hành
một cách kiên quyết và đồng bộ hệ thống các biện pháp phòng chống tham
nhũng, lãng phí”.
Có thể khẳng định rằng các văn kiện, văn bản nêu trên đều thể hiện tinh
thần quyết tâm chống tham nhũng của Đảng ta, trong đó nhấn mạnh cuộc đấu

8


tranh này phải được đẩy mạnh trong toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các
ngành từ trung ương đến địa phương.
1.3. Vai trò của quần chúng nhân dân đối với cuộc đấu tranh chống
tham nhũng.
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đổi mới với đường lối phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo
ra 1 động lực lớn để nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, bên
cạnh những mặt mạnh ấy thì cũng bộc lộ những mặt tiêu cực. Tâm lý chạy
theo lợi nhuận bất chấp đạo đức, pháp luật. Từ đó dẫn đến sự phân hoá giàu
nghèo, phân tầng xã hội gia tăng, công bằng xã hội bị vi phạm. Cơ chế thị
trường đã thúc đẩy lòng tham, tính vụ lợi của 1 bộ phận không nhỏ cán bộ
đảng viên làm suy thoái về đạo đức và phẩm chất dẫn đến tệ tham nhũng phát
triển với nhiều thủ đoạn càng tinh vi, quy mô phức tạp.
Xác định rõ vai trò của quần chúng nhân dân, chủ tịch Hồ Chí Minh
khái quát “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Ngày nay sức mạnh của quần chúng nhân dân không chỉ xuất phát từ lòng yêu
nước, cần cù, dũng cảm, đoàn kết gắn bó cộng đồng mà họ còn là những
người năng động, sáng tạo, được nhân lên bởi quyền và ý thức làm chủ trong
xã hội mới.
Với vị trí của mình quần chúng nhân dân trở nên vô cùng quan trọng

trong công cuộc phòng chống tham nhũng.

Chương 2: Thực trạng Quần chúng nhân dân đối với việc phòng
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay
2.1 Một số nét về kinh tế- xã hội và thực trạng tham nhũng ở nước
ta hiện nay
2.1.1 Tình hình kinh tế- xã hội.
9


Tại Đại hội X (tháng 4/2006), Đảng ta đã đánh giá 20 năm đổi mới và
khẳng định: “Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử”.
Đất nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội có sự
thay đổi căn bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đang được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân đang được cải thiện rõ rệt, hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, tăng cường.
Chính trị xã hội được ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững. Vị thế của
nước ta trên trường quố tế không ngừng được nâng cao, mở ra thế và lực mới
cho đát nước tiếp tục đi lên. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ.
Tuy nhiên, nước ta hiện nay cũng đang đứng trước nhiều thách thức lớn
đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với một số nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liên, tham nhũng, lãng phí vẫn đang
diễn ra nghiêm trọng và chưa được ngăn chặn hiệu quả. Những biểu hiện xa
rời mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực

thù địch vẫn ra sức thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” gây bạo loạn lật
đổ, hòng thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Sở dĩ tồn tại những khó khăn trên, bên cạnh nguyên nhân khách quan
thì nguyên nhân chủ quan có ảnh hưởng to lớn đòi hỏi chúng ta đoàn kết, nhất
trí một lòng ra sức khắc phục những nguyên nhân đó là:
Về lý luận còn chưa đủ sức lý giải nhiều bức xúc mà xã hội đặt ra như
giải quýêt quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo duy
nhất của một Đảng- Đảng Cộng Sản đối với nhà nước…nên từ đó chưa đưa ra
được những giải pháp mang tính đột phá, khiến chúng ta lúng túng trong việc
giải quyết các quyết sách phát triển kinh tế xã hội.

10


Về thực tiễn, nền kinh tế nước ta phát triến chậm, nhiều vấn đề văn hoá,
xã hội còn bức xúc. Nạn quan liêu tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính
trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng còn chưa ngang tầm đòi hỏi.
Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi còn bị vi phạm. Lòng tin của nhân
dân đối với cuộc đấu tranh chống tham nhũng chưa được củng cố vững chắc.
Những hạn chế nêu trên đã ảnh hưởng tiêu cực tới qúa trình phát triển
của đất nước nói chung và cũng là một trở ngại đòi hỏi chúng ta phải vượt qua
trong cuộc chiến phòng chống tham nhũng nói riêng, trong đó vai trò của quần
chúng nhân dân đóng góp một vị trí quan trọng.
2.1.2. Thực trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay
Ở nước ta tệ tham nhũng đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng đặc biệt nghiêm
trọng là từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế,
mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tham nhũng có nhiều biểu hiện phức
tạp, diễn ra trên nhiều lĩnh vực không chỉ ở kinh tế mà còn xâm nhập vào cả

các cơ quan bảo vệ pháp luật như công an, thanh tra, kiểm soát, toà án và vào
cả các lĩnh vực nhạy cảm liên quan trực tiếp tới con người như giáo dục đào
tạo…
Chính vì thế, vấn đề tham nhũng đã được nêu ra khá gay gắt ở nhiều
khoá quốc hội, nhiều nhiệm kỳ của chính phủ và gây bức xúc cho toàn xã hội.
Tham nhũng trở thành nguy cơ lớn đe doạ đến sự sống còn của chế độ.
Theo số liệu thống kê của hội nghị báo cáo tổng kết năm năm thực hiện
chương trình quốc gia phòng chống tội phạm thì trong năm năm (2002-2006).
Các lực lượng điều tra đã khám phá ra 266.297 vụ phạm tội các loại, triệt phá
163.458 băng ổ nhóm tội phạm hình sự, phát hiện và bắt giữ 6.712 vụ xâm
phạm tài sản nhà nước lợi dụng chức quyền để làm giàu cho bản thân. Theo số
liệu thống kê thì số người bị khởi tố vì lợi dụng quyền hạn, chức vụ chiếm
đoạt tài sản chủ nghĩa xã hội hàng năm chiếm tỷ lệ 8 đến 10% trong tổng số
tội phạm nói chung.
Tham nhũng không chỉ dừng lại ở lĩnh vực đầu tư mà còn ở nhiều lĩnh
vực, ở nhiều cấp quản lý. Những con số thiệt hại của nhà nước thu được trong
nhiều vụ tham nhũng liên tục bị phát hiện gần đây thể hiện tính nghiêm trọng
11


và phưc tạp của vấn đề. Vụ án Minh Phụng chiếm đoạt 3.876 tỷ đồng của nhà
nước, vụ án Năm Cam lôi kéo 156 cán bộ có quyền, có chưc như công an, nhà
báo,… vụ án Lã Thị Kim Oanh lôi kéo những người có chức có quyền như
thứ trưởng, bộ trưởng… đã bị thoái hoá biến chất. Và nhiều vụ án khác như vụ
trốn thuế của công ty Đông Nam Á và buôn lậu 840 tỷ đồng. Gần đây nhất là
vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn của cán bộ thị xã Đồ Sơn- Hải Phòng tham
nhũng đất đai gây thiệt hại 23 tỷ đồng. Tiếp đó là vụ Mai Văn Dâu- thứ trưởng
Bộ thương mại lợi dụng chúc vụ tham ô, nhận hối lộ gây thiệt hại nghiêm
trọng. Tham nhũng còn xẩy ra ở nhiều nơi trên nhiều lĩnh vực khác nhau gây
hậu quả nghiêm trọng, kìm hãm sự phát triển của đất nước, làm mất lòng tin

của nhân dân. Đúng là “quốc nạn” như đại hội Đảng toàn quốc lần VIII, IX, X
đã khẳng định.
Qua các báo cáo sơ kết, tổng kết hàng năm, hàng quý và các báo cáo
trước quốc hội, trước hội đồng nhân dân của các cơ quan pháp luật đều nêu
chung một nhận xét: 1- nội dung, tính chất và mức độ tham nhũng hiện nay
diễn ra rất nghiêm trọng và nguy cơ gây mất ổn định chính trị; 2-Tính phổ
biến của tham nhũng cao, xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương.
Chủ thể tham nhũng là những người có địa vị xã hội cao. Thủ đoạn ngày càng
tinh vi; 3-Tỉ lệ phát hiện tham nhũng còn thấp do ảnh hưởng của quan niệm
cũ, lạc hậu. Quan niệm chống tham nhũng chung chung thì nhiều nhưng đi
vào từng trường hợp cụ thể lại chần chừ thiếu quyết tâm.
Hiện nay, sự nghiệp cách mạng của chúng ta xây dựng một xã hội dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do đó tệ tham nhũng
là không thể tồn tại. Chính vì vậy, chúng ta phải đoàn kết toàn Đảng, toàn dân
để cùng nhau phòng chống “quốc nạn” này.
2.2. Thực trạng Quần chúng nhân dân với đấu tranh chống tham
nhũng trong thời gian qua.
2.2.1. Những thành tựu của quần chúng nhân dân trong đấu tranh
chống tham nhũng ở nước ta thời gian qua.
Nhận thức rõ chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của Đảng và nhà nước, quần chúng nhân dân đã tích cực tham gia và có
những đóng góp quan trọng việc chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng
12


chính trị phẩm chất đạo đức, lối sống. Chống tham nhũng, quan liêu, xa rời
quần chúng gây mất đoàn kết trong nhân dân và đạt được những kết quả
không nhỏ.
Thứ nhất: Đảng, nhà nước, các đoàn thể và nhân dân nhận thức được
tầm quan trong đặc biệt của cuôc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực trong

phát triển kinh tế -xã hội nhằm củng cố niềm tin của nhân dân và chống âm
mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới và đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng với nhiệm vụ lãnh đạo phát triển kinh tế-xã
hội, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm chú trọng nhiệm vụ đấu tranh chống tham
nhũng, quan liêu, lãng phí; coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu trong toàn bộ công tác lãnh đạo, quản lý của Đảng và các đoàn thể
nhân dân từ trung ương đến cơ sở.
Đảng ta luôn nhấn mạnh: đấu tranh chống tham nhũng có mối quan hệ
trực tiếp đến việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước. Chống
tham nhũng có hiệu quả sẽ làm hạn chế thất thoát các nguồn lực của Nhà
nước, của xã hội; tăng cường được mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân
dân; củng cố được quan hệ công- nông- trí thức, củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ đựơc nâng cao;
kẻ địch khó có thể thực hiện “Diễn biến hoà bình” chia rẽ nội bộ chúng ta.
Đảng, Nhà nước ta đã xác định và nhận thức rõ đấu tranh chống tham
nhũng chính là góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu
lực quản lý Nhà nước, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh,
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, củng cố và bảo vệ những thành tựu của
sự nghiệp đổi mới.
Các cấp uỷ Đảng, chính quyền lãnh đạo và triển khai thực hiện kịp thời
một số nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng.
Thứ hai: Nhân dân tham gia ngày càng tích cực vào công tác giám sát,
kiểm tra việc xây dựng các quy chế, quy định của đơn vị, địa phương.
Với việc phát huy dân chủ, nhất là từ khi triển khai thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở, sự tham gia của nhân dân đã có những hiệu quả rõ rệt, góp
13



phần phòng ngừa, phát hiện đấu tranh chống tham nhũng. Tất cả các địa
phương đã căn cứ vào Nghị Định 29- NĐ/CP và tình hình thực tế, tiến hành rà
soát, bổ sung hoặc xây dựng mới các quy chế, quy định thực hiện quy chế dân
chủ trên từng lĩnh vực. Các quy chế, quy định tập trung vào các nội dung
chính ở cơ sở là: quy chế làm việc của Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; quy chế quản lý đất
đai, tài chính, xây dựng cơ bản; quy chế tiếp dân và giải quyế đơn khiếu nại tố
cáo của công dân, quy chế về giải toả mặt bằng làm đường giao thông và xây
dựng khu công nghiệp…
Đến nay đã có 90% xã, phường, thị trấn; 80% cơ quan hành chính sự
nghiệp và doanh nghiệp Nhà nước đã triển khai, xây dựng, thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở. Những việc cần thông báo để nhân dân biết có 14 nội dung
đã được phần lớn các xã, phường, thị trấn thực hiện khá tốt, tập trung chủ yếu
vào các vấn đề: chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng; bộ luật
hình sự, dân sự, luật đất đai, thuế nhà đất; các văn bản quản lý đất đai, tài
chính, quỹ hợp tác xã nông nghiệp; các quy định về khuyến công- nông- ngưthương và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp; các văn
bản liên quan đến lĩnh vực văn hoá, xã hội và các quy định về thủ tục hành
chính, lệ phí và thời gian giải quyết từng công việc; lịch tiếp dân và phân công
cán bộ tiếp dân; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Hình thức
thông báo đa dạng như: bằng văn bản niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân;
tiếp xúc cử tri đối với đại biểu Hội đồng nhân dân; triển khai tại các cuộc họp
hội đồng nhân dân, đoàn thể và họp để nghe phổ biến và tham gia xây dựng
quy chế đạt từ 70- 80% đại diện hộ có nơi hơn 90%.
Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp gồm: mức đóng góp
xây dựng cơ sở hạ tầng, lập và thu, chi các loại quỹ xây dựng, quy ước, hương
ước làng, xã văn hoá; dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp. Thành lập ban giám
sát công trình từ nguồn vốn do dân tự nguyện đóng góp và bảo vệ sản xuất
được thực hiện nghiêm túc theo phương thức họp thôn, làng, tổ dân phố hoặc
phiếu lấy ý kiến của hộ gia đình, tạo sự đồng tình thống nhất cao của nhân dân
và thực hiện có kết quả.


14


Thứ ba: Nhân dân tham gia tích cực, chủ động vào công tác thanh tra
nhân dân.
Nhân dân đã tham gia tích cực vào việc tiến hành thanh tra như cử đại
diện tham gia đoàn thanh tra, cung cấp tài liệu, chứng cứ, tham gia góp ý kiến,
thông qua kết luận thanh tra và xử lý sau thanh tra, góp phần quan trọng trong
việc phát hiện ra các vụ việc tham nhũng, tiêu cực, giải quyết ổn định tình
hình cơ sở ở các địa phương. Điển hình như ở Thái Bình, hầu hết các đoàn
thanh tra diện rộng thành lập theo nghị quyết 06 của tỉnh uỷ và kế hoạch 77
của Uỷ ban nhân dân tỉnh đều có sự tham gia của nhân dân, chính vì vậy việc
phát hiện những vi phạm ở cơ sở luôn đảm bảo tính chính xác, khách quan,
khi kết luận thanh tra cơ bản được nhân dân đồng tình ủng hộ. Tại các địa
phương nhân dân tích cực tham gia vào công tác thanh tra nhằm thực hiện
quyền lợi và nghĩa vụ công dân đối với việc xây dựng Đảng, chính quyền ở
địa phương. Trong các doanh nghiệp nhiều ban thanh tra nhân dân đã được
kiện toàn đi vào hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ bước đầu có hiệu
quả như ban thanh tra nhân dân xí nghịêp điện quang Đồng Nai đã phát hiện
Giám đốc nâng khống 87.700 lít xăng trị giá 254 triệu đồng.
Trong những năm qua. mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng nhân dân ở
các địa phương đã bàn bạc dân chủ, tự nguyện đóng góp hàng trăm tỷ đồng
xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi ở nông thôn.
Tại tỉnh Cần Thơ, trong 3 năm (1998-2000) nhân dân đã đóng góp xây dựng
2.600 công trình trị giá 397 tỷ đồng tăng gấp 2 lần thời kỳ 8 năm (1990-1997);
phường Nghi Tân, thị xã Cửa Lò tỉnh Nghệ An làm đường nhựa, nhân dân
đóng góp 400 triệu đồng, có gia đình cho vay 20 triệu đồng không lấy lãi;
thành phố Đà Nẵng di dời 18.000 hộ dân với trên 80.000 nhân khẩu để giải
phóng mặt bằng xây dựng công trình đo thị nhưng cũng không để xảy ra khiếu

kiện tập thể. Rõ ràng, ở nơi nào nhân dân được tạo điều kiện để tham gia tích
cực và chủ động vào công tác thanh tra các cấp, nơi đó tham nhũng và tiêu
cực khó có “mảnh đất” để phát triển; đồng thời nhiều vấn đề kính tế, xã hội
của địa phương, đơn vị được giải quyết và phát triểnl; tình hình chính trị được
ổn định.

15


Thứ tư: Nhân dân tích cực tham gia đóng góp ý kiến với Đảng, Nhà
nước về những vấn đề phát triển kinh tế- xã hội và những vấn đề có liên quan
đến tham nhũng, đấu tranh chống tham nhũng thông qua các cơ quan dân cử.
Nhân dân đã nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc tham gia đóng góp
ý kiến với Đảng và Nhà nước về chủ trương, chín sách, xây dựng và sửa đổi
luật; về phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội
của Đảng, Nhà nước và của các địa phương; góp ý kiến về hoạt động của Hội
đồng nhân dân các cấp, về lựa chọn ứng cử viên Hội đồng nhân dân, về nhân
sự đại hội Đảng, đoàn thể ở cơ sở. Thực tế những năm qua, nhất là trước đại
hội đại biểu toàn quốc của Đảng, nhân dân đã tích cực đóng góp ý kiến và xây
dựng báo cáo chính trị của đại hội, đóng góp ý kiến xây dựng một số chính
sách của Nhà nước.
Đây thực sự là những hoạt động chính trị nhằm mở rộng quyền làm chủ
cho nhân dân, vì vậy đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.
Đồng thời, nhân dân tham gia ngày càng có hiệu quả vào quá trình giám sát
hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, của đại biểu Hội
đồng nhân dân, cán bộ, đảng viên; giám sát kiểm tra việc thu chi các quỹ,
quản lý và sử dụng đất đai, xây dựng và nghiệm thu, quyết toán công trình từ
nguồn vốn do nhân dân đóng góp.
Công tác giám sát, kiểm tra của nhân dân còn được thực hiện thông qua
việc dự các cuộc họp thôn, đoàn thể, ban thanh tra nhân dân và các tổ kiểm tra

do nhân dân bầu ra. Sự giám sát, kiểm tra đó đã góp phần nâng cao trách
nhiệm của chính quyền, của cán bộ, hạn chế được tham nhũng, tiêu cực tạo sự
phấn khởi tin tưởng trong nhân dân.
Thứ năm: Nhân dân trực tiếp đấu tranh chống tham nhũng thông qua
việc khiếu nại, tố cáo và thông qua các diễn đàn nhân dân, nhất là bằng các
phương tiện thông tin đại chúng.
Ngoài việc đóng góp ý kiến trực tiếp với cán bộ, đảng viên ở các cấp,
ngành, người dân còn gửi thư, đơn đến các cơ quan chức năng, cơ quan thông
tin báo chí ở trung ương và địa phương góp ý, phát hiện những sai phạm về
kinh tế, tham nhũng, tiêu cực. Trước sự đấu tranh chống tham nhũng mạnh mẽ
của nhân dân và tránh dẫn đến mất ổn định tình hình, Đảng và Nhà nước ta đã
16


chỉ đạo các cấp, các ngành và các đoàn thể quần chúng khẩn trương chấn
chỉnh, kiện toàn, củng cố công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố
cáo của công dân. Đặc biệt hầu hết các cơ quan, đơn vị, địa phương đều đã bố
trí cán bộ, phương tiện, trụ sở tiếp công dân cũng như rà soát, bổ sung, hoặc
xây dựng các quy chế, quy định nhằm khắc phục tình trạng gây phiền hà, sách
nhiễu; phân công lãnh đạo phụ trách; một số nơi có hòm thư góp ý để thu thập
ý kiến của cán bộ, nhân dân. Trong 5 năm từ 2001-2005 cả nước đã tiếp 1,4
triệu công dân khiếu tố, riêng trụ sở tiếp dân của Đảng và Nhà nước ở Hà Nội
và TP Hồ Chí Minh đã tiếp gần 100.000 lượt công dân, trong đó có 2.492 lượt
tiếp đoàn đông người.
Công tác tiếp và giải quyết khiếu tố của công dân trên toàn quốc cho
thấy: cơ bản việc khiếu tố của nhân dân là đúng, các hiện tượng tham nhũng,
mất dân chủ ở cơ sở là có thực và thực sự là nguyên nhân gây bức xúc cho
nhân dân. Theo dữ liệu của một số kỳ họp quốc hội những năm qua cho thấy,
trong số những đơn tố cáo của nhân dân thì có 90% là đúng sự thật, chỉ có
10% là không đúng hoàn toàn. Tuy nhiên, do mở rộng dân chủ, nhân dân được

tự do khiếu tố, trong khi sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên có hiện tượng
gia tăng tỷ lệ khiếu nại sai, không đúng với bản chất sự việc, gây phức tạp và
khó khăn cho các cơ quan Nhà nước khi giải quyết khiếu nại tố cáo.
Sự tham gia của nhân dân vào công tác đấu tranh chống tham nhũng
còn thể hiện thông qua các diễn đàn nhân dân như báo nói, báo viết, báo hình.
Các phương tiện thông tin đại chúng đã giúp truyền tải kịp thời các chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước nói chung và thông tin đấu
tranh chống tham nhũng nói riêng đến các tầng lớp nhân dân, giúp nhân dân
nhận thức rõ tầm quan trọng tính chất khó khăn của cuộc đấu tranh và quyết
tâm của Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực này.
Nhờ có sự tham gia tích cực và rộng rãi của nhân dân vào công tác
thanh tra, giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp mà nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực
được phát hiện và đưa ra xử lý. Có thể nói, những năm gần đây tình hình tham
nhũng, tiêu cực ở nước ta trong một số lĩnh vực đã giảm đáng kể nhất là ở cơ
sở. Những sai phạm trong quản lý đất đai được khắc phục về cơ bản, công tác
quản lý đất đai từng bước đi vào kỷ cương, nề nếp. Tham nhũng, tiêu cực
17


trong lĩnh vực ngân hàng giảm rõ rệt; công tác xây dựng cơ bản hạn chế được
sai phạm nghiêm trọng; việc thực hịên chính sách xã hội có nhiều chuyển biến
tích cực. Phần đông đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã cơ bản khắc phục được tệ
quan liêu. lối sống hưởng thụ, vun vén cá nhân và đã sâu sát, gần dân hơn.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và quy chế dân chủ được coi trọng.
Nhân dân đã hiểu rõ hơn về dân chủ, quyền lợi và nghĩa vụ công dân trong đời
sống xã hội.
Những kết quả nêu trên cho thấy, quần chúng nhân dân có vai trò quan
trọng trong phòng chống tham nhũng. Đạt được những kết quả nêu trên là do
những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: Có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất của Đảng và

Nhà nước ở trung ương cũng như các cấp uỷ đảng và chính quyền các địa
phương. Từ nhận thức được mối nguy hiểm của thứ giặc “ nội xâm” và nắm
bắt được nhu cầu, nguyện vọng dân chủ của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta
đã coi đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn
hiện nay. Các cấp uỷ, chính quyền các địa phương đã ban hành nghị quyết, chỉ
thị trực tiếp về công tác đấu tranh tham nhũng và chỉ đạo triển khai, kiểm tra,
đôn đốc, bổ khuyết kịp thời có hiệu quả, Các cấp uỷ đảng, chính quyền các
địa phương đã quan tâm triển khai việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở một
cách đồng bộ ở tất cả các cơ sở xã, phường, thị trấn, doanh nghiệp…các vụ
việc tham nhũng thì được quần chúng nhân dân phát hiện và các cơ quan chức
năng có kêt luận đã được xử lý nghiêm minh, công bằng.
Thứ hai: Trình độ dân trí, sự hiểu biết về dân chủ, pháp luật, quyền lợi,
nghĩa vụ và trách nhiệm công dân của người dân đã được nâng cao. Nhân dân
đã phát huy vai trò, trách nhiệm công dân trước yêu cầu của nhiệm vụ cách
mạng giai đoạn mới; dũng cảm cùng với báo chí, các cơ quan tư pháp quyết
tâm đấu tranh chống tệ tam nhũng đang có nguy cơ đưa đất nước đi chệch
hướng.
2.2.2. Những hạn chế của quần chúng nhân dân đối với phòng
chống tham nhũng ở nước ta trong thời gian qua và nguyên nhân.
Bên cạnh những kết quả mà quần chúng nhân dân đạt được, vẫn còn
nhiều hạn chế trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng.
18


Thứ nhất: Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng chưa mạnh mẽ,
rộng khắp trong nhân dân. Có nơi chính quyền chưa thật tin ở dân, không tạo
điều kiện cho dân thực hiện quyền dân chủ nhất là quyền dân chủ trực tiếp;
điều kiện cơ sở vật chất để họp dân còn nhiều khó khăn, việc tiếp xúc, đối
thoại với dân còn nhiều hạn chế. Một số nơi mặc dù có địa điểm tiếp dân
nhưng hầu như không hoạt động hoặc nếu có thì chỉ hạn chế trong một thời

gian nhất định.
Thứ hai: Trong việc thực hiện phương châm: dân biết, dân bàn, dân
tham gia góp ý kiến và dân kiểm tra thì việc tổ chức để dân giám sát, kiểm tra
còn yếu, cơ chế cho việc kiểm tra chưa rõ. Hoạt động của ban thanh tra nhân
dân ở các loại hình cơ sở còn mang tính chất hình thức, hiệu quả thấp. Nhiều
vấn đề dân cần, dân bức xúc chính quyền có quan tâm nhưng chậm có biện
pháp giả quyết dứt điểm. Một bộ phận cán bộ, công chức và nhân dân ngại
tham gia đóng góp ý kiến với lãnh đạo, còn biểu hiện xuôi chiều, coi trọng
quyền lợi cá nhân, xem nhẹ nghĩa vụ trách nhiệm. Nếu so sánh về khu vực
triển khai và thực hiện quy chế dân chủ thì khối nông thôn tốt hơn khối cơ
quan, doanh nghiệp, trong đó khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh là yếu
nhất. Do vậy, kết quả đấu tranh chống tham nhũng cũng rất khác nhau, phụ
thuộc rất nhiều vào sự tham gia của nhân dân.
Thứ ba: Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể
nhân dân chưa được coi trọng thường xuyên, đấu tranh, phê bình và tự phê
bình, thực hiện dân chủ công khai một số nơi còn hạn chế; tình trạng mất dân
chủ, quan liêu trong một số cơ quan, đơn vị cơ sở xã, phường chậm được khắc
phục sửa chữa…
Những hạn chế trên là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất: sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền,của
một số cấp, ngành, cơ quan, đơn vị với công tác chống tham nhũng tiêu cực
thiếu tích cực, chưa thường xuyên và triệt để. Chưa phát động được phong
trào đấu tranh mạnh mẽ, rộng khắp trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tổ
chức Đảng,chính quyền vào các đoàn thể của quần chúng tuy ở ngay cơ sở,
hoạt động hàng ngày cùng với dân nhưng lại xa dân, không sát dân, không

19


thấu hiểu đựơc cuộc sống của dân rơi vào tình trạng quan liêu, hành chính hoá

nặng nề.
Thứ hai: Chính quyền các cấp ở nhiều nơi hoạt động không có nề nếp,
phưong pháp làm việc cung cách quản lí tuỳ tiện, luộm thuộm. Hội đồng nhân
dân hoạt động hình thức. Ở một số nơi, đại biểu Hội đồng nhân dân không đại
diện được ý chí, quyền lực, nguyện vọng của dân, xa dân, trình độ hạn chế,
không giám sát, kiểm tra được Uỷ ban nhân dân.
Thứ ba: Ở một số địa phương, mối quan hệ giữa xã và thôn, giữa quản
lí nhà nước ở cấp xã và tự quản của cộng đồng dân cư ở thôn không rõ ràng,
vi phạm quyền làm chủ, làm chủ của nhân dân, nhất là sự tuỳ tiện ra những
quyết định, những huy động đóng góp của dân mà không thông qua dân,
không được đa số dân đồng tình ủng hộ (ở Thái Bình thời kì 1997 -1998, xã ít
nhất cũng có 18 khoản thuế, xã cao nhất đóng 40 khoản thuế; tàon tỉnh chi
1.227 tỷ đồng cho xây dựng điện, đường, trường, trạm mà dân phải góp 55%).
Mặt trận và các đoàn thể hoạt động hình thức, cầm chừng, không thiết
thực nên không thu hút được sự tham gia của quần chúng. Mặt khác, sự giám
sát của nhân dân là rất quan trọng nhưng chưa được coi trọng đúng mức. Tuy
nhiên, cũng phải thấy rằng, trong tình hình hiện nay ý kiến đóng góp của nhân
dân còn ại hạn chế rất nhiều. Nhân dân ta muốn thẳng thắn, rất không bằng
lòng với những hành vi sai trái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên,
song tâm lí “nể nang”, “dĩ hoà vi quý”, “không muốn mất lòng”, “trọng tình
hơn lí”, hay nể nang tuỳ tiện vốn là thói quen trong cách ứng xử của con
người Việt Nam, nên không tiện nói ra, cũng có trường hợp vì sợ bị trù ấm,
thậm chí sợ bị trả thù đối với con, cháu, người thân trong gia đình nên không
dám đấu tranh, không giám chỉ ra những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực của
cán bộ, đảng viên. Vì vậy, công việc đấu tranh chống tham nhũng gặp nhiều
khó khăn.
2.2.3 Một số vấn đề đặt ra trong việc phát động được đông đảo quần
chúng nhân dân tham gia đấu tranh phòng chống tham nhũng ở nước ta
hiện nay.


20


Quần chúng nhân dân với vai trò vị trí quan trọng của mình đã đóng
góp phần không nhỏ vào cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng. Trong quá
trình hoạt động, quần chúng nhân dân đặt ra một số vấn đề sau:
Bài học lấy dân làm gốc trong đấu tranh chống tham nhũng phải luôn
được quán triệt và đặt lên hàng đầu như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
dân biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo không biết coi trọng vai trò giám sát
của nhân dân cần lắng nghe, xem xét ý kiến của nhân dân qua ba hình thức:
Thứ nhất: Góp ý kiến trực tiếp trong sinh hoạt hoặc gửi thư tới các tổ
chức, cơ quan chức năng để phát hiện tham nhũng, tiêu cực.
Thứ hai: Thông qua các cơ quan báo chí với tư cách là một diễn đàn của
nhân dân để bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, phản ánh thực tiễn
cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực ở cơ sở nhằm tạo ra dư luận xã hội
rộng rãi đồng tình, ủng hộ cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp này.
Thứ ba: Góp ý kiến thông qua các cơ quan dân cử ( Hội đồng nhân dân,
Mặt trận, các đoàn thể ) với tư cách là các tổ chức đại diện của nhân dân, bảo
vệ và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân,của cử tri đối với các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Đấu tranh chống tham nhũng phải trên cơ sở cơ chế, biện pháp mở rộng
dân chủ thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ cơ sở, công khai hoá những
việc có liên quan đến quy hoạch đất đai, các khoản huy động đóng góp của
nhân dân xây dựng cơ sở hạ tầng các dự án liên quan đến công trình phúc lợi,
giả quyết tốt vấn đề khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra của Đảng,Nhà nước, tăng cường sự giám sát có hiệu quả và
hiệu lực của nhân dân đối với các lĩnh vực kinh tế xã hội dễ xảy ra tham
nhũng, tiêu cực.

21



Chương 3: Một số giải pháp nâng cao vai trò của quần chúng nhân
dân trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay
3.1. Phát huy vai trò giám sát của các đoàn thể nhân dân.
Phải tiếp tục củng cố và hoàn thiện các tổ chức thanh tra nhân dân các
cấp, nhất là cấp cơ sở theo quy định của pháp luật. Công đoàn cơ sở có trách
nhiệm phát hiện, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý và giám
sát việc xử lý người có hành vi tham nhũng tại cơ quan, tổ chức, địa phương
mình.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ
chức đoàn thể; khắc phục tình trạng hành chính hoá, công chức hoá, quan liêu,
xa dân; hướng mạnh công tác về cơ sở nắm chắc tình hình quần chúng; chủ
động phối hợp giải quyết những vấn đề bức xúc trong nhân dân; kịp thời tham
mưu cho cấp uỷ, chính quyền giải quyết, xử lý trên cơ sở phù hợp với quy
định của pháp luật và đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Kiện toàn ban thanh tra nhân dân ở cơ sở để tổ chức này thực sự là nơi
tập hợp quần chúng ở xã, phường, thị trấn và các cơ quan hành chính sự
nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực
thi chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại cơ sở. Cần nâng cao hơn
nữa hiệu quả hoạt động của ban thanh tra nhân dân trong giám sát hoạt động
của chính quyền nói chung và trong thực hiện quy chế dân chủ, đấu tranh
chống tham nhũng nói riêng.
Ban này cần được củng cố, kiện toàn, lựa chọn những người có tâm, có
đức, có năng lực, có tinh thần công tác cao, không quản ngại khó khăn, gian
khổ, luôn thấu hiểu nguyện vọng của nhân dân một cách đúng đắn kịp thời.
Các thành viên của ban thanh tra nhân dân cần được thường xuyên tập huấn
nghiệp vụ, chức trách nhiệm vụ, có chương trình kế hoạch công tác. Xử lý
nghiêm các cá nhân và các tổ chức có hành vi cản trở hoạt động của ban thanh
tra nhân dân. Hoạt động giám sát của ban thanh tra nhân dân càng kịp thời bao

nhiêu thì càng ngăn chặn sớm những sai phạm có thể nảy sinh. Có như vậy kỷ
cương phép nước được giữ vững và quyền làm chủ của nhân cũng mới được
bảo đảm, tình trạng tham nhũng trong cán bộ, công chức ở các cấp được hạn
chế. Bởi vậy, cần tạo ra cơ chế để nhân dân có thể tham dự vào hoạt động
22


kiểm soát Nhà nước. V.I.Lenin đã từng dạy: “kiểm kê, kiểm soát là công cụ
mạnh để nhân dân nắm quyền lực Nhà nước và đặt nó đi đúng quỹ đạo”.
3.2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong đấu tranh chống
tham nhũng
Muốn chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả thì phải xây dựng bộ
máy hành chính trong sạch, vững mạnh, thực sự gần dân, hiểu dân, gắn bó với
nhân dân, thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Sức mạnh
của nhân dân, trí tuệ của nhân dân là nguồn lực vô tận, tất cả mọi việc nhân
dân đều biết cho nên lực lượng quan trọng nhất đấu tranh với bọn giặc “nội
xâm” này là nhân dân. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước của dân, do dân, vì dân; do đó phải biết dựa vào nhân dân, tổ chức nhân
dân để đấu tranh chống tham nhũng và coi đây là nguyên tắc, là giải pháp
quan trọng hàng đầu hiện nay. Để tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước,
tăng cường pháp chế xã hôi chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng
phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã nhiều lần nhấn mạnh: chống
tham ô, lãng phí là dân chủ; dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng. Cho
nên phong trào chống tham ô, lãng phí,quan liêu phải dựa vào quần chúng
mới thành công; phải động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ, phải
làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới
chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy
đủ, mau chóng. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì phải: “phát động tư tưởng
quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến

hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những
ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan
liêu, còn chỗ ẩn nấp”. Vì vậy, trong quá trình xây dựng và quản lý Nhà nước
phải thu hút sự tham gia của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII đã
chỉ rõ “chỉ có dựa vào sức mạnh của dân mới xây dựng được chính quyền
trong sạch, vững mạnh, phải giữ vững kỷ luật, kỷ cương, an ning quốc phòng,
tạo động lực to lớn phát triếnr kinh tế- xã hội.

23


Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong đấu tranh chống tham
nhũng, tiêu cực ở nước ta có hiệu quả, cần quan tâm tới 1 số vấn đề sau:
Trước hết là xây dựng và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng
với nhân dân trên cơ sở hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước, nguyện vọng và lợi ích của
nhân dân, nâng cao đời sống nhân dân, nhất là quan tâm tới bộ phận có nhiều
khó khăn trong công nhân, nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, ở vùng sâu,
vùng xa. Các tổ chức Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên phải làm tốt công
tác vận động nhân dân sát cơ sở, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết
khó khăn, xử lý kịp thời các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, điều hoà lợi ích
của các tầng lớp dân cư, các vùng miền và các lĩnh vực. Xây dựng, hoàn thiện
cơ chế, chính sách, thiết chế thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội, đảm bảo
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh những quyết sách lớn, các
cơ quan có trách nhiệm phải giải trình, bảo đảm tính minh bạch, sự tham gia
rộng rãi của nhân dân trong quá trình xây dựng trước khi ban hành. Một mặt,
tôn trọng lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân, không để sót nhưng phải
phân tích mức độ đúng, sai về những ý kiến phản ánh của nhân dân; mặt khác,
phải bảo vệ người đã có ý kiến phát hiện những sai trái của cán bộ, công chức.

Qua kinh nghiệm thực tiễn cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực
cho thấy một trong những giải pháp hữu hiệu nhất là thực sự tin dân và dựa
vào dân, phát động nhân dân đấu tranh, tố giác những hành vi tham nhũng.
Tuyên dương, khen thưởng bảo vệ những người tố giác đúng đi đôi với xử lý
những ai lợi dụng chống tham nhũng để gây rối. Muốn thực hiện được giải
pháp này, các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể phải làm tốt công tác tuyên
truyền để mọi người dân hiểu rõ tác hại của tham nhũng và quy định của pháp
luật về đấu tranh chống tham nhũng. Trên cơ sở đó, mọi người ý thức được
trách nhiệm của mình trong đấu tranh chống tham nhũng.
Các cấp, các ngành phải coi trọng việc tiếp dân và giải quyết kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo của nhân dân, phải xây dựng đầy đủ và thường xuyên quy
chế, quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với
điều kiện kinh tế- xã hội của cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Cơ quan nội
chính các cấp, cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ quan dịch vụ công thuộc các
24


ngành có liên quan nhiều đến quyền lợi của nhân dân đều phải có hòm thư
góp ý để nhận đơn thư của nhân dân. Việc giải quyết đơn thư khiếu tố phải đi
vào nề nếp, thực hiện đúng quy định của Luật Khiếu nại tố cáo theo thẩm
quyền được phân cấp, thời gian giải quyết nhanh, hạn chế đơn thư tồn đọng
kéo dài dẫn đến khiếu kiện vượt cấp.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải
dành thời gian tiếp công dân theo đúng quy định của luật. Khi nhận được thư
tố giác hoặc sự phản ánh của công dân về những hiện tượng tham nhũng, quan
liêu vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị
phải trực tiếp xem xét và trả lời công dân.
Phát huy vai trò của Hộ đồng nhân dân các cấp trong việc giám sát hoạt
động điều hành của uỷ ban nhân dân là biện pháp quan trọng để tăng cường
vai trò giám sát của nhân dân đấu tranh chống tham nhũng. Muốn vậy phải

kiện toàn ban chuyên trách của hội đống nhân dân, đảm bảo cho các ban này
có đủ năng lực, trình độ giám sát. Phải đổi mới hoạt động giám sát của hội
đồng nhân dân theo hướng trực tiếp và sát cơ sở hơn, khắc phục tình trạng
giám sát gián tiếp qua nghe báo cáo của các cấp chính quyền- một hiện tượng
còn phổ biến hiện nay. Bên cạnh việc tiếp tục kiện toàn tổ chức và hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp; cấp uỷ đảng, chính quyền phải từng
bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp, xây dựng những thiết chế cụ thể ở
từng cơ quan, tổ chức, đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ công
việc ở các địa phương, đơn vị. Trong các thiết chế phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong đấu tranh chống tham nhũng phải đặc biệt lưu ý đến vai
trò của các cơ quan thông tin đại chúng, của các binh chủng hợp thành công
tác chính trị tư tưởng.

3.3. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong quần
chúng nhân dân
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ tham nhũng là do cơ chế,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của địa phương còn
nhiều sơ hở, thiếu đồng bộ. Một số văn bản quy phạm pháp luật chưa đáp ứng
25


×