Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Người đọc nhìn từ thực tiễn tiếp nhận văn học việt nam đầu thế kỷ XXI tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.98 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHẢM

HÀ HOÀNG HÀ

NGƯỜI ĐỌC – NHÌN TỪ THỰC TIỄN TIẾP
NHẬN VĂN HỌC VIỆT NAM
ĐẦU THẾ KỶ XXI

Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 62 22 01 20

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
PGS.

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phan Trọng Thưởng

Phản biện 1: GS.Trần Đình Sử
Phản biện 2: PGS.TS. Trần Khánh Thành
Phản biện 3: PGS.TS. Lưu Khánh Thơ

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Học viện tại: Học viện khoa học xã hội



Vào hồi ...... giờ, ngày ....... tháng ...... năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Người đọc luôn là một bộ phận quan trọng gắn bó hữu
cơ với quá trình sáng tạo, và rộng hơn là quá trình lịch sử văn học.
Tùy theo ảnh hưởng của những hệ thống quan niệm, người ta đưa ra
những lý thuyết khác nhau về người đọc ở mỗi thời kỳ, mỗi giai
đoạn. Trong lịch sử nghiên cứu có lúc vai trò người đọc bị xem nhẹ
so với nhà văn và tác phẩm, nhưng cũng có lúc được đánh giá cao
đến mức cực đoan bất chấp thực tại lịch sử và logic nghệ thuật. Quan
tâm đến vấn đề người đọc, do vậy không chỉ có các nhà nghiên cứu
lý thuyết mà còn có các nhà nghiên cứu thực tiễn lịch sử văn học.
1.2. Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI đến nay có thể
xem như một giai đoạn khởi đầu cho một tiến trình văn học mới với
rất nhiều đặc điểm, đặc trưng mới, trong đó, người đọc đang nổi lên
như một vấn đề cần được quan tâm, nghiên cứu và lý giải. Ở đây
không chỉ nảy sinh vấn đề giữa lý thuyết với thực tiễn mà còn nảy
sinh hàng loạt vấn đề về người đọc với tư cách là chủ thể tiếp nhận
với quá trình sáng tạo, đánh giá và thưởng thức nghệ thuật. Thực tế
cho thấy, người đọc đã tác động, chi phối không nhỏ đến quá trình
sáng tác, tới thị hiếu thẩm mĩ và hệ giá trị nghệ thuật. Do vậy, nghiên
cứu về người đọc trong hoạt động tiếp nhận văn học Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XXI để chỉ ra các đặc điểm, lý giải và đề xuất các

vấn đề dưới ánh sáng của tư duy lý luận nhằm rút ra các kết luận
khoa học được đặt ra như một yêu cầu khách quan. Kết quả nghiên
cứu này không chỉ mang lại những nhận thức mới về lịch sử văn học
mà còn góp phần làm sáng tỏ một trong những vấn đề lý luận khá cơ
bản đang được giới nghiên cứu quan tâm hiện nay: vấn đề người đọc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án tập trung tìm hiểu những vấn đề lý luận về tiếp nhận
và người đọc, từ đó soi chiếu vào thực tiễn tiếp nhận văn học nước ta
trong khoảng 15 năm đầu thế kỷ XXI để thấy được nhận thức, thị
1


hiếu thẩm mĩ của người đọc đương đại, đặc biệt từ đó nhận diện
người đọc đương đại với những đặc điểm cơ bản để đưa ra đánh giá
về thực trạng độc giả và đề xuất giải pháp có tính ứng dụng trong
thực tiễn nhằm phát triển hoạt động đọc sách văn học trong cộng
đồng cũng như đối với mỗi người Việt hiện đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đặt ra nhiệm vụ giới thiệu tổng quan về lý thuyết tiếp
nhận văn học ở phương Tây, phương Đông và ảnh hưởng của lý
thuyết tiếp nhận vào Việt Nam; Phác thảo diện mạo văn học Việt
Nam đầu thế kỷ XXI; Tìm hiểu nhận thức, thị hiếu thẩm mĩ của
người đọc văn học đương đại... Từ đó chỉ ra các đặc điểm cơ bản của
người đọc văn học hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là người đọc nhìn từ thực
tiễn tiếp nhận văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI.
3.2. Phạm vi nghiên cứu, khảo sát

Phạm vi nghiên cứu: Thực tiễn văn học Việt Nam từ đầu thế
kỷ XXI đến nay, trong đó tập trung chủ yếu vào khâu người đọc.
Phạm vi khảo sát: Đề tài kết hợp điều tra, khảo sát tình hình
tiếp nhận văn học của người đọc văn học Việt Nam hiện nay bằng
phiếu hỏi trực tiếp, cũng như khảo sát, nghiên cứu, tổng hợp các
nguồn thông tin tư liệu trực tiếp liên quan đến đề tài đã được công
bố.
4. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được triển khai dựa trên hệ thống quan điểm lý luận
văn học và mỹ học từ truyền thống đến hiện đại; Đồng thời, dựa trên
sự nghiên cứu, tiếp thu và vận dụng các thành tựu của lý thuyết tiếp
nhận đang được giới thiệu và lưu hành khá phổ biến ở Việt Nam hiện
nay. Để nghiên cứu người đọc từ thực tiễn tiếp nhận, bên cạnh việc
kết hợp giữa hai hệ thống mỹ học macxit và mỹ học phương Tây về
2


tiếp nhận văn học làm sơ sở lý thuyết, chúng tôi kết hợp với lý thuyết
xã hội học văn học khi nghiên cứu người đọc từ thực tiễn tiếp nhận
văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
4.2.1. Phương pháp hệ thống
4.2.2. Phương pháp thống kê
4.2.3.Phương pháp so sánh
4.2.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
4.2.5. Phương pháp xã hội học
Để đạt được các kết quả nghiên cứu đã đề ra trong luận án,
ngoài các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, chúng tôi vận

dụng phương pháp điều tra liên ngành xã hội học văn học khi phân
tích, để phần nào làm rõ những đặc trưng của đối tượng người đọc,
phục vụ mục tiêu nghiên cứu. Phương pháp điều tra xã hội học được
chúng tôi triển khai bao gồm:
+ 12 câu hỏi phỏng vấn dành cho đối tượng nghiên cứu;
+ 507 phiếu điều tra;
+ Mẫu chọn: 507 mẫu chọn ngẫu nhiên là những người đọc
văn thuộc các ngành có hoặc không liên quan đến Văn học ở độ tuổi
từ 18-40, đến từ nhiều vùng miền khác nhau, là sinh viên, học viên
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Luận án là một trong những công trình khoa học đầu tiên
nghiên cứu một cách hệ thống về người đọc văn học Việt Nam 15
năm đầu thế kỷ XXI với tư cách là một đối tượng đang vận động,
đang diễn ra. Bằng việc chỉ ra các đặc điểm cơ bản của người đọc
đương đại, luận án cho phép nhận diện gương mặt người đọc văn
hôm nay. Trên cơ sở đó lý giải một số hiện tượng, vấn đề của lịch sử
văn học đương đại.
5.2. Từ việc tìm hiểu những đặc điểm của người đọc văn học
đương đại luận án góp phần chỉ ra những vấn đề trong thực tiễn đời
3


sống văn học nhằm phát triển hoạt động đọc sách của công chúng,
góp phần hình thành thị hiếu lành mạnh, bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ
và cảm xúc cho con người, đặc biệt là những người Việt trẻ.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận, các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp
phần chứng minh tính khả dụng của lý thuyết, cung cấp luận cứ khoa
học cho việc nhận thức, lý giải các hiện tượng, các vấn đề nảy sinh

trong hoạt động đọc và tiếp nhận của người đọc...
6.2. Về mặt thực tiễn, trên cơ sở nghiên cứu, chỉ ra thực trạng
người đọc văn học những năm đầu thế kỷ XXI, luận án góp phần
định hướng tiếp nhận, định hướng thẩm mỹ, nâng cao vai trò của
người đọc và hoạt động đọc trong sự phát triển của văn học, từ đó
góp phần định hướng cho hoạt động phê bình.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án
được trình bày trong 4 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Vấn đề người đọc nhìn từ phương diện lý thuyết
Chương 3. Người đọc nhìn từ phương diện thực tiễn
Chương 4. Các yếu tố tác động và chỉ số nhận diện người đọc
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Người đọc là vấn đề được nghiên cứu trong nhiều công trình
của các học giả phương Tây và Việt Nam. Điểm diện những công
trình đã được công bố trên sách, báo, tạp chí về vấn đề người đọc có
thể thấy, đây là một số những vấn đề trọng tâm của lý luận văn học.
Trong các công trình của các nhà nghiên cứu nước ngoài như Tác
phẩm văn học, Roman Ingarden, Chân lí và phương pháp, Hans
Georg Gadamer, Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa
học văn học của H.R.Jauss, Văn bản là gì, Paul Ricoeur hay công
trình Xã hội, Văn học, Sự đọc của M.Naumann, hay của các nhà
4


nghiên cứu Việt Nam, từ những sách công cụ như: Từ điển văn học tập II
do Đỗ Đức Hiểu chủ biên; Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần
Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi chủ biên; 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên

Ân biên soạn; Lý luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên; Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ của Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương; Lý luận văn
học của Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La
Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình đến các công trình khoa học nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề lý thuyết tiếp nhận: Ký hiệu nghĩa và phê bình văn học
của Hoàng Trinh, Lý luận văn học của Lê Ngọc Trà; Lý luận văn học vấn đề
và suy nghĩ của Huỳnh Như Phương; Đổi mới phê bình văn học của Đỗ Đức
Hiểu ; Văn học- Tầm nhìn- Biến đổi; và Đọc- Hiểu tác phẩm văn chương
trong nhà trường của Nguyễn Thanh Hùng; Tác phẩm văn học như là một
quá trình; và Từ văn bản đến tác phẩm văn học của Trương Đăng Dung…
trong đó nổi bật là tên tuổi những nhà nghiên cứu hàng đầu về tiếp nhận như
Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Văn Dân, Phương Lựu hay
Trương Đăng Dung..
Như vậy, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều thể
hiện quan điểm, sự lí giải khác nhau về vấn đề người đọc và hoạt
động tiếp nhận vă học qua từng thời kỳ, từng giai đoạn. Việc đặt tác
phẩm văn học trong mối hệ với người đọc là một hướng nghiên cứu
có chủ đích liên quan đến vấn đề chủ thể tiếp nhận trong tiếp nhận
văn học. Quá trình từ hiện thực cuộc sống đến chủ thể sáng tạo, từ
khách thể văn bản đến chủ thể tiếp nhận là quá trình vận động không
ngừng. Từ văn bản đến tác phẩm là một quá trình mà người đọc là sự
hoàn kết hành trình quan trọng đó. Tiếp nhận gián tiếp thông qua văn
bản dịch, giới thiệu, các công trình nghiên cứu lý thuyết của các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước về người đọc và vai trò, vị trí của
người đọc được chúng tôi đề cập ở trên là cơ sở lý thuyết, là tiền đề
và là những lý giải quý giá cho quá trình nghiên cứu đề tài luận án.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở nước ta, ứng dụng lý thuyết tiếp nhận vào nghiên cứu văn
học đã trải qua một quá trình phát triển không thể nói là dài nhưng
5



bước đầu đã có những thành tựu đáng kể. Trong hơn một thế kỷ qua,
vấn đề người đọc đã bắt đầu được quan tâm đề cập ở các mức độ
khác nhau trong những công trình nghiên cứu: Hoàng Tố Oanh hàm
oan (1916) của Trần Thiên Trung; chuyên luận Khảo về tiểu
thuyết của Phạm Quỳnh đăng trên Nam Phong 1921; bài Đi tới chủ
nghĩa tả thực trong văn chương: những khuynh hướng trong tiểu
thuyết (Tao Đàn, 1939) của Hải Triều; chuyên luận cũng có tên Khảo
về tiểu thuyết (đăng trên báo Trung Bắc Chủ nhật những năm 19411942, đến 1955 xuất bản thành sách) của nhà văn- nhà tiểu thuyết Vũ
Bằng; Lời nói đầu cuốn Viết và đọc tiểu thuyết của Nhất Linh;
cuốn Nghề viết văn của Nguyễn Hiến Lê, tác giả tự xuất bản năm
1956 tại Sài Gòn; cuốn Lược khảo văn học tập I của Nguyễn Văn
Trung, Nam Sơn xuất bản, 1963,... Vào những năm 70 của thế kỷ
XX, vấn đề người đọc đã được nhắc đến trong nhiều bài viết của các
nhà nghiên cứu trong nước như bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn
Văn Hạnh Ý kiến của Lênin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống.
Đến thập kỷ 80 của thế kỷ XX, vấn đề người đọc được nghiên cứu
rộng rãi và thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu qua nhiều bài viết,
công trình của các tác giả Hoàng Trinh, Vương Anh Tuấn, Lê Ngọc
Trà, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Đình Sử, Nguyễn Văn Dân, Phương
Lựu, Từ Sơn, Trương Đăng Dung,... Vấn đề công chúng văn học
cũng được nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng bàn đến khi đối sánh
công chúng văn học giai đoạn tiền đổi mới (1980 - 1986) với giai
đoạn đổi mới (sau 1986).
Ngoài các sách chuyên luận và công trình nghiên cứu của
các tác giả trên còn có những hội thảo khoa học, các bài báo, tạp chí,
đã phân tích nhìn nhận, giá, bàn luận về người đọc và thực trạng đọc
văn học ở nước ta hiện nay như hội thảo về Người đọc và công chúng
nghệ thuật đương đại tổ chức tại trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn - Hà Nội ngày 11/12/2010; Dự án điều tra về văn hóa đọc

(số liệu đã nghiệm thu - tài liệu thuộc Sở Văn hóa - Thể thao - Du
lịch Hà Nội) trong năm 2012 của Sở Văn hóa Thể thao - Du lịch Hà
6


Nội, dự án cấp Bộ Điều tra thực trạng đọc văn học ở Việt Nam hiện nay do
nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp làm chủ nhiệm, nghiệm thu ngày 28
tháng 12 năm 2015, Hội thảo khoa học Thị trường văn học và văn học thị
trường - lý luận và thực tiễn do Viện Văn học (Viện Hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam) tổ chức năm 2016.

7


CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ NGƯỜI ĐỌC NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN LÝ THUYẾT
2.1. Khái niệm Người đọc
Từ điển Tiếng Việt đưa ra khái niệm độc giả (reader) như
sau: “chỉ người đọc sách, báo nói chung, trong mối quan hệ với
người làm sách như tác giả, nhà xuất bản”[203]. Người đọc là một
khái niệm quen thuộc trong đời sống xã hội và văn học, thường được
thay thế bằng nhiều tên gọi khác nhau như độc giả, người thưởng
thức, người tiếp nhận, công chúng,… Trong đề tài luận án, chúng tôi
quan niệm người đọc là người đọc sách trực tiếp, là một khâu của
quá trình sáng tạo văn học, là yếu tố lý giải sự tồn tại của tác phẩm
văn học, là động lực và là đích tới trong quá trình sáng tạo nghệ
thuật của nhà văn.
2.2. Các quan niệm về người đọc
2.2.1. Quan niệm truyền thống về người đọc
Từ thời cổ đại đến thế kỷ XIX, tư duy lý luận văn học ở

phương Tây cũng như phương Đông chủ yếu chỉ đóng khung trong
mỹ học sáng tạo, xoay quanh các vấn đề lý luận về phản ánh và nhận
thức, mà không thể vượt lên trên giới hạn của hai thuyết tái hiện hoặc
biểu hiện. Với các hệ thống lý thuyết này, tác phẩm văn học đã và chỉ
được nhìn hoặc trong quan hệ với hiện thực, hoặc trong quan hệ với
tác giả mà quên mất vai trò của người đọc.
Vấn đề tiếp nhận và người đọc đã từng được nói đến từ lâu
trong lịch sử văn học. Từ Aristote ở phương Tây, đến Lưu Hiệp ở
phương Đông, khi Khổng Tử san định Kinh Thi hay Kim Thánh
Thán chú giải Thơ Đường, trong thuyết tri âm và ký thác hay lời
khẳng định của Paul Valéry Ý nghĩa trong thơ tôi là do bạn đọc cho
nó... đã khẳng định lịch sử tiếp nhận gắn liền với lịch sử sáng tạo.
Nhưng trong văn học tiền hiện đại, người đọc chưa trở thành một
phạm trù tự giác.

8


2.2.2. Quan niệm hiện đại về người đọc
Đầu thế kỷ XX, sự ra đời của lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại
của Ferdinand de Saussure (1857-1913) đã chi phối trực tiếp đến sự ra
đời và phương thức tư duy của khoa học văn học, đặc biệt là vấn đề
quan niệm về tiếp nhận văn học. Cùng với các thành tựu quan trọng
của ngôn ngữ học hiện đại, các kết quả nghiên cứu mới mẻ của các
khoa học lân cận như cấu trúc luận kí hiệu học, lý thuyết thông tin...
cũng đã đưa lại cho nghiên cứu văn học những chìa khóa mới để giải
mã văn bản tác phẩm. Từ đây, văn bản và sự tạo nghĩa, kí hiệu và
chức năng thẩm mĩ trở thành đối tượng trung tâm của lý luận văn học
hiện đại. Giữa rất nhiều vấn đề mới mẻ được đặt ra, người đọc trở
thành một trong những vấn đề quan trọng của lý luận văn học hiện

đại. Nhìn một cách tổng thể, có thể thấy, dưới con mắt của các nhà lý
luận hiện đại, người đọc đã được nhìn nhận, soi ngắm từ nhiều phía,
nhiều chiều, mở ra nhiều hướng tiếp cận khác nhau, chấm dứt một
cách nhìn phụ thuộc, giản đơn, phiến diện về vai trò được xem là rất
mờ nhạt của người đọc đã từng tồn tại từ thế kỷ XIX về trước.
2.2.3. Quan niệm hậu hiện đại về người đọc
Mở đầu cho cuộc cách mạng về lý luận văn học thế kỷ XX là
việc “phát hiện” ra văn bản. Phát hiện này đã đưa văn bản văn học
vào trung tâm của sự chú ý, và theo đó, là sự hoán đổi ngôi vị của
các yếu tố trong hệ thống văn học. Thay vì vị trí trung tâm thuộc về
tác giả như trước đó, nay đến lượt văn bản lên ngôi, vai trò chủ thể
của tác phẩm văn học được chuyển từ tác giả sang văn bản. Đến lượt
mình, những thành tựu của lý luận văn học hiện đại lại nhanh chóng
bị vượt qua trước những khám phá quan trọng của lý luận hậu hiện
đại về vai trò trung tâm của người đọc.Những phát hiện của lý luận
hậu hiện đại có ý nghĩa khai mở một cách tiếp cận mới để khám phá
bản chất của tác phẩm văn học, nghiên cứu tác phẩm trong mối quan
hệ với người đọc - với hoạt động tiếp nhận.
Nhìn chung, lý luận văn học thế kỷ XX là một hệ thống quan
điểm rất phức tạp và không thuần nhất, đó là một cuộc đối thoại lớn
9


của nhiều tiếng nói của những kiểu loại tư duy khác nhau. Nắm bắt
và nhận dạng bản chất mỗi hệ thống cũng như việc gạn đục khơi
trong, phê phán, chọn lọc những phát hiện có giá trị khoa học của
từng hệ thống là một công việc không hề đơn giản.
2.3. Phân biệt một số kiểu người đọc
Dựa trên những tiêu chí khác nhau sẽ phân chia thành các
kiểu người đọc khác nhau, trong lý thuyết tiếp nhận hiện đại, phạm

trù người đọc được xác định với hai hình thái tồn tại phổ biến nhất là
người đọc tiềm ẩn và người đọc thực tế. Việc xuất hiện nhiều thuật
ngữ và cách phân chia thành những kiểu người đọc khác nhau như
người đọc thực tế, người đọc tiềm ẩn, người đọc phổ thông, người
đọc lý tưởng, người đọc tiêu thụ, người đọc tạo nghĩa… cho thấy các
nhà nghiên cứu lý giải khái niệm người đọc từ nhiều phương diện
khác nhau trên những nền tảng lý thuyết đặc thù. Trong luận án, để
phù hợp với đặc thù tình hình tiếp nhận văn học Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XXI của độc giả, chúng tôi đi vào tìm hiểu và phân
tích kỹ hơn loại người đọc tiêu thụ so với người đọc tạo nghĩa để từ
đó chỉ ra những mặt tích cực cũng như hạn chế của chủ thể tiếp nhận
với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về một khía cạnh đang diễn ra
trong đời sống văn học nước ta hiện nay.

10


CHƯƠNG 3: NGƯỜI ĐỌC NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN
CHỦ THỂ TIẾP NHẬN
3.1. Khái quát về diện mạo văn học
3.1.1. Sự hình thành một lực lượng sáng tác mới
Đời sống văn học Việt Nam từ năm 2000 đến nay đã đạt
nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng
vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã
hội. Cùng với sự phát triển và hội nhập về kinh tế, trong một xã hội
mà sự cạnh tranh để tồn tại và phát triển ngày càng trở nên khốc liệt,
tại các nhà xuất bản và các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm,
việc in ấn xuất bản trở nên dễ dàng, nhanh chóng để phù hợp với
nhu cầu độc giả. Tất cả những thuận lợi đó đã tạo điều kiện cho sự ra
đời của những tác phẩm mới và nhiều cây viết trẻ mới.

Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI đang chuyển mình cùng
quá trình đổi mới đất nước, đã có những hiện tượng thu hút với công
chúng, có những tác phẩm lôi cuốn độc giả và gây nhiều ý kiến tranh
luận của các nhà nghiên cứu phê bình… Diện mạo của nền văn học
Việt Nam 15 năm qua là một nền văn học Trẻ của những người viết
Trẻ với lối viết Trẻ và những lăng kính Trẻ. Những phương pháp
sáng tác của chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa
hiện thực kỳ ảo kết hợp trong mỗi tác phẩm tạo nên dư luận với
những ý kiến đánh giá khác nhau.
3.1.2. Sự hình thành môi trường tiếp nhận mới
Cuộc sống hiện đại với sự bùng nổ thông tin trong môi
trường toàn cầu hóa đã mang lại cho con người vốn tri thức khổng lồ,
nhưng cũng khiến chúng ta luôn phải sống trong tâm trạng hoài nghi
trước sự nhiễu loạn, bão hòa của thông tin. Thêm vào đó, giao lưu
kinh tế và văn hóa khiến mỗi người luôn phải phấn đấu để hoàn thiện
và làm mới mình nếu không muốn là kẻ bị bỏ lại phía sau. Văn học
đương đại thế giới đã có những thành tựu đáng kể khiến cho những
người cầm bút trong nước không khỏi tự thúc bách mình gấp gáp hơn
11


nữa trong hành trình sáng tạo nghệ thuật. Đó là những tiền đề quan
trọng để văn học Việt Nam đương đại có những chuyển động phù
hợp với xu thế và đến gần hơn với công chúng để thực hiện chức
năng cao cả của nó: hướng con người Việt Nam hiện đại đến với
những giá trị chân – thiện – mỹ, thay đổi và thích nghi với cuộc sống
và văn hóa thời đại.
3.2. Các vấn đề xung quanh thị hiếu thẩm mĩ của người đọc
3.2.1. Khái niệm thị hiếu thẩm mĩ
Có thể xem Thị hiếu thẩm mĩ là sự thụ cảm cái đẹp, là sở

thích có tính tương đối, ổn định của cá nhân hay tập thể trên phương
diện thẩm mĩ. Thị hiếu thẩm mĩ có tính riêng biệt và đa dạng. Thị
hiếu thẩm mĩ cá nhân và thị hiếu thẩm mĩ cộng đồng luôn chịu sự chi
phối lẫn nhau; trong đó thị hiếu thẩm mĩ cá nhân ít nhiều chịu sự tác
động và chi phối của cộng đồng qua “chuẩn thẩm mĩ’ chung của thời
đại.
3.2.2. Khái quát về thị hiếu thẩm mĩ của người đọc văn học
hiện nay
Thị hiếu thẩm mĩ của công chúng văn học Việt Nam đầu thế
kỷ XXI có rất nhiều vấn đề đặt ra trong bối cảnh chuẩn thẩm mĩ đang
trở thành một vấn đề gây tranh cãi. Các chuẩn mực quen thuộc về
con người được đánh giá cao trong giai đoạn trước như: lao động,
yêu nước,... mang vào cuộc sống hôm nay dường như không đầy đủ.
Con người tìm đến văn học, nghệ thuật và báo chí như một
hình thức để giải trí và giải tỏa.
Một đặc điểm nữa cần phải nói đến là tính đa dạng trong nhu
cầu của người đọc văn học hiện nay.
Một đặc điểm quan trọng của công chúng văn học hiện nay là
tỷ lệ độc giả trí thức khá lớn.
Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay, thị hiếu độc giả
chi phối và ảnh hưởng trực tiếp đến sáng tác văn học.
Thêm vào đó mức độ ảnh hưởng của truyền thông đối với sự
lựa chọn sản phẩm đọc của công chúng văn học là rất lớn.
12


Công chúng văn học Việt Nam đương đại đang sống trong
thời kỳ phát triển đỉnh cao của khoa học công nghệ, kéo theo đó là
những thành tựu và thách thức, đặt con người trước sự tự tôn về trí
tuệ và tài năng, nhưng mặt khác lại cũng đặt họ vào tâm thế tự ti và

hoang mang về chính con người bản thể trong mình. Văn học vừa
cứu rỗi lại vừa trở nên xa lạ với họ. Trong những suy tư trăn trở của
cuộc sống con người hiện đại, thiết nghĩ văn học phải tự đa dạng hóa
và tinh lọc trên cả phương diện nội dung phản ánh, hình thức thể hiện
và phương thức tiếp cận độc giả thì mới có thể lấy lại được vị thế của
mình trước sức cạnh tranh của các loại hình giải trí hấp dẫn khác. Từ
phía độc giả, trong sự muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống cần phải
lọc cho mình những giá trị sống phù hợp, luôn có ý thức bồi đắp một
tâm hồn trong sáng, một lý tưởng sống lành mạnh, đôi khi cần sống
chậm giữa dòng đời gấp gáp, và hẳn rằng, với văn học đích thực họ
hoàn toàn có thể thụ hưởng được điều đó cho cuộc sống thêm phần ý
nghĩa.
3.2.3. Sự chi phối của thị hiếu thẩm mĩ người đọc đến hoạt
động tiếp nhận
Mỗi loại người đọc thường lựa chọn cho mình một phương
thức tiếp nhận phù hợp. Có người tiếp nhận theo phương thức đọc
(đọc văn bản); Có người tiếp nhận qua các phương tiện nghe – nhìn
(qua đài, truyền hình, mạng internet và các tiện ích khác...). Các
phương thức này sẽ tạo nên các tâm thế tiếp nhận, với hiệu ứng, thói
quen khác nhau ở mỗi nhóm người đọc. Phải thừa nhận rằng, trong
thời đại ngày nay đang xuất hiện các phương thức đọc mới phần nào
chiếm ưu thế hơn so với phương thức đọc truyền thống.
3.3. Hoạt động tiếp nhận từ các phương diện của thực
tiễn văn học
3.3.1. Từ phương diện thể loại
Trong đề tài luận án chúng tôi coi sự có mặt của các thể loại
như một không gian tồn tại và phát triển văn học từ phương diện sáng

13



tạo nghệ thuật để tiến hành những khảo sát, phân tích và tìm hiểu
thực tiễn đời sống văn học.
Có một thực tế là, tiểu thuyết Việt Nam hiện nay không còn
được nhiều người đón nhận mà hầu như chỉ giới nghiên cứu và sinh
viên chuyên ngành tìm đọc.
Khác với tiểu thuyết, có lẽ đầu thế kỷ XXI truyện ngắn là
một trong những thể loại chiếm được sự ưu ái của độc giả nhiều hơn
cả. Truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XXI cùng với các hiện tượng Y
Ban, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu hay Nguyễn Đình Tú, Đỗ
Bích Thúy thực sự tạo dấu ấn mạnh mẽ trong lòng độc giả.
Văn học Việt Nam đương đại chứng kiến sự lên ngôi của các
cây bút trẻ đối với thể loại truyện ngắn. Khoảng từ năm 2005, truyện
ngắn của nhà văn 198X bắt đầu nổi đình nổi đám trong cộng đồng
mạng và dần dần thu hút được sự chú ý.
Những năm đầu thế kỷ XXI, thơ Việt xuất hiện những xu
hướng sáng tác lạ biệt: xu hướng tân hình thức, xu hướng hậu hiện
đại, xu hướng thơ nữ quyền. Hầu hết trong số họ là những cây viết
trẻ. Họ đã mang đến một luồng sinh khí mới cho thơ, cách cảm cách
nghĩ và cách biểu hiện ở họ hoàn toàn khác biệt so với truyền thống.
Lớp thơ trẻ đang không ngừng nỗ lực để tạo nên diện mạo của nền
thơ đương đại.
3.3.2. Từ phương diện thông tin, truyền thông (bao gồm:
Internet, xuất bản, phát hành, quảng bá...)
Đầu thế kỷ XXI, kỷ nguyên của công nghệ và truyền thông
không chỉ giành “đất” cho các cuộc tranh luận, phê bình văn học
diễn ra sôi nổi mà còn tạo đà cho một loại hình văn học mới phát
triển: văn học mạng.
Cùng với sự phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu, trong
thời buổi kinh tế thị trường, rõ ràng sách cũng trở thành hàng hóa –

một loại hàng hóa đặc biệt mà sức nóng của nó đôi khi không còn
phụ thuộc vào giá trị nội dung hay giá trị nghệ thuật của bản thân tác

14


phẩm, không do người viết quyết định, mà do chính các nhà xuất bản
và phát hành điều tiết.
3.3.3. Từ phương diện hoạt động phê bình
Trong tiếp nhận văn học, không thể không nói đến phê bình
văn học – một loại tiếp nhận văn học đặc thù. Tuy nhiên, hiện nay
phê bình hàn lâm (hay phê bình đại học) đang bị thu hẹp trong khi
đó, phê bình báo chí chiếm lĩnh phần lớn đời sống văn học. Điều
này khiến cho văn học mang vẻ sôi động ở bề mặt nhưng về lâu dài
sẽ là một nguy hại cho sự phát triển của phê bình văn học với tư
cách là mỹ học của sự vận động văn chương.
Thực tiễn tiếp nhận văn học Việt Nam hiện nay trên phương
diện phê bình, nghiên cứu cho thấy xuất hiện hai kiểu phê bình: Một
loại phê bình đi quá sâu vào lối viết của nhà văn, chủ yếu khám phá
về mặt nội dung và nghệ thuật mang tính hàn lâm, khoa học. Loại
phê bình thứ hai, hướng đến quảng bá sách. Hoạt động này mang
tính cạnh tranh thu hút đám đông phản ứng lại. Vì vậy, phê bình tác
động đến công chúng, gây sự tò mò, hấp dẫn riêng. Hiện nay, rất ít
bài phê bình có chất lượng thuyết phục người đọc khiến người đọc
phải tâm phục, khẩu phục. Trước xu thế phát triển đa dạng, nhiều
chiều của văn học thời kỳ này, hoạt động phê bình cũng cần có định
hướng từ thị hiếu thẩm mĩ của độc giả.

15



CHƯƠNG 4: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ CHỈ SỐ
NHẬN DIỆN NGƯỜI ĐỌC
4.1. Các yếu tố tác động đến người đọc
4.1.1. Tác động của quy luật giá trị và thị trường
Sự chuyển đổi mô hình kinh tế đã tác động đến mọi mặt của
đời sống xã hội trong đó có văn học nghệ thuật. Kinh tế thị trường đã
chi phối đến thị hiếu thẩm mĩ của công chúng, tạo nên hệ giá trị
riêng trong tiếp nhận văn học. Ở lĩnh vực văn học nghệ thuật, yếu tố
thị trường đã làm thay đổi gốc rễ nhận thức và thị hiếu thẩm mĩ của
công chúng, trong đó có việc lựa chọ tác giả và các tác phẩm văn học
cho hoạt động đọc.
Có thể nói kinh tế thị trường đã tác động và ảnh hưởng sâu
sắc đến tư tưởng của người viết và người đọc, người đọc tự do và chủ
động trong lựa chọn và tiếp nhận các tác phẩm. Và với sự tự do đó,
người đọc hôm nay thoát ra khỏi những khuôn mẫu chung, định sẵn
của tác giả, của quy ước thẩm mĩ cộng đồng trước đó để hướng đến
những đặc điểm riêng với sự phân hóa sâu sắc và đa diện.
4.1.2. Tác động của khoa học công nghệ
Trong điều kiện kinh tế thị trường, những thành tựu khoa học
kỹ thuật và công nghệ chính là tác nhân trực tiếp và quyết định nhất
trong việc hình thành lối sống hưởng thụ đặc trưng cho xã hội hiện đại,
đó là con người đề cao những giá trị văn hóa vật chất, dễ thay đổi và
không có nhu cầu tìm kiếm sự hài hòa về mặt tinh thần trong những loại
hình nghệ thuật đòi hỏi chiều sâu trí tuệ như văn học.
Ngoài ra, truyền thông, một thành tựu kỳ diệu của khoa học
kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Làm ảnh hưởng không nhỏ đến văn
hóa đọc truyền thống
Thêm vào đó, đặc trưng của thời đại công nghệ hiện nay là
sự thay đổi nhanh chóng các thế hệ công nghệ và sản phẩm công

nghệ làm cho con người hiện đại khó tin vào những chân giá trị,

16


những giá trị tinh thần, đạo đức trường tồn vốn là những trụ đỡ trong
văn học.
4.1.3. Tác động của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa
Hội nhập và toàn cầu hóa là một trong những yếu tố quan
trọng tác động đến thị hiếu và sự lựa chọn để thụ hưởng các sản
phẩm văn hóa tinh thần của công chúng hiện nay, đặc biệt là của
người đọc văn học đương đại. Bên cạnh những mặt tích cực như mở
ra nhiều cơ hội và những trải nghiệm mới cho độc giả, tạo ra một môi
trường phong phú với nhiều phương thức tiếp cận các tác phẩm văn
học; thì toàn cầu hóa và hội nhập cũng đặt ra những thách thức trong
đời sống văn học nước ta hiện nay, đặc biệt, đối với người đọc văn
học, những thách thức này có thể gọi tên là những nguy cơ, về: sự
thờ ơ, thậm chí quay lưng lại của một bộ phận công chúng đối với
văn học; sự lệch chuẩn trong việc lựa chọn các tác phẩm văn học để
đọc của một lớp độc giả trẻ tuổi dẫn đến nguy cơ người đọc ngày
càng xa rời các tác phẩm văn học chân chính... Và đó cũng là những
trăn trở cần phải có sự chung tay góp sức của toàn xã hội để chúng ta
và những thế hệ tương lai có một đời sống vật chất và tinh thần cân
bằng, lành mạnh, bền vững.
4.1.4. Tác động của đời sống xã hội và văn học
Từ sau 1986, cùng với quá trình đổi mới đất nước, dấu ấn
của nền kinh tế thị trường ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã
hội, trong đó có văn học.
Văn học Việt Nam đương đại, với tư cách là một sản phẩm văn
hóa, đã cho thấy những bước chuyển về hình thái tương ứng của nó với

thời đại này. Vấn đề đặt ra là khi trở thành sản phẩm, hàng hóa, thì chất
lượng nghệ thuật của văn học Việt Nam có bị ảnh hưởng không?
Những năm đầu thế kỷ XXI, hình như đang có một nghịch lý
diễn ra trong thực tiễn đời sống văn học Việt Nam: chất lượng nghệ
thuật, chức năng thẩm mỹ, giáo dục của văn học bị tiết giảm để thay vào
đó là chức năng giải trí. Văn học từ địa vị của một hình thái thuộc
thường tầng kiến trúc, trong nền kinh tế thị trường, khi là hàng hóa, buộc
17


phải chấp nhận trở thành sản phẩm, thương phẩm, đáp ứng nhu cầu
“thuận mua vừa bán” của “khách hàng-người đọc”. Và như thế, giá trị tư
tưởng, nghệ thuật bị giảm đi như một tất yếu.
4.2. Các chỉ số nhận diện đặc điểm của người đọc
4.2.1. Sự gia tăng nhu cầu giải trí
Văn học nghệ thuật, từ lâu được mặc định có ba chức năng
cơ bản là nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ. Thực tiễn công cuộc đổi
mới của đất nước ta hơn 30 năm qua, kết hợp với tinh thần giao lưu,
hội nhập toàn cầu đã mang lại cho văn học nghệ thuật một “hệ sinh
thái” và luồng sinh khí mới. Chức năng giải trí, từ chỗ mờ nhạt, và
chưa được thừa nhận đã dần định vị chắc chắn, hơn thế, có lúc, có khi
nó được xem như là “hạt cơ bản” có sức thu hút, vẫy gọi mọi nỗ lực
sáng tạo của văn nghệ sĩ. Và dù muốn dù không, sang đầu thế kỷ
XXI, tính giải trí của các loại hình nghệ thuật nghe nhìn xem, so với
văn học, rõ ràng là đậm nét, nổi bật hơn, hiệu ứng thẩm mĩ, theo đó
cũng dễ lây lan, trực tiếp và mạnh mẽ hơn.
Thực trạng tìm đọc các tác phẩm văn học mang tính giải trí
của độc giả hiện nay vừa đáng mừng vừa đáng lo, đáng mừng vì nó là
tín hiệu tích cực của văn hóa đọc; nhưng mừng ít mà lo nhiều, vì nó
phản ánh một thực tế màu xám về thị hiếu thẩm mĩ của công chúng

yêu văn học hiện nay.
4.2.2. Sự mất dần thói quen đọc sách truyền thống
Việc xóa bỏ tình trạng quan liêu bao cấp sau 1986 khiến cho
văn học trở thành hàng hóa và vận động theo quy luật cạnh tranh.
Môi trường cạnh tranh khi văn học trở thành một loại hàng hóa đòi
hỏi nhà văn phải xác định mục tiêu sáng tạo nghệ thuật là cho công
chúng và vì công chúng, làm thế nào để tác phẩm đến được với công
chúng và được tiếp nhận một cách sâu rộng nhất. Ngoài ra, sự thay
đổi về động cơ và tâm thế tiếp nhận cũng là điều đáng chú ý trong
đời sống văn học. Sự lép vế của văn hóa đọc trước các loại hình giải
trí khác hiện nay, một mặt được lý giải từ bản chất của văn học, vì
văn học vốn là loại hình nghệ thuật đòi hỏi sự tiếp nhận đặc biệt,
18


khác với thưởng thức âm nhạc, hội họa, phim ảnh. Nhưng mặt khác,
nếu trước đây, văn học được coi là thiêng liêng, chức năng giáo dục
đạo đức là quan trọng thì ngày nay tính giải trí của văn học được đề
cao. Cùng với sự phát triển nhanh, mạnh về mọi mặt của đời sống
kinh tế xã hội, đất nước ta cũng đang phải chứng kiến sự lên ngôi
của “văn hóa thị trường”. Có ba đặc điểm có thể nhận thấy ở người
đọc hiện nay là:
Đặc điểm đầu tiên, dễ dàng nhận thấy là: Công chúng hiện
nay đặc biệt là các bạn trẻ rất lười đọc sách. cạnh tranh đáng kể.
Đặc điểm thứ hai là: Công chúng hiện nay đang đứng trước
nguy cơ đọc thụ động.
Đặc điểm thứ ba là: Đầu thế kỷ XXI, công chúng đang dần
đánh mất thói quen đọc sách.
4.2.3. Sự mở rộng các khả năng và giới hạn lựa chọn
Trong bối cảnh hiện nay, nhiều người cho rằng, ngày nay,

chính các phương tiện nghe nhìn – chứ không phải sách – mới là thứ
có thể đáp ứng tối ưu mọi nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật, bồi dưỡng
tinh thần và tình cảm thẩm mỹ của con người. Các thành tựu của
khoa học công nghệ có khả năng chiều chuộng các giác quan của con
người, làm thay đổi cách và cái người ta nhìn, nghe, đọc, từ đó ảnh
hưởng đến cảm xúc, đến cách người ta tiếp nhận và kỳ vọng ở nghệ
thuật. Văn học cũng không nằm ngoài những tác động này của công
nghệ số. Màn hình tinh thể lỏng, với sự tiện dụng và nhiều tính năng
của nó, đã xuất hiện như một khả thể khác. Thực tiễn lịch sử cho
thấy, vị thế văn học trong đời sống tinh thần của xã hội không phải là
một hiện tượng nhất thành bất biến. Văn học là nghệ thuật ngôn từ,
nhưng “đọc” đã không còn là thói quen và sở thích của mỗi con
người trong xã hội hiện đại.

19


4.3. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn tiếp nhận
4.3.1. Vấn đề mối quan hệ giữa văn học đích thực với văn
học truyền thông đại chúng
Những gì đang diễn ra trong đời sống văn học hôm nay đôi
khi không đúng với những chuẩn mực quen thuộc trong tư duy văn
học truyền thống. Không phải những sáng tác có tính hàn lâm, không
phải những đại tự sự mang giá trị phổ quát với những phản ánh vừa
tinh vi, sống động vừa quảng đại, uyên bác mà chính những sáng tác
có dung lượng vừa phải phản ánh những điều gần gũi, bình dị và giản
đơn của cuộc sống thường nhật mới là những thứ dễ dàng xâm chiếm
tâm lý độc giả. Từ đó chúng tôi nhận thấy nảy sinh vấn đề về mối
quan hệ giữ văn học đích thực với văn học truyền thông đại chúng
trong thực tiễn tình hình văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ

XXI.
4.3.2. Vấn đề giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho người đọc
Trong đời sống xã hội, trong quá trình tiếp nhận nghệ thuật,
thị hiếu thẩm mỹ của cá nhân mặc dù đa dạng, có phong phú, vừa
mang tính cá nhân vừa amng tính xã hội nhưng vẫn có mẫu số chung
nhất định, đó là định hướng và giúp con người nhận thức các giá trị
chân - thiện - mỹ, tiếp nhận nghệ thuật không chỉ để thỏa mãn nhu
cầu, để giải trí, mà qua đó thu nạp những giá trị có ý nghĩa xã hội –
nhân văn, những tri thức của nhân loại, dân tộc, từ đó nâng cao sự
hiểu biết, làm phong phú đời sống tinh thần, để có một đời sống hài
hòa, đẹp đẽ.
4.3.3. Vấn đề định hướng giá trị
Trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay, khi mà mọi lĩnh
vực từ kinh tế, chính trị, văn hoà đến xã hội đều có sự biến đổi sâu
sắc, và khi sự biến đổi trong thang bậc giá trị, xã hội đang là một tất
yếu khách quan thì việc định hướng và giáo dục nhận thức thẩm mĩ
chuẩn mực cho công chúng văn học nói riêng, công chúng nói chung
có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết.

20


KẾT LUẬN
1. Mặc dù đến giai đoạn hậu hiện đại, với lý thuyết tiếp
nhận, vai trò của người đọc mới được xem như là một yếu tố tạo
nghĩa, mang nghĩa đến cho tác phẩm, nhưng thực tiễn văn học
cho thấy, từ xa xưa, ở cả phương Đông và phương Tây, trong
thời đại nào, người đọc cũng được nhìn nhận như một khâu, một
mắt xích quan trọng tham gia vào lịch sử văn học và chịu sự tác
động sâu sắc của đời sống văn học. Các thành tựu lý thuyết hiện

đại giúp cho việc nhận thức, lý giải trở nên rõ ràng và khoa học
hơn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của người đọc. Dưới ảnh
hưởng của các lý thuyết tiếp nhận, vị trí, vai trò của người đọc
trong đời sống văn học đến nay đã được đánh giá đúng mức, có
ảnh hưởng quan trọng đối với quá trình sáng tạo nói riêng và đến
sự phát triển của lịch sử văn học nói chung.
2. Qua khảo sát, nghiên cứu về người đọc với tư cách chủ
thể tiếp nhận văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI
chúng tôi nhận thấy, do thực tiễn văn học thay đổi, đời sống xã
hội và lịch sử thay đổi, tư duy lý luận và nhận thức thay đổi đã
dẫn đến những thay đổi về tâm thế tiếp nhận, về sở thích, thị
hiếu và sự lựa chọn của người đọc. Sự thay đổi đó đang tạo ra
một thực trạng người đọc khá đa dạng, đa chiều cần được nhìn
nhận, lý giải từ nhiều góc độ, phương diện khác nhau. Chịu tác
động từ những yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau, người
đọc văn học Việt Nam đương đại mang trong mình một số đặc
điểm cơ bản như: Có sự phân hóa sâu sắc chứ không còn thuần
nhất như người đọc các giai đoạn trước; Có xu hướng tìm đọc
các tác phẩm văn học mang tính giải trí, đọc ngắn, đọc nhanh;
Quan tâm đến các hiệu ứng gây shock hơn là các giá trị cổ điển
trong văn học. Thực trạng người đọc hiện nay không hình thành
một cách ngẫu nhiên mà là kết quả của hàng loạt các yếu tố tác
động có tính quy luật của đời sống xã hội lên tiến trình văn học.
21


Đó không phải là sự vận động tự thân mà là kết quả của các mối
quan hệ biện chứng, nhân quả. Cần ý thức được điều này để
không biệt lập hóa, không tách rời tiến trình văn học với tiến
trình đời sống xã hội. Tuy nhiên, do điều kiện thực hiện luận án

không thể mở rộng quy mô điều tra nên chúng tôi chỉ có thể tập
trung vào đối tượng sinh viên học viên và những người trẻ tuổi
nói chung, do đó những số liệu khảo sát và các kết luận mang lại
còn có phần hạn chế ở một phạm vi nhất định.
3. Từ thực tiễn văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XXI chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề lý luận đặt ra như sau:
Một là: Thị hiếu thẩm mĩ của người đọc văn học hiện nay có rất
nhiều vấn đề đặt ra trong bối cảnh chịu sự tác động sâu sắc của
các yếu tố kinh tế xã hội và sự tác động nội tại từ chính bản thân
người đọc. Thị hiếu thẩm mĩ đóng vai trò chi phối tới hoạt động
tiếp nhận của người đọc, việc người đọc có ít thời gian cho việc
đọc sách nói chung và sách văn học nói riêng đặc biệt là đọc
sách nhanh hơn, sách mỏng hơn, lười đọc hơn và nhu cầu đọc
sách in ngày càng giảm đang là một vấn đề nan giải. Từ sự phân
hóa thị hiếu thẩm mĩ của người đọc trong thực tiễn tiếp nhận văn
học đương đại, đòi hỏi phải có ứng xử phù hợp trong nghiên cứu
và sáng tác; Hai là: Tuy người đọc có vai trò quan trọng, nhưng
hoạt động định hướng giá trị, định hướng tiếp nhận của lý luận
phê bình là vô cùng cần thiết trong đời sống văn học, vì thế, cần
được đẩy mạnh vì phê bình văn học luôn được xem là “ý thức
triết học của văn học”; Ba là: Từ thực tiễn người đọc hiện nay
thiên về lựa chọn các tác phẩm mang tính giải trí trong văn học,
việc tiếp nhận văn học tinh hoan đang dần bị co hẹp trước sự
bành chướng của văn học thị trường đòi hỏi các khâu sáng tác, lý
luận và phê bình văn học phải có những bước đi mang tính
“chiến lược” trong văn học nghệ thuật, giúp văn học phát triển
cân bằng và bền vững. Thêm nữa từ các kết quả nghiên cứu của
luận án có thể thấy vai trò to lớn của giáo dục đào tạo trong việc
22



phát triển bền vững tình yêu và niềm say mê đọc sách nói chung,
sách văn học nói riêng cho mỗi cá nhân. Để giảm và tránh các
hiện tượng tiêu cực trong xã hội, để con người sống không hoài
phí và sống một cách hạnh phúc hơn, để xã hội phát triển bền
vững, đất nước ngày càng giàu mạnh, tất cả đều bắt đầu từ giáo
dục đào tạo, mà cụ thể là từ việc mỗi người tự rèn luyện cho
mình tình yêu sách, thói quen đọc sách và tích lũy tri thức.
4. Người đọc văn học nhìn từ phương diện thực tiễn tiếp
nhận văn học đương đại là một lĩnh vực mới, một đối tượng đang
vận động và phát triển, nên tiến trình nghiên cứu, tổng kết còn
đang bỏ ngỏ. Vì vậy rất cần có những nghiên cứu tiếp sau, một
cách sâu sắc và toàn diện hơn để cung cấp những luận cứ khoa
học chắc chắn giúp cho việc nhận thức tiến trình văn học thêm
đầy đủ.
Phạm vi nghiên cứu về người đọc văn học Việt Nam
trong khoảng 15 năm đầu thế kỷ XXI khá rộng, nghiên cứu sinh
lại chưa đủ điều kiện để tiến hành các cuộc điều tra, khảo sát xã
hội học trên quy mô lớn, nên luận án chưa và không thể bao quát
hết được các chiều khía của đời sống văn học hiện nay. Trong
quá trình nghiên cứu thực tiễn, chúng tôi mới chỉ dừng lại ở việc
khảo sát trực quan, khảo sát số liệu trên các nguồn link có độ tin
cậy cao và tham khảo các số liệu về thực trạng đọc của các
nghiên cứu đi trước để có thể phác thảo diện mạo người đọc văn
hôm nay với ba đặc điểm cơ bản nhất. Với những hạn chế về khả
năng, sự tiếp nhận tri thức và đối tượng khảo sát có giới hạn,
chúng tôi mong muốn luận án góp phần khơi mở cho các hướng
nghiên cứu đi sau đa dạng, phong phú và mang tầm khái quát
rộng lớn hơn về người đọc. Bởi chính người đọc, như chúng tôi
đã nhận định là đích đến và là động lực của sáng tạo văn học.


23


×