Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.77 KB, 25 trang )

VẤN ĐỀ 1: VĂN HÓA – VĂN MINH
❖ Văn hóa là khái niệm mang tính nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên
quan đến mọi mặt đời sông vật chất và tinh thần của con người. Văn hóa là sản phẩm do con
người sáng tạo ra từ thuở bình minh của xã hội loài người nhưng đến nay khái niệm về văn
hóa vẫn chưa được thống nhất.
o Theo ngôn ngữ của phương Tây, từ tương ứng với văn hóa của tiếng Việt (culture trong

o

o

o

o

o

o

tiếng Anhvà tiếng Pháp, kultur trong tiếng Đức,...) có nguồn gốc từ chữ Latinh "Cultus"
với nghĩa gốc là gieotrồng, được hiểu theo hai nghĩa: "Cultus Agri" - trồng trọt/ canh tác
nông nghiệp (trồng cây) và"Cultus Animi" - "trồng trọt"/ "canh tác" tinh thần (trồng
người - sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn con người)
Ở phương Đông, văn hóa là 1 phạm trù đối lập với vũ trụ, văn hóa = văn+hóa. Trong đó,
văn là cái đẹp được biểu hiện trong lễ nhạc, ngôn ngữ, cách cai trị, quy tắc ứng xử đẹp
đẽ. Hóa là giáo dục giáo hóa con người hướng tới cái chân thiện mĩ.
Trong Tiếng Việt, khái niệm văn hóa có nhiều nghĩa:
+ Nghĩa hẹp: học thức, lối sống, nếp sống hoặc trình độ phát triển của một giai đoạn.
+ Nghĩa rộng: văn hóa bao gồm tất cả những giá trị tinh thần và vật chất.
Theo định nghĩa của UNESCO: "Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần, do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự


tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội"
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới phát minh và sáng tạo ra ngôn ngữ, chữ viết, pháp luật, đạo đức, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc , ở và các phương
tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa”
Cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “nói tới văn hóa là nói tới 1 lĩnh vực vô cùng phong
phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến
con người trong suốt quá trình hình thành và phát triển, quá trình con người làm nên
lịch sử... cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với ý nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của
nó, bao gồm cả hệ thống giá trị tư tưởng và tinhg cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và
tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản
lĩnh của 1 cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình không ngừng
lớn
mạnh.
nghĩa văn hóa: “ Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị mà con người sáng tạo và
tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Nhà Triết học người Ý ViCo xem: “Văn hóa là tập hợp bao gồm kinh tế chính trị, khoa học,
nghệ thuật.”


❖ Khái niệm văn minh:
Lâu nay, một số người vẫn xem văn hóa đồng nghĩa với văn minh, sử dụng hai thuật
ngữ này ngang hàng với nhau. Thực ra, chúng không giống nhau.
Thuật ngữ văn hóa (culture, cultura, Kultur) có nghĩa gốc gắn với trồng trọt, nuôi
dưỡng, đào luyện, tức là “canh tác nông nghiệp” và “canh tác tinh thần”. Văn hóa có được
là nhờ một quá trình nuôi dưỡng và đào luyện hiểu theo nghĩa rộng. Nói cách khác, chủ
thể văn hóa phải trải qua một tiến trình lịch sử để có được cái chất văn hóa cần thiết, do
đó văn hóa mang tính lịch sử. Trong tiến trình ấy, con người - chủ thể văn hóa cũng tự
mình phát triển qua các hoạt động xã hội. Và thế là, có thể nói con ngườimang trong mình
các loại di truyền như di truyền sinh học (con người tự nhiên), di truyền ngôn ngữ và di

truyền xã hội (con người xã hội) có sự nhập thân của văn hóa hay còn gọi là di truyền
văn hoá.
Một số học giả sử dụng khái niệm văn minh (thuật ngữ civilisation, sivilizatsia,
Zivilisation) để chỉ sự sáng tạo văn hóa nhờ một trật tự xã hội gây ra và kích thích: văn
minh được dùng theo nghĩa tổ chức xã hội, tổ chức luân lý và hoạt động văn hóa. Trong
tiếng Đức, văn minh là từ dùng để chỉ các xã hội đã đạt được tới giai đoạn tổ chức đô thị
và có chữ viết. F.Ăngghen thì cho rằng văn minh là chính trị khoanh văn hóa lại, và sợi
dây liên kết văn minh là nhà nước (Trần Quốc Vượng, tldd, tr.12-13).
GS.Trần Ngọc Thêm cho rằng văn minh là trình độ phát triển nhất định của văn hóa
về phương diện vật chất và mang tính quốc tế (Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam,
Nxb. ĐHTH Tp. Hồ Chí Minh, 1996, tr. 47- 48).
Như vậy, trong các cách hiểu về văn minh đã nổi bật những vấn đề cơ bản sau đây:
o Văn minh xuất hiện khi ngôn ngữ ra đời, và đồng thời với nó là một trình độ kỹ
thuật phát triển trong một xã hội, một nhà nước có sự phân công lao động phát
triển tương đối rõ rệt.
o Văn minh xuất hiện khi con người có khát vọng vươn tới cái đẹp và biết làm
đẹp cuộc sống của mình. Do đó, văn minh là sự sáng tạo, là một trình độ phát triển
nhất định của văn hóa, đặc trưng cho một không gian văn hóa tương đối rộng lớn
và một thời gian văn hóa tương đối dài.
❖ Mối quan hệ giữa văn hóa và văn minh: VH và VM có mối quan hệ tương tác qua lại,
chặt chẽ. VH là nền tảng để cho sự phát triển của VM. Trong tương quan giữa văn hóa và văn
minh thì văn hóa thuộc “tĩnh”, văn minh thuộc “động”. Song không có nghĩa tuyệt đối là trong
văn hóa chỉ có tĩnh và trong văn minh chỉ có động hoàn toàn, hai mặt này – văn hóa và văn
minh luôn có sự tương tác và gắn bó chặt chẽ với nhau. Văn hóa trở thành cốt lõi và linh hồn
của văn minh. Có thể nhận định một cách quy ước, văn hóa có xu hướng thiên về sự bảo tồn,
gìn giữ các giá trị - chuẩn mực và bản sắc dân tộc, thuộc phạm trù truyền thống còn văn minh
là sự tiếp nhận, hội nhập và học hỏi những yếu tố tiên tiến của thời đại, thuốc phạm trù hiện
đại. Xét về giá trị thì văn minh có xu hướng thiên về cái chung, nó được chấp nhận ở đa số cộng



đồng, còn văn hóa lại thiên về cái riêng – cái đặc thù – làm nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng
– dân tộc. Hai mặt này luôn tồn tại trên từng dòng chảy của lịch sử (tính thời gian).
❖ Phân biệt sự khác nhau giữa khái niệm văn hóa và văn minh:
o Trong khi văn minh được định nghĩa là “trình độ phát triển” tức là chỉ
1 xã hội đạt tới mức độ tổ chức đô thị và có chữ viết, văn minh là chỉ trình độ
phát triển của văn hóa về đặc trưng cho 1 khu vực rộng lớn, 1 thơi đại hoặc
cả nhân loại. Trong khi văn hóa luôn có bề dày lịch sử thì văn minh chỉ là 1 lát
cắt đồng đại cho biết trình độ phát triển của từng giai đoạn, từng khu vực. Nói
đến văn minh, người ta liền nghĩ ngay đến những tiện nghi vật chất. Ví dụ: xe
lửa, máy bay là 1 sản phẩm của văn minh chứ không phải của văn hóa. => văn
minh luôn thay đổi, văn hóa thì ít thay đổi hơn.
o Về giá trị: như vậy văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính giá trị:
văn hóa chứa đựng cả giá trị vật chất và tinh thần còn văn minh chỉ thiên về
giá trị vật chất. Vì vậy văn minh có thể so sánh cao thấp còn văn hóa chỉ là sự
khác biệt.
o Về phạm vi: sự khác biệt của văn minh và văn hóa về giá trị tinh thần
và lịch sử dẫn đến sựu khác biệt về phạm vi. Văn hóa mang tính dân tộc, còn
văn minh mang tính quốc tế, nó đặc trưng cho cả 1 khu vực rộng lớn hoặc
nhân loại bởi vật chất dễ phổ biến và lây lan.
o Về nguồn gốc: sư khác biệt tiếp theo là về nguồn gốc: văn hóa gắn nhiều
hơn với phương Đông – nông nghiệp còn văn minh thì gắn bó nhiều hơn với
phương Tây – đô thị.
• Văn hóa và văn minh khác nhau trước hết ở tính giá trị
o Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và giá trị tinh thần, vật thể và
phi vật thể, tĩnh và động. Văn minh thiên về giá trị vật chất, trình độ kỹ thuật.
o Ở phương diện này, văn hóa là một khái niệm bao trùm, bao quát hơn văn minh.
Nhà văn hóa học người Nga Likhachốp cho rằng văn hóa giàu tính nhân bản, có giá
trị muôn thuở, còn văn minh mang trong mình ý tưởng của sự hợp lý, tiện lợi về
mặt vật chất - kỹ thuật trong đời sống của con người.
• Văn hóa và văn minh khác nhau ở tính lịch sử

o Văn hóa là dòng chảy lịch sử dân tộc, văn minh là lát cắt đồng đại.
o Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người
sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn. Điều này có nghĩa là văn
hóa luôn luôn có bề dày và chiều sâu lịch sử. Trong khi đó, văn minh chỉ là một lát
cắt đồng đại, nó cho biết trình độ phát triển nhất định của văn hóa.
o Tính giá trị và tính lịch sử là hai đặc trưng cơ sở quan trọng nhất để phân biệt
hai khái niệm văn hóa và văn minh. Thật vậy, trên thực tế, một dân tộc có trình độ
văn minh cao vẫn có thể có một nền văn hóa với bề dày và chiều sâu lịch sử không
lớn (chỉ vài trăm năm chẳng hạn), thậm chí còn thiếu vắng một cơ sở văn hóa đặc


trưng cho dân tộc mình, tức là khó tìm ra được nét độc đáo trong hệ thống văn hóa
ấy, vì vậy cũng khó khẳng định được bản sắc văn hóa dân tộc. Ngược lại, một dân
tộc lạc hậu vẫn có thể có một nền văn hóa phong phú nhờ bề dày và chiều sâu lịch
sử trên một cơ sở văn hóa vững chắc.
• Văn hóa và văn minh khác nhau ở phạm vi ảnh hưởng
o Văn hóa mang tính dân tộc, văn minh mang tính nhân loại. Tính dân tộc được
giải thích bởi tính giá trị tinh thần và tính lịch sử của văn hóa. Còn tính nhân loại,
tính toàn cầu của văn minh được lý giải bởi giá trị vật chất - kỹ thuật và trình độ
phát triển cũng như khả năng lan truyền trên một phạm vi rộng lớn hoặc toàn cầu.
VẤN ĐÊ 2: ĐẶC TRƯNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA


Phân tích các đặc trưng và chức năng của Văn hóa:
o Tính hệ thống: Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống.Đặc trưng này cần để phân biệt
hệ thống với tập hợp; nó giúp phát hiện những mối liênhệ mật thiết giữa các hiện tượng,
sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các đặc trưng,những quy luật hình thành và
phát triển của nó. Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao
trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn
hóa thường xuyên làmtăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện

cần thiết để ứng phó vớimôi trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó là nền tảng của xã
hội - có lẽ chính vì vậymà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái
niệm văn hoá (nền văn hóa).
o Tính giá trị: văn hóa có nghĩa là “ trở thành cái đẹp, thành giá trị”. Văn hóa chứa cái
đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Đặc
trưng tính giá trị cho phép phân biệt văn hóa với hậu quả của văn hóa hoặc những hiện
tượng phi văn hóa. Các giá trị văn hóa theo chất liệu có thể chia thành giá trị vật chất và
tinh thần; theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm
mỹ (chân-thiện-mĩ); theo thời gian có thể chia thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời.
Trong các giá trị nhất thời lại phân biệt các giá trị lỗi thời, giá trị hiện hành và giá trị
đang hình thành. Sự phân biệt các loại giá trị theo thời gian cho phép ta có được cái
biện chững và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh
được những xu hướng cực đoạn – phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời. Nhờ vậy
mà về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn,
theo bình diện được xem xét.
Vì vậy mà, Về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo
góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng có thuộc phạm
trù văn hóa hay không phải xem xét mối tương quan giữa các mức độ “giá trị” và “phi
giá trị” của nó. về mặt lịch đai, cùng một hiện tượng sẽ có thể có giá trị hay không tùy


thuộc vào chuẩn mực văn hóa cùa từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào Việt Nam, việc
đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, các triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn…
đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thê’
Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng
thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân
bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường,
giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.
o Tính nhân sinh: Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hoá như một hiện tượng xã
hội (do con người sáng tạo, nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa là cái

tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể
mang tính vật chất (như việc luyện quặng, đẽo gỗ...) hoặc tinh thần (như việc đặt tên,
truyền thuyết cho cáccảnh quan thiên nhiên...). Như vậy, văn hóa học không đồng nhất
với đất nước học. Nhiệm vụ của đất nước học làgiới thiệu thiên nhiên - đất nước - con
người. Đối tượng của nó bao gồm cả các giá trị tựnhiên, và không nhất thiết chỉ bao gồm
các giá trị. Về mặt này thì nó rộng hơn văn hoá học. Mặt khác, đất nước học chủ yếu
quan tâm đến các vấn đề đương đại, về mặt này thìnó hẹp hơn văn hóa học.Do mang
tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, nó thực
hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau. Nếu ngôn ngữ làhình
thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.
o Tính lịch sử: Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được
tích luỹ qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát
triển của từnggiai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu; nó
buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị.
Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là những
giá trị tương đốiổn định (những kinh nghiệm tập thể) được tích lũy và tái tạo trong
cộng đồng người quakhông gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã
hội và cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán. nghi lễ, luật pháp, dư
luận...Truyền thống văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng
quan trọng thứ tư của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ
bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà hệ thống chuẩn mực mà con người
hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách
(trồng người). Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính
kế tục của tịch sử: Nó là một thứ "gien" xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho
các thế hệ mai sau.


VẤN ĐỀ 3: THÀNH TỰU VĂN HÓA VIỆT NAM
❖ Thời kỳ tiền sử (cách nay mấy chục vạn năm cho đên khoảng TK VIII TCN) và thời kỳ
sơ sử (800-700 năm TCN đến TK I CN)

o Về mặt kỹ thuật: Văn hóa tiền sử và sơ sử hình thành và phát triển trên cơ sở cuộc
cách mạng luyện kim với nghề đúc đồng dần đạt đến mức hoàn thiện (tiêu biểu là nền
văn hóa Đông Sơn).
o Về đời sống kinh tế: Hình thành nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước của người
Việt cổ sống trong khu vực nhiệt đới gió mùa, một xứ sở có nhiều sông nước, núi rừng,
đồng bằng và biển cả. Người Việt cổ biết thuân dưỡng một số gia sức (bò, trâu, gà, vịt,
heo), biết dùng trâu, bò để cày bừa, biết trồng dâu nuôi tằm, dệt vãi. Ở ven các dòng sông
và ve biển dân bản địa thạo nghề đi biển và đánh bắt hải sản.
o Dùng cau thuốc Nam chữa bệnh. Uống chè.
o Người Việt cổ làm nhà sàn hình chữ nhật bằng tranh tre, có mái cong mà mô hình còn
thấy trong mộ táng thuộc văn hóa Đông Sơn 2000 năm TCN. Khi định cư ở Trung Nguyên,
dân Hán đã theo mô thức nhà này của người Việt.
o Về tổ chức xã hội và đời sống tinh thần:
• Nền văn hóa tiền sử và sơ sử tổ chức xóm làng dựa trên cơ cấu nông thôn kiểu
Á Châu của một xã hội phân bố chưa sâu sắc, gay gắt và nhà nước mới hình thành.
Nhà nước vừa có mặt bóc lọt công xã, lại vừa đại diện cho lợi ích chung của công
xã trong yêu cầu tổ chức đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chống thiên tai, khai
hoan, trị thủy làm thủy lợi, tự vệ và chống ngoại xâm. Ở các vùng núi dân cư còn ở
trình độ tổ chức bộ lạc; nhưng ở trung du và đồng bằng cư dân đã dần đân vươn
đến trình độ tổ chức liên minh bộ lạc,
• Nền văn hóa tiền sử và sơ sử thể hiện đậm nét bản lĩnh, truyền thống, cốt cách,
lỗi sống và lẽ sống của người Việt cổ: Chung lưng đấu cật, đoàn kết, gắn bó với nhau
trong lao động và đấu tranh, giàu tình làng nghĩa nước, tôn trọng người già và phụ
nữ, biết ơn và tôn thờ tổ tiên, các anh hùng nghĩa sĩ,....; có cội rễ và cơ sở sâu xa
trong cuộc sống lâu đời của các lớp cư dân trên lãnh thổ Văn Lang – Âu Lạc thuở
đó.
• Nền Văn học dân gian hình thành và phát triển đặc biệt là các thể loại như thần
thoại, truyền thuyết,...
• Có thể ông cha ta đã tạo ra hệ thống văn tự, chữ viết, nhưng về sau bị xóa bỏ. Sử
Trung Quốc cũng đã chép: người phương Nam có thứ chữ “khoa đầu”. Những cứ

liệu về dầu vết chữ viết trên phiến đá ở Sapa, trên lưỡi cày Đông Sơn, trống đồng
Lũng Cú,... có thể là bằng chứng cho nghi vấn này.
• Nền văn hóa sơ sử sớm có quan hệ giao lưu mật thiết với các nền văn minh láng
giềng, đặc biệt là văn minh Trung Hoa và Ấn Độ.


❖ Thành tựu văn hóa thời thiên niên kỷ đầu công nguyên (thời bắc thuộc) (từ đầu thế
kỷ I đến thế kỷ X)
Do hoàn cảnh lịch sử, VH thời kì này thành tựu không lớn. Tuy nhiên có thể nêu một
số thành tựu cơ bản sau:
a. Bảo tồn và phát triển VH dân tộc:
o Trong suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, nhân dân ta đã phải liên tục tiến hành
các cuộc đấu tranh vũ trang để giành độc lập và đồng thời ra sức bảo tồn phát triển văn
hóa dân tộc, chống lại âm mưu đồng hóa dân tộc của bọn phong kiến phương Bắc. Trong
các cuộc đấu tranh đó thì cơ cấu tổ chức các xóm làng Việt cổ là thành lũy vững chắc mà
bọn đô hộ phương Bắc không thể nào với tay tới được.
o Thành tựu quan trọng của cư dân Âu Lạc là đã bảo tồn được tiếng nói của dân tộc.
Tất nhiên, dưới ách thống trị lâu ngày bọn xâm lược, cùng với sự phát triên của cuộc
sống, tiếng Việt cũng có những biến đổi. Nhưng người Âu Lạc đã hấp thụ ảnh hưởng
ngôn ngữ Hán một cách độc đáo, sáng tạo, đã Việt hóa những từ ngữ ấy theo các dùng,
cách đọc của người Việt, tạo thành một lớp từ mới gọi là từ Hán – Việt. Như vậy Tiếng
Việt không bị mất đi mà lại còn giàu có và hoàn thiện về mặt âm tiết. Chữ Viết của người
Hán cũng được ông cha ta tiếp thu và xây dựng thành chữ Nôm.
o Trong tín ngưỡng và phong tục, người Việt vẫn một lòng tôn kính và biết ơn với
cha mẹ, tổ tiên, tôn trọng phụ nữ, sống chan hòa, công đồng trong làng chạ, thờ cúng
các thiên thần, nhiên thần và nhân thần, các biểu tượng về khát vọng dân tộc. Các tụng
lệ nư búi tóc, xăm mình, nhuộm răng, ăn trầu vẫn được giữ gìn.
o Nền văn học dân gian tiếp tục phát triển.
b. Tiếp thu và “Việt hóa” ảnh hưởng của văn hóa Hán và văn hóa Ấn Độ:
o Tranh thu sự giao thương dưới thời Bắc thuộc, nhân dân Âu Lạc đã trao đổi và

trang bị rộng rãi các công cụ bằng sắt cho ngành nông nghiệp. Họ đã tiếp thu kĩ thuật
bón phân Bác của người Trung Quốc, phát triển giống cây trồng nhằm đa canh hóa và
mở rộng lúa hai vụ.
o Kết hợp giữa kinh nghiệm cổ truyền với kinh nghiệm học tập của Trung Quốc, cư
dân Âu Lạc đã sản xuất được loại gốm tráng men nửa sành nửa sứ. Trong nghề dệt,
nhân dân Âu Lạc đã sản xuất được lụa, vải bông, vải cát bá, vải tơ chuối, vải bạch điệp...
o Trong lĩnh vực âm nhạc, thời Bắc thuộc người Việt đã tiếp thu một số nhạc cụ
người Trung Quốc như chuông, khánh, của Ấn Độ như trống cơm, của Trung Á là Hồ
Cầm.
o Trong kiến trúc và điêu khắc là kĩ thuật kiến trúc lối vòm cuốn sử dụng gạch múi
bưởi của người Trung Quốc, tượng tròn bằng đồng có nguồn gốc Nam Á - Ấn Độ.
o Trên lĩnh vực chính trị, mô hình tổ chức nhà nước của Trung Quốc đã bước đầu
được Lý Nam Đế tiếp thu trong việc xây dựng chính quyền tự chử thời Vạn Xuân.


c. Về tín ngưỡng, trong xu hướng giao lưu tự nguyện lúc bấy giờ, cha ông ta đã
tiếp nhận hai nguồn văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc.
o Truyền vào nước ta theo con đường hòa bình, đó văn hóa Phật giáo thâm nhập vào
miền Bắc, Bà La Môn đi vào miền Trung bộ tạo dựng nên vương quốc Chamwpa.
o Những đóng góp của Phật giáo trung hòa các ảnh hưởng đến từ Trung Hoa, khiến
cho văn hóa Âu Lạc tuy bị Hoa hóa những vẫn khác với văn hóa Trung Hoa. Trong hưởng
của hệ tư tưởng Phật giáo ở nước ta lúc bấy giờ thì tư tưởng thiền tông với chủ trương
“Phật tại tâm” chiếm vai trò chủ đạo, tạo điều kiện cho xu hướng nhập thế của Phật giáo
ở Việt Nam.
❖ Thành tựu văn hóa thời Đại Việt (độc lập tự chủ) ( từ TK X - XIX)
o Nền văn hóa dân tộc được phục hồi nhanh chóng và phát triển mạnh mẽ, rực rỡ, với
sự đa dạng của văn hóa các dân tộc anh em suốt từ Bắc chi Nam. Nước ta đã có một nền
văn hóa phong kiến ngang tầm trong khu vực, đủ sức tự cường và giư vững độc lập dân
tộc.
o Tiếp nhận Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo Trung Hoa theo xu hướng “ Tam giao đồng

quy”, trên cơ sở truyền thống dân tộc, trong đó Nho giáo là chủ yếu. Lý Thánh Tông cho
xây văn miếu thờ Khổng Tử năm 1070, Lý Nhân Tông lập Quốc Tử Giám năm 1076. Thời
Lê, Nho giáo đạt đến độ thịnh vượng nhất, trở thành Quốc giáo. Nho sĩ chiếm địa vị cao
trong xã hội, trở thành lực lượng rường cột trong bộ máy quan lại phong kiến Việt Nam,
VHVN chuyển sang đỉnh cao kiểu khác: văn hóa Nho giáo.
o Các công trình nổi tiếng: Chùa Diên Hựu, tháo Bảo Thiên, chuông Quy Điền, tượng
Phật Quỳnh Lâm thời Lý, chùa tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn thời Trần.
o Kiến trúc: Văn Miếu – Quốc Tử Giám, hoàng thành Thăng Long, thành nhà Hồ, cung
điện, lăng tẩm Huế.
o Chữ Hán trở thành văn tự chính thức của nước ta suốt thời kỳ này. Nền văn học
bằng chữ Hán phát triển rực rỡ. Bên cạnh đó, nhân dân ta sáng tạo ra chữ Nôm (khoảng
TK VIII – X) để ghi âm tiếng Việt. Thành tựu văn học Nôm có các tác giả, tác phẩm tiêu
biểu như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân
Hương, Cao Bá Quát.... Đặc biệt là truyện Kiều (3254 câu thơ lục bát) của Nguyễn Du,
đỉnh cao thơ văn dân tộc.
o Văn hóa dân gian:
• Văn học truyển miệng tiếp tục phát triển: ca dao, tục ngữ, hò, vè,....
• Nghệ thuật biểu diễn ca múa nhạc thời Lý -Trần phát triển phong phú, trong đó
đặc sắc nhất là nghệ thuật múa rối nước ta có thời Lý.
• Trò chơi nhân gian: đánh phết, đánh đu, chọi trâu, lò cò, ô ăn quan...đến nay vẫn
còn bắt gặp, nhất là trong hội làng.


• Thủ công mĩ nghệ: đã nung được nhiều loại men gốm bền đẹp: men ngọc, men
hoa nâu, men hoa nâu, men nhiều màu.
• Hội họa: tranh dân gia Đông Hồ, Hàng trống.
o Tóm lại, những thành tựu nói trên cho ta thấy văn hóa Đại Việt là sự tiếp nối và kiện
toàn bản sắc truyền thống văn hóa Việt Nam đã có từ tiền sử, thể hiện một nền văn hóa
rực rỡ, phong phú, độc đáo, mang đậm tính dân tộc và giàu tính dân gian; đồng thời
khẳng định được bản sắc của một dân tộc đã trưởng thành, một quốc gia văn hiến, là cơ

sở và sức mạnh để hội nhập với thế giới tiên tiến bên ngoài.
❖ Thời kì Pháp thuộc (từ năm 1858 đến năm 1945)
Kể từ khi đặt nền cai trị trên cõi Đông Dương và Việt Nam đầu TK XX, văn hóa Phương
Tây tự do tràn vào Việt Nam.
o KH-XH-NV nước ta vốn có bề dày nhưng cần tiếp thu những phương pháp mới
o KH-TN-KT hầu như hoàn toàn mới được tiếp thu nhanh
o CS-HT-KT đường quốc lộ, nhà máy điện, nhà bưu điện,... bắt đầu được đầu tư xây
dựng.
o Các trường học và trường cao đẳng được thành lập.
o Tiếng Pháp được đưa vào giảng dạy trong các trường học
o Hệ chữ Quốc ngữ được sáng tạo ra đã góp phần giúp cho phong trào học tập,
truyền bá văn hóa mới được nhanh chóng hơn.
o Hệ tư tưởng dân chủ tự do tư sản truyền vào nước ta.
o Văn học nghê thuật phương Tây ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn nghệ nước
ta vào giai đoạn 1930 – 1945.
o Tư tưởng Mác – Lênin được tiếp thu sáng tạo vào Việt Nam qua những nhà trí
thức giàu lòng yêu nước.
 Nhìn chung dân ta đã chấp nhận Âu hóa, vừa chống Âu hóa trong những chừng
mực nhất định, đảm bảo vừa tiến kịp tiến trình phát triển của thề giới vừa giữ gìn bản
sắc dân tộc.


VẤN ĐỀ 4: CÁC LOẠI HÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM
❖ Sự khác nhau cơ bản giữa loại hình văn hóa gốc du mục và loại hình văn hóa gốc
nông nghiệp
Tiêu chí

sở
hình
thành

Đặc điểm

Văn hóa gốc nông nghiệp
Khí hậu nóng ẩm mưa nhiều,sông
ngòi chằng chịt , đồng bằng phì nhiêu
màu mỡ nông nghiệp trồng trọt phát
triển.
=> Văn hóa nông nghiệp trồng trọt
-Sống định cư, không thích di chuyển
=> Trọng tĩnh
- Tôn thờ sùng bái tự nhiên mong
muốn hòa hợp với thiên nhiên.
- Cuộc sống định cư tạo nên tính cộng
đồng cao.
=>Hình thành lối sống trọng
tình,trọng văn trọng phụ nữ.
-Phương thức sản xuất phụ thuộc vào
nhiều yếu tố tự nhiên nên hình thành
kiểu tư duy tổng hợp biện chứng.
-Do tư duy tổng hợp biện chứng nên
hình thành thái độ ứng xử linh hoạt
mềm dẻo

Văn hóa gốc du mục
Khí hậu lạnh khô, địa hình chủ yếu
là thảo nguyên thích hợp cho chăn
nuôi phát triển.
=> Văn hóa chăn nuôi du mục.

-Sống du cư nên có thói quen thích

di chuyển =>trọng động.
- Tham vọng chinh phục, chế ngự tự
nhiên.
- Yếu tố cá nhân được coi trọng .
=> Hình thành lối sống thích ganh
đua, cạnh tranh,ứng xử độc đoán
trong giao tiếp.
- Chăng nuôi du mục hình thành
kiểu tư duy phân tích chú trọng vào
từng yếu tố.
- Do kiểu tư duy này nên hình thành
lối sống trọng lý, ứng xử theo
nguyên tắc.
=> Thói quen tôn trọng pháp luật vì
vậy mà hình thành rất sớm ở
phương tây.
❖ Những ưu điểm và hạn chế của hai loại hình văn hóa gốc du mục và loại hình văn
hóa gốc nông nghiệp
Tiêu chí
Ưu điểm

Văn hóa gốc nông nghiệp
Văn hóa gốc du mục
- Mối gắn kết cộng đồng và tinh
- Thích tìm tòi và chinh phục
thần đoàn kết cao.
tự nhiên.
- Lỗi sống hòa bình, dĩ hòa vi quý.
- Đề cao tài năng của c
Nhược điểm

- Ngại thay đổi
- Tính gắn kết cộng động thấp.
- Không coi trọng tài năng, coi
- Chủ nghĩa cá nhân phát triển
trọng kinh nghiệm,
mạnh.
- Không dám đấu tranh vì cái
đúng do sợ mẫu thuẫn mất tình
cảm.


Các nền văn hóa trên thế giới rất phong phú và đa dạng. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có một
nền văn hóa riêng. Tuy nhiên, khi so sánh, ta thấy giữa các nền văn hóa khác nhau ít nhiều có
những nét tương đồng. Có nhiều thuyết khác nhau giải thích cho sự tương đồng này như:
Thuyết khuếch tán văn hóa, Thuyết vùng văn hóa, Thuyết loại hình kinh tế- văn hóa. ..Có nhiều
thuyết khác nhau nhưng tựa chung đều thừa nhận trên thế giới đã hình thành hai loại hình Văn
hóa: Văn hóa gốc nông nghiệp và Văn hóa gốc du mục.
Văn hóa gốc nông nghiệp tồn tại chủ yếu ở phương Đông, văn hóa gốc du mục tồn tại ở
phương Tây. Sự khác biệt của hai loại hình văn hóa gốc xuất phát từ sự khác biệt về môi trường
sống. Môi trường sống của cư dân phương Đông là xứ nóng, sinh ra mưa nhiều, tạo nên những
con song lớn với những vùng đồng bằng trù phú. Còn phương Tây là xứ lạnh, khí hậu khô,
không thích hợp cho động vật sinh trưởng, có chăng chỉ là những vùng đồng cỏ mênh mông.
Hai địa hình này khiến cho dân cư ở hai khu vực phải sinh sống bằng những nghề khác nhau:
trồng trọt và chăn nuôi.
Việc sinh sống bằng những nghề khác nhau đã để lại những dấu ấn quan trọng trong đời
sống văn hóa, tạo nên sự khác biệt lớn trong tính cách, suy nghĩ, thói quen… của dân cư ở hai
khu vực này.
Ở loại hình văn hóa gốc du mục, trong ứng xử với tự nhiên, nghề chăn nuôi gia súc đòi hỏi
cư dân phải sống theo lối du cư, nay đây mai đó, ít phụ thuộc vào thiên nhiên nên sinh ra coi
thường tự nhiên, dẫn đến tham vọng chinh phục tự nhiên, chế ngự thiên nhiên. Ngược lại, ở

loại hình văn hóa gốc nông nghiệp, nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ
cây cối lớn lên, đơm hoa, kết trái và thu hoạch. Do sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân
nông nghiệp có ý thức tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên.
Về mặt nhận thức, nghề chăn nuôi du mục đồi hỏi sự khẳng định vai trò cá nhân, thêm vào
đó, dối tượng mà hàng ngày con người tiếp xúc là đàn gia súc với từng cá thể độc lập, từ đó
hình thành kiểu tư duy phân tích, chú trọng vào từng yếu tố. Kiểu tư duy này là cơ sở của sự
phát triển của khoa học dựa trên những cơ sở khách quan, lý tính. Trong khi đó, nghề trồng
trọt của cư dân nông nghiệp phụ thuộc cùng lúc vào nhiều yếu tố: trời, đất, nắng, mưa,… đã
hình thành kiểu tư duy tổng hợp- biện chứng. Lối tư duy này thiên về kinh nghiệm chủ quan
hơn là các cơ sở khách quan và chứng cứ thực nghiệm.
Trong tổ chức cộng đồng, cư dân vùng văn hóa gốc du mục vì lối sống du cư nên tính gắn
kết cộng đồng không cao, yếu tố cá nhân được coi trọng, đẫn đến tâm lý ganh đua, cạnh tranh,
độc đoán trong tiếp nhận, cứng rắn trong đối phó. Cũng vì cuộc sống du cư nên coi trọng sức
mạnh, kéo theo trọng tài, trọng võ, trọng nam giới; coi trọng vai trò cá nhân dẫn đến lối sống
cạnh tranh, ganh đua khốc liệt. Trong khi đó, cư dân vùng văn hóa gốc nông nghiệp với lối sống
ổn định lâu dìa nên có sự gắn kết cộng đồng chặt chẽ, trọng tình. Từ đó dẫn đến trọng đức,
trọng văn, trọng phụ nữ.
Trong ứng xử với môi trường xã hội thì cư dân vùng văn hóa gốc du mục thường độc đoán
trong tiếp nhận, cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó. Còn cư dân vùng văn hóa gốc nông nghiệp
thường dung hợp trong tiếp nhận, hành xử theo lối mềm dẻo.


VẤN ĐỀ 5: TÓM TẮT CÁC ĐẶC TRƯNG CÁC VÙNG VĂN HÓA VIỆT NAM
❖ Vùng Tây Bắc:
o Tự nhiên: Tây Bắc là một miền núi cao hiểm trợ. Các dãy núi chạy theo hướng Tây
Bắc – Đông Nam, với những ngọn núi cao trên 1000m. Khí hậu lạnh quanh nam.
o Dân tộc cư trú: gồm có khoảng dân tộc sinh sống tiêu biểu là: Thái, Mường, H’Mông.
o Loại hình kinh tế: Cư dân cổ truyền, những chủ nhân từ xa xưa của Tây Bắc, đều làm
nông nghiệp với hai loại hình: ruộng nước ở thung lũng và nương rẫy ở sườn núi.0
o Cư trú: ở gần với nguồn nước, gần với ruộng đễ dễ dàng chăm sóc và theo dõi. Nhà ở

vùng này là nhà sàn vì đặc tình của nhà sàn là có thể xây trên mọi địa hình là ở địa hình dốc.
o Ẩm thực: cá nuôi trong ruộng vừa ăn sâu bọ cỏ dại, vừa sục bùn cho tốt lúa. Cho nên,
món dâng cúng trong cơm mới bao giờ cũng có xôi và cá nướng. và các món là biểu hiện lòng
hiếu khách. Ruộng nương chỉ giải quyết được lương thực và một phần rau xanh. Thịt, cá, rau
và cả lương thực khi mất mùa, đều còn phải trông vào hái lượm săn bắt.
o Trang phục: do ở đây chủ yếu là vùng đồi núi cao nên khí hậu quanh năm thường rất
thấp nên trang phục của người dân ở đây thường là áo dài tay, váy dài và được trang trí
nhiều hoa văn nhiều màu sắc.
o Nghệ thuật: múa xòe, nhảy sạp, thổi kèn.
o Tôn giáo: các dân tộc trong vùng đều có tín ngưỡng “mọi vật có linh hồn”, một loại tín
ngưỡng mà mọi dân tôc trên hành tinh đều trải qua. Có đủ loại “hồn” và các loại thần sông
núi, suối khe, đá, cây, súc vật, các lực lượng thiên nhiên như sấm, chớp, mưa, gió. Các bộ
phận trên cơ thể con người cũng có hồn.
o Tổ chức xã hội: do sống không tập trung nên tổ chức xã hội ở đây có phần rời rạc:
nhà, bản, mường.
❖ Vùng Đông Bắc
o Tự nhiên: gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái
Nguyên. Ngoài địa bàn các tỉnh kể trên ranh giới vùng văn hóa Đông Bắc còn bao gồm cả
phần đồi núi của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang và tỉnh Quảng Ninh. Địa hình chủ
yếu là đồi núi và trung du.
o Cư dân: cư dân chủ yếu ở vùng Đông Bắc là người Tày và Nùng. Ngoài ra còn có một
số dân tộc ít người khác như Dao, H’Mông, Lô Lô, Sán Chày.
o Kinh tế: nền nông nghiệp chủ yếu là nông nghiệp nương rẫy: ruộng bậc thang, ruộng
giữa thung lũng.
o Cư trú: Người Tày – Nùng có hai loại nhà chính là nhà sàn và nhà đất.
o Ẩm thực: về mặt ăn uống, túy theo từng tộc người mà cách thức chế biến thức ăn và
khẩu vị của cư dân Đông Bắc có hương vị riêng. Việc chế biến món ăn của cư dân Tày – Nùng,
một mặt có những sáng tạo, một mặt tiếp thu kĩ thuật chế biến của các tộc lân cận như Hoa,
Việt: thịt quay, xôi ngũ sắc, rượu ngô, rượu cần,...



o Trang phục: trang phục của người đàn ông Tày khá giản dị, không có sự trang trí
bằng hoa văn, màu thường là màu tối như màu chàm, áo dày tay có cúc gài bằng vãi, quần
dài.
o Nghệ thuật: nét đáng chú ý là cư dân Tày – Nùng ở Đông Bắc đã có những nhà văn
viết bằng chữ viết dân tộc, văn học dân gian Đông Bắc khá đa dạng về thể loại, phong phú về
số lượng tác phẩm, như thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, nói ví, câu đố và đồng dao, dân
ca. Nói đến sinh hoạt văn hóa của cư dân vùng Đông Bắc, không thể không nói đến sinh hoạt
hội chợ ở đây là nơi để trao đổi hàng hóa, nhưng lại cũng là nơi để nam nữ thanh niên trao
duyên, tỏ tình.
o Tôn giáo, tín ngưỡng: diện mạo tôn giáo Đông Bắc cũng có những nét khác biệt. Các
tôn giáo như Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của
người dân ở Đông Bắc. Thờ cúng tổ tiên, vạn vật hữu linh.
❖ Vùng đồng bằng Bắc Bộ:
o Tự nhiên: bao gồm lưu vực của sông Hồng, sông Thái Bìn và sông Mã. Khí hậu vùng
Bắc Bộ thật độc đáo khác hẳn những đồng bằng khác. Đây là vùng duy nhất ở Việt Nam có
một mùa đông thực sự với ba tháng nhiệt độ dưới 180C do đó mà có dạng khí hậu bốn mùa
với mỗi mùa tương đối rõ rệt, khiến vùng này cấy được vụ lúa ít hơn các vùng khác. Hơn
nữa, khí hậu vùng này lại rất thất thương, gió mùa đông bắc vừa lạnh vừa ẩm rất khó chịu,
gió mùa hè nóng và ẩm.
o Cư dân: người Kinh.
o Kinh tế: nền kinh tế lúa nước là chủ yếu, ngoài ra còn trồng một số loài cây rau quả
khác. Bên cạnh nông nghiệp thì người dân ở đây còn làm nghề thủ công và đành bắt cá
o Cư trú: nhà của người Bắc Bộ là loại nhà 3 gian 2 chái.
o Ẩm thực: cơm, rau, cá (cá nước ngọt là chính), tương, người Việt Bắc Bộ có chú ý tăng
thành phần thịt mở, nhất là mùa đông lạnh, để giữ nhiệt năng cho cơ thể.
o Trang phục: cách mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích ứng với
thiên nhiên châu thổ Bắc Bộ đó là màu nâu. Đàn ông với y phực đi làm lễ là chiếc quần lá tọa,
áo cánh màu nâu sống. Đàn bà cũng chiếc váy thâm, chiếc áo nâu, khi đi làm. Ngày hội hè, lễ
Tết thì trang phục này có khác hơn: đàn bà với áo dài mớ ba, mớ bảy, đàn ông với chiếc quần

trắng, áo dài the, chít khăn đen.
o Nghệ thuật: chèo, tuồng, múa rối nước, ca trù,....
o Tôn giáo tín ngưỡng: tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước như thờ Thành Hoàng,
thờ Mẫu, thờ các ông tổ nghề,...
o Tổ chức xã hội: Những người nông dân này lại sống quần tụ thành làng. Làng là đơn
vị xã hội cơ sở của nông thôn Bắc Bộ, tế bào sống của xã hội Việt Nam.
❖ Vùng Duyên hải miền Trung:
o Tự nhiên: vùng văn hóa Trung Bộ là vùng đất thuộc lãnh thổ các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh


Thuận, Bình Thuận và thành phố Đà Nẵng hiện nay. Địa hình miền Trung hẹp theo chiều
ngang Đông Tây, địa hinh bị chia cắt theo chiều dọc Bắc Nam, bởi các đèo là những dãy núi
từ Trường Sơn đâm ngang ra biển.
o Cư dân: Người Kinh và người Chăm
o Kinh tế: lúa nước, đánh bắt cá, làm muối
o Ẩm thực: là vùng có nhiều loài hình ẩm thực độc đáo: các món ăn cung đình ( ở tiểu
vùng văn hóa huế, các món ăn bình dân như dưa cá, mắm ruốc...
o Trang phục: người kinh thì mặc áo quần màu đen trắng, quý tộc quan lại thì mặc áo
dài khăn đóng. Người Chăm áo quần thường có màu trắng với nhiều họa tiết trang trú màu
xanh và đỏ, thường vấn khăn trên đầu.
o Nghệ thuật: là vùng đất có cả người Kinh và người Chăm sinh sống nên văn hóa ở đây
đa dạng như các điệu múa, bài hát của người Chăm. Đặc biệt ở đây còn có nghệ thuật cung
đình huế như nhã nhạc cung đình...
o Tôn giáo, tín ngưỡng: đây cũng là vùng đa dạng về tồn giáo: bà la môn, Ấn Độ giáo,
phồn thực, sùng bái con người, sùng bái tự nhiên, ở đây còn là nơi phát triển của 2 dòng
Phật giáo Bắc tông và Nam tông.
o Tổ chức xã hội: làng, vạn chài.
❖ Vùng Trường Sơn, Tây Nguyên:
o Tự nhiên: Tiều vùng Trường Sơn: vùng phía Tây gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa

Thiên Huế, QUảng Ngãi. Tiểu vùng Tây Nguyên: gồm 5 tỉnh: Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông,
Kon Tum, Lâm Đồng, vùng rừng núi gồm nhiều cao nguyên, sơn nguyên.
o Cư dân: hơn 20 tộc người cùng cư dân cư trú lâu đời, hầu hết là cư dân bản địa, chủ
yếu thuộc các ngôn ngữ Môn – Khmer như Bru, Kơ Tu, Tả Oi, Xơ Đăng,...
o Kinh tế: các hình thái kinh tế chếm đoạt (săn bắt, hái lượm) còn chiếm vị trí chủ yếu.
Do điều kiện kinh tế khá phong phú và trong trồng trọt còn nhiều sản phẩm thừa nên
ngành chăn nuôi ở các dân tộc này khá phát triển. Nghề thủ công: dệt thổ cẩm, trao đổi
hàng hóa.
o Cư trú: loại nhà chủ yếu ở đây là nhà sàn, nhà gươi (nhà cộng đồng), nhà rông, nhà
dài.
o Ẩm thực: rượu cần, cơm lam, và các món nướng.
o Trang phục: sử dụng vãi thổ cẩm, nữ thì mặc váy dài, nam thì đóng khố ở trần.
o Nghệ thuật: các tác phẩm sử thi bana, ê đê, văn hóa cồng chieng và các lễ hội (lễ đâm
trâu, lễ bỏ mã,....), trường ca cổ (Đam San, Xing Nhã,...)
o Tôn giáo, tín ngưỡng: tôn thờ thần linh theo quan niệm của đồng bào, cả hai thế
giới tồn tại, thế giới của người sống thực và thế giới hư vô. Còn rơi rớt tín ngưỡng vật tổ
thị tộc( Giarai mài răng trước). Trong số lực lượng siêu nhiên đồng bào tin có nhiều loại
ma quái và các vị thần, thần lớn nhất của cư dân này là ông trời. Vị thần được quý trọng
nhất đối với đồng bào là thần lúa sau đó là các vị thần núi, thần rừng, thần cây đa, thần


bản mệnh,...Ngoài những thần linh làm điều lành có những thần linh làm điều dữ. Do cuộc
sống còn phụ thuộc nhiều vào thế giới thần linh nên đồng bào có tục lệ cầu xin thần linh
kết thân với mình để tăng thêm sức mạnh cho bản thân. Ở đây, không có tục thờ tổ tiền
mà chủ yếu là cúng thần. Các lễ hội mang tính sát sinh để tế thần và cầu mong sự sinh sôi
nãy nở như lễ đâm trâu ( một đặc trưng vùng văn hóa Tây Nguyên). Dấu ấn về chiến tranh
bộ lạc xưa.
o Tổ chức xã hội: buôn, bản.
❖ Vũng Nam Bộ
o Tự nhiên: là miền đất hoang vu rừng thẳm, nhiều sông rạch, đầm lầy.

o Cư dân: là nơi cư trú của dân tộc Kinh cùng 1 bộ phận không nhỏ người Khơ-me và
người Hoa.
o Kinh tế: nền kinh tế chủ đạo là lúa nước ngoài ra còn có các hoạt động kinh tế khác
như đánh bắt cá (cá nước ngọt là chủ yếu), tra đổi hàng hóa trên sông hình thành các khu
chợ nổi.
o Cư trú: nhà của người Nam Bộ xây dựng rất đơn giản sử dụng các nguyên liệu từ lá
dừa. Nhà thường bố trí gần các sông và kênh rạch để thuận tiện cho việc đi lại.
o Ẩm thực: đa dạng, mộc mạc và phóng khoáng. Một số món ăn đặc trưng như bánh xèo,
lẩu, các món nướng.
o Trang phục: người Kinh mặc áo bà ba, quần đen; người khơ-me váy áo.
o Nghệ thuật: tuy cuộc sống vô cùng cơ cực ngày ngày phải lao động trên đồng ruộng,
đêm đêm nam nữ quây quần giã gạo, chài đôi, chải ba, rồi ca hát hoặc hò đối đáp dưới ánh
trắng, tình quê tuy mộc mạc nhưng thấm đậm nghĩa tình. Đàn ca tài tử, vọng cổ.
o Tôn giáo, tín ngưỡng: Phật giáo và Ấn Độ giáo là 2 tôn giáo chính. ở đây, còn có tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên và con người.
o Tổ chức xã hội: gia đình nông dân trong tộc họ, trong xóm làng liên kết lại.


VẤN ĐỀ 6: PHÂN TÍCH CÁC QUY LUẬT CỦA TRIẾT LÝ ÂM – DƯƠNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
TRIẾT LÝ ÂM – DƯƠNG ĐẾN VĂN HÓA NGƯỜI VIỆT XƯA VÀ NAY.
Quy luật 1: Quy luật về bán chất của các thành tố
o Không có gì âm hoàn toàn, không có gì dương hoàn toàn; trong âm có dương, trong
dương có âm. Đây là quy luật về bản chất của các thành tố, thí dụ:
• Mặt đất thuộc âm, trong lòng đất thuộc dương.
• Nắng dương, trong cái nắng tàng ẩn nước bốc hơi chuẩn bị mưa - âm.
• Ban ngày dương, ban đêm âm. Từ tảng sáng đến giữa trưa là âm trong dương, từ
giữa trưa đến mờ tối là dương trong dương; từ nửa đêm đến tảng sáng là dương
trong âm, từ mờ tối đến nửa đêm là âm trong âm.
o Nói chung, không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định tính chất âm, dương của sự vật.
Vậy nên có hai biện pháp để đạt được kết quả đúng, - đó là: xác định đối tượng so sánh (so

sánh cái gì với cái gì để nói đến âm hoặc dương), và xác định cơ sở so sánh (cách nhìn, góc
độ quan sát để xác định một sự vật khi nào là âm, khi nào là dương). Với cách làm như vậy
ta có thể xác định, chẳng hạn, dãy màu sắc (từ âm đến dương) sau đây: đen - trắng - xanh vàng - đỏ, hoặc giả ta có thể coi nước là âm so với đất (nước bao giờ cũng nằm trong đất và
thấp hơn mặt đất, nước mềm, đất cứng) nhưng nước cũng có thể là dương so với đất nếu
xét ở góc độ tĩnh hay động (nước sông chảy, bờ đất đứng yên).
Quy luật 2: Quy luật quan hệ giữa các thánh tố
o Âm dương gắn bó mật thiết và luôn luôn chuyển hóa cho nhau. Âm đạt đến độ cực đại
thì sinh ra dương, và ngược lại. Đây là quy luật về quan hệ giữa các yếu tố
o Âm dương là hai mặt không thể thiếu trong một thể thống nhất. Âm sinh từ dương và
giữ cho dương không thái quá. Dương sinh từ âm và thúc đẩy cho âm hoạt động. Âm ở
trong để giữ gìn cho dương, dương ở ngoài để giúp đỡ cho âm. Một mình âm không sinh,
một mình dương không trưởng.
o Trong Lạc thư, âm dương thống nhất với nhau và được sắp đặt bên cạnh nhau, cứ một
âm kế tiếp một dương (riêng số 5 ở trung tâm đã hàm một âm, một dương rồi, tức là 4 so
với 1, hoặc 2 so với 3).
o Do đặc tính của dương là cương kiện, còn âm là nhu thuận, cho nên trong mối quan hệ
âm dương thì dương luôn luôn giữ vai trò chủ đạo, tích cực, chủ động; còn âm giữ vai trò
hưởng ứng, tuân theo, bị động. Vì vậy,người ta quan niệm âm thịnh dương suy thì xấu,
còn dương thịnh âm suy thì tốt hơn (theo tỷ lệ cân bằng âm dương là tam thiên lưỡng
địa).
o Có thể thấy rõ các thí dụ về quy luật 2 như sau:
Ngày và đêm; sáng và tối -> luôn luôn chuyển hoá cho nhau
Nắng và mưa; nóng và lạnh

-> luôn luôn chuyển hoá cho nhau


o Có một điều lý thú là: đối với văn hoá gốc du mục, xứ lạnh (âm) thì phát triển động vật,
chăn nuôi (động, dương); ngược lại, ở xứ nóng (dương), nơi hình thành văn minh nông
nghiệp lúa nước thì các loài thực vật phát triển, và kéo theo đó là nghề trồng trọt (tĩnh, âm).

o Nước (âm) nếu được làm nóng đến cực điểm thì sinh ra hơi (dương), rồi lại làm lạnh đến
cực điểm thì sinh ra nước đá (dương).
o Bản chất âm dương của sự vật thông qua hai quy luật nói trên được biểu diễn dưới dạng
biểu tượng vòng thái cực (biểu tượng này xuất hiện từ đầu công nguyên)
Màu trắng tượng trưng cho dương.
Màu đen tượng trưng cho âm
o Người Việt Nam cũng dùng biểu tượng âm dương dưới dạng vuông tròn
o Các quy luật cơ bản của âm dương nói lên sự mâu thuẫn, thống nhất, vận động và phát
triển của mọi dạng vật chất, tạo nên mọi sự biến hóa của vũ trụ trong giao cảm âm dương.
VẤN ĐỀ 7: VĂN HÓA ẨM THỰC
Văn hóa ẩm thực là nét văn hóa tự nhiên hình thành trong cuộc sống. Nhất là đối với
người Việt Nam, ẩm thực không chỉ là nét văn hóa về vật chất mà còn là văn hóa tinh thần. Qua
ẩm thực người ta có thể hiểu được nét văn hóa thể hiện phẩm giá con người, trinh độ văn hóa
của dân tộc với những đạo lý, phép tắc, phong tục trong cách ăn uống
VẤN ĐỀ 8: TÍN NGƯỠNG
Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và để
mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi được hiểu là tôn giáo. Điểm
khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian nhiều hơn
tôn giáo, tín ngưỡng có tổ chức không chặt chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta
thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn
tôn giáo thì thường là không mang tính dân gian. Tín ngưỡng không có một hệ thống điều hành
và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc. Tín ngưỡng nếu phát triển
đến một mức độ nào đó thì có thể thành tôn giáo. Cơ sở của mọi tôn giáo, tín ngưỡng là niềm
tin, sự ngưỡng vọng của con người vào những cái "siêu nhiên" (hay nói gọn lại là "cái thiêng")
- cái đối lập với cái "trần tục", cái hiện hữu mà con người có thể sờ mó, quan sát được. Niềm
tin vào "cái thiêng" thuộc về bản chất con người, nó ra đời và tồn tại, phát triển cùng với con
người và loài người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng giống
như đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm...
❖ Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên:
Nguồn gốc:

Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người. Với
người Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước, thì sự gắn bó, phụ thuộc với tự
nhiên lại càng dài lâu và bền chặt.


Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến hậu quả
trong lĩnh vực tư duy là lối tư duy tổng hợp và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín ngưỡng
đa thần, tính chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hệ quả trong lĩnh vực quan
hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tình
trạng lan tràn các nữ thần. Và vì cái đích mà người Việt Nam hướng tới là sự phồn thực
cho nên nữ thần của ta không phải là các cô gái trẻ đẹp mà là các Bà mẹ, các Mẫu. → tục
thờ thần Mẫu.
Biểu hiện :
o Thờ Bà Trời, bà Đất, Bà Nước – những nữ thần cai quản các hiện tượng tự nhiên, quan
trọng nhất, thiết thân nhất đối với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước. Về sau,
tuy do ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa gốc du mục nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công,
Hà Bá,. Tuy nhiên các bà vẫn song song tồn tại : bà trời Mẫu Thượng Thiên (còn gọi là Mẫu
Cửu Trùng hay Cửu Thiên Huyền Nữ , ở Huế là Thiên Mụ, Thiên Yana) Nhiều nhà, ở góc
sân vẫn có một bàn thờ lộ thiên gọi là bàn thờ Bà Thiên (hay bà Thiên Đài). Bà Đất tồn tại
dưới tên mẹ Đất,bà nước dưới tên gọi bà thủy, Nhiều vùng, Bà Đất, Bà Nước tồn tại dưới
dạng nữ thần khu vực như Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Sông, Bà Chúa Lạch. Bà Đất còn tồn tại
dưới tên gọi Mẹ Đất (Địa Mẫu) → ba bà này tồn tại dưới dạng tín ngưỡng TAM PHỦ.
o Tiếp theo trời- đất- nước là các bà Mây-Mưa-Sấm-Chớp – những hiện tượng tự nhiên
có vai trò hết sức to lớn trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đến khi đạo
Phật vào Việt nam, nhóm nữ thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp này được nhào nặn thành hệ thống
Tứ Pháp : Pháp Vân (thần Mây) thờ ở chùa Bà Dâu, Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà
Đậu, Pháp Lôi (Thần Sấm) thờ ở chùa Bà Tướng, Pháp Điện (Thần Chớp) thờ ở chùa Bà
Dàn. Lòng tin của nhân dân vào hệ thống Tứ Pháp mạnh đến nỗi vào thời Lí, nhiều lần
triều đình đã phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long cầu đảo, thậm chí rước theo đoàn
quân đi đánh giặc…

o Người Việt còn thờ các hiện tượng tự nhiên khái quát như không gian và thời gian. Thần
không gian được hình dung thco nguyên lí Ngũ Hành Nương Nương. Ngũ Phương chi thần
coi sóc trung ương và bốn hướng; Ngũ Đạo chi thần trông coi các ngả đường. Theo địa chí,
người ta thờ thần thời gian là Thập Nhị Hành Khiển (12 vị thần, mỗi vị coi sóc một năm
thco Tí, Sửu, Dần, Mão,…). Thời gian kéo dài, bảo tồn sự sống vô tận nên 12 nữ thần này
đồng thời có trách nhiệm coi sóc việc sinh nở – đó là Mười Hai Bà Mụ.
o Trong mảng tín ngưỡng sùng bái giới tự nhiên còn có việc Thờ Động vật và thực vật .
• Chim, rắn, cá sấu chính là những loài phổ biến hơn cả ở vùng sông nước, và do
vậy, thuộc loại động vật được sùng bái hàng đầu. Người Việt có câu : nhất điểu, nhì
xà, tam ngư, tứ tượng. Thiên hướng nghệ thuật của loại hình văn hóa nông nghiệp
còn đẩy các con vật này lên mức biểu trưng : Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ
tiên người Việt thuộc “họ Hồng Bàng” và là “giống Rồng Tiên”


• Thực vật thì được tôn sùng nhất là cây Lúa : khắp nơi – dù là vùng người Việt
hay vùng các dân tộc – đều có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,…Thứ đến
các loài cây xuất hiện sớm ở vùng này như cây Cau, cây Đa, cây Dâu, quả Bầu,…
Vai trò: Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là một tín ngưỡng dân gian thuần Việt, có lịch sử
lâu đời của người Việt, biến chuyển thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Tín ngưỡng thờ Mẫu
hướng đến cuộc sống thực tại của con người với ước vọng sức khỏe, tài lộc, may mắn, là một
nhu cầu trong đời sống tâm linh của người Việt, mang lại cho họ sức mạnh, niềm tin và có sức
thu hút mọi tầng lớp trong xã hội. Tâm là giá trị cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu. Mẫu dạy con
người sống hướng thiện, có cái tâm trong sáng, biết đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà tổ tiên
và biết ơn những người có công với dân, với nước.
Tín ngưỡng sùng con người:
Nguồn gốc: Con người có cái vật chất và tinh thần , cái tinh thần là cái khó nắm bắt và
được trừu tượng hóa , thần thánh hóa gọi là " linh hồn " , và linh hồn trở thành đầu mối của
tín ngưỡng . Người Việt và một vài dân tộc Đông Nam Á đã chia linh hồn thành hồn và vía .
Có 3 hồn là tinh , khí , thần . Đàn ông có 7 vía là 7 lỗ trên mặt : 2 tai , 2 mắt , 2 lỗ mũi , 1 cái
miệng . Đàn bà có 9 vía : giống đàn ông và có thêm chỗ sinh sản và chỗ cho con bú . Hồn và

vía giải thích các hiện tượng như trẻ con hay đau ốm , ngủ mê , ngất , chết . Vía phụ thuộc
vào thể xác : có người lành vía , dữ vía , yếu vía , cứng vía , độc vía , vía nặng , vía nhẹ . Khi
gặp phải độc vía nếu chạm vía phải đốt vía , trừ vía , giải vía . Hồn độc lập với thể xác ( hồn
người này có thể nhập vào xác của người khác ) .
Biểu hiện:
• Thờ cúng tổ tiên :
Khi chết thì cả vía và hồn đều lìa khỏi xác mà đi . Xác mất đi nhưng linh hồn vẫn
còn tồn tại và phù hộ độ trì cho con cháu -> có tục thờ cúng tổ tiên .
Nghĩa hẹp : là sự thờ cúng cha , mẹ , ông , bà , tổ tiên ( những người đã chết ) cùng
huyết thống , những người có công sinh thành và nuôi dưỡng con cháu .
Nghĩa rộng : không chỉ trong phạm vi huyết thống từ gia đình đến họ tộc mà con
người còn mở rộng ra cả tổ tiên làng xã và đất nước .
Nguồn gốc của thờ cúng tổ tiên :
+ Là đặc trưng của thời kì lịch sử ở chế độ thị tộc phụ quyền .
+ Gắn với sự tồn tại của linh hồn con người sau khi mất .
+ Coi tổ tiên là động vật , thực vật , sự vật đến việc thừa nhận tổ tiên đích thực của
con người .
-> là sản phẩm của sự kết hợp giữa 3 yếu tố cơ bản ý thức về linh hồn bất tử , tổ
tiên Tôn Ten , tổ tiên của con người và ý nghĩa là sự che chở cho gia đình .
Biểu hiện của thờ cúng tổ tiên :



+ Mang sắc thái riêng so với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Hán , nó ăn sâu
vào tâm linh của người Việt .
+ Có tính lịch sử , sức sống lâu bền , mang tính phổ quát .
+ Thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam thể hiện 3 cấp độ : gia đình , làng xã và quốc gia .
Thờ vua - thần vừa mang tính huyết thống vừa mang tính xã hội .
Ý nghĩa của thờ cúng tổ tiên :
+ Vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh , vừa thể hiện đạo lí làm người .

+ Ý nghĩa thế tục .
+ Là một nét đẹp văn hóa , một đặc trưng vốn có của người Việt .
-> cần phát huy những mặt tích cực , hạn chế mặt tiêu cực.
• Trong gia đình , ngoài thờ tổ tiên , người Việt Nam còn thờ Thổ Công - một dạng
mẹ đất . Là vị thần coi gia cư , định đoạt phúc họa cho một gia đình . Sống ở đâu thì Thổ
Công ở đó : " đất có Thổ Công , sông có Hà Bá " . Mối quan hệ giữa Thổ Công và ông bà
tổ tiên trong gia đình rất thú vị : Thổ Công định đoạt phúc họa cho cả nhà nên là vị
thần quan trọng nhất , nhưng ông bà sinh thành ra gia đình nên được tôn kính nhất .
Để không làm mất lòng ai , người Việt xếp cho ông , bà tổ tiên ngự tại bàn thờ tôn kính
nhất - gian giữa . Còn Thổ Công thì gian bên trái .
• Tín ngưỡng thờ thần ở Việt Nam không chỉ đóng khung trong phạm vi gia đình ,
ngoài các vị thần tại gia thì còn có các thần linh chung của thôn xã và toàn dân tôc .
Trong phạm vi thôn xã thì quan trọng nhất là thờ Thành Hoàng , trong một ngôi làng
thì Thành Hoàng là một vị thần cai quản , che chở , định đoạt phúc họa cho dân làng
đó . Không làng nào là không có Thành Hoàng . Cái lệ làng quan trọng đến mức vua Lê
Thánh Tông sai triều đình sưu tầm và biên soạn ra thần tích của Thành Hoàng các làng
để vua ban sắc phong trần. Đó thể là thiên thần , nhiên thần hay nhân thần và cũng có
khi là người có công lập ra làng xã hoặc là những người chết bất đắc kì tử .
• Ý nghĩa :
+ là công cụ tinh thần biểu hiện quyền uy tối thượng của nhà vua .
+ là một loại tín ngưỡng đặc sắc nhất , phản ánh rõ đời sống hiện thực của cộng đồng
làng , xã .
+ là bộ sưu tập văn hóa thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc
-> cần khuyến khích những yếu tố tích cực , định hướng vào việc bồi dưỡng tình cảm
trong sáng , lành mạnh của con người
• Tín ngưỡng thờ quốc tổ và quốc mẫu
Mảnh đất Phong Châu ( Phú Thọ ) ở đó có đền thờ các vua hùng trên núi Hy Cương
và đền thờ Âu Cơ .
Trong nhà thờ gia tiên , trong làng thờ Thành Hoàng , thì trong nước người Việt
Nam thờ vua tổ - vua Hùng . Người VN còn có một tín ngưỡng đặc biệt là thờ cúng Tứ bất tử



: Thánh Gióng , Tản Viên , Chữ Đồng Tử , Liễu Hạnh . Như vậy , tục thờ Tứ bất tử là một giá
trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân tộc ta , đó là đặc trưng được chắc lọc trong suốt chiều
dài lịch sử biểu trưng cho sức mạnh của cộng đồng , để làm ruộng và đánh giặc , cho khát
vọng xây dựng một cuộc sống vật chất phồn vinh và tinh thần hạnh phúc .
❖ Tín ngưỡng sùng con người:
Nguồn gốc:
Ngay từ đầu, duy trì và phát triển sự sống là 1 nhu cầu thiết yếu nhất của con người,
nhất là lối văn hóa nông nghiệp ,Để duy trì sự sống cần mùa màng tươi tốt. Để phát triển sự
sống cần con người sinh sôi.
Từ thực tiễn đó, tư duy cư dân nông nghiệp Nam-Á đã phát triển theo 2 hướng:
+Những trí tuệ sắc sảo đi tìm quy luật khách quan để lý giải hiện thực -> triết lý âm
dương.
+Còn những người có trình độ hạn chế thì nhìn thấy ở hiện thực 1 sức mạnh siêu nhiên,
bởi vậy mà sung bái nó như thân thánh, kết quả là xuất hiện tín ngưỡng phồn thực
(Phồn=nhiều, thực=nảy nở)
Biểu hiện:
Ở VN, TNPT từng tồn tại suốt chiều dài lịch sử với 2 dạng biểu hiện: thờ cơ quan sinh
dục và thờ hành vi giao phối
Thờ cơ quan sinh dục
Việc thờ cơ quan sinh dục nam nữ được gọi là thờ sinh thực khí (sinh=đẻ, thực=nảy nở,
khí=công cụ). Đây là hình thái đơn giản của TNPT, phổ biến ở các nên VH nông nghiệp.
Tượng đá hình nam nữ với bộ phận sinh dục phóng to hàng nghìn năm TCN được tìm
thấy ở Văn Điển, Sa Pa.Ở các nhà mồ Tây Nguyên thường có các tượng người với bộ phận sinh
dục phóng to.
Ở Phú Thọ, Hà Tĩnh và nhiều nơi khác có tục thờ cúng nõ nường (nõ=cái nêm tượng
trưng cho sinh thực khí nam; nường=nang, mo nang tượng trưng cho sinh thực khí nữ).
Ở hội làng Đồng Kị (Bắc Ninh) có tục rước sinh thực khí bằng gỗ rồi đem đốt thành tro
chia cho mọi người đem rắc ra ruộng

Ở Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây… thường có tục rước 18 bộ sinh thực khí vào hội làng. Khi
đám rước kết thúc, mọi người tranh nhau cướp vì tin rằng sẽ đem lại may mắn.
Việc thờ các loại cột đá và các loại hốc. Ở chùa Dạm (Bắc Ninh) có 1 cột đá hình sinh
thực khí nam có chạm nổi hình rồng thời Lý. Ngư phủ ở Sở đầm Hòn Đỏ thờ 1 kẽ nứt trên tảng
đá gọi là Lỗ Lường.


Thờ hành vi giao phối
Bên cạnh việc thờ sinh thực khí, cư dân trồng lúa nước với lối tư duy coi trọng quan hệ
còn có tục thờ hành vi giao phối, tạo nên 1 dạng tín ngưỡng phồn thực độc đáo, phổ biến ở kv
ĐNA
Trên nắp thạp đồng tìm được ở làng Đào Thịnh, xung quanh hình mặt trời là tượng 4
đôi nam nữ đang giao phối. Ở chân thạp đồng khắc hình những con thuyền nối đuôi nhau khiến
cho 2 con cá sấu – rồng chạm nhau trong tư thế giao hoan.
Ở các nhà mồ Tây Nguyên dựng những tượng nam nữ giao phối
Hình chim, thú, cóc giao phối tìm thấy khắp nơi
Vào Hội đền Hùng, thanh niên nam nữ múa từng đôi, tay cầm vật biểu trưng cho sinh
thực khí.
Ở Sở đầm Hòn Đỏ, khi không đánh được cá, người cầm đầu tới cầu xin và cầm vật tượng
trưng cho sinh thực khí nam rồi đâm vào Lỗ Lường 3 lần…
Chày và cối là bộ công cụ tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ, còn việc giã gạo là
tượng trưng cho hành động giao phối
Trên các trống đồng khắc rất nhiều hình nam nữ giã gạo từng đôi
Tục giã cối đón dâu
Vai trò
Vai trò của TNPT trong đời sống người Việt cổ lớn tới mức chiếc trống đồng-biểu tượng
sức mạnh và quyền lực của người xưa-đồng thời cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng
phồn thực
- Hình dáng trống đồng phát triển từ chiếc cối giã gạo
- Cách đánh trống mô phỏng động tác giã gạo

- Tâm mặt trống là hình mặt trời với những tia sang biểu hiện cho sinh thực khí nam,
ở giữa các tia sang là 1 hình lá với khe ở giữa biểu trưng cho stk nữ+
- Xung quanh mặt trống thường gắn các tượng cóc, cũng là 1 dạng biểu trưng của
TNPT
- Tiếng trống mô phỏng tiếng sấm, mang theo mùa mưa, mùa màng tốt tươi cũng mang
ý nghĩa trên.


VẤN ĐỀ 9: VĂN HÓA GIÁO TIẾP
VẤN ĐỀ 10: ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TẠO HÌNH CHĂMPA
VẤN ĐỀ 11: PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Tính tổng hợp: đặc trưng lối tư duy nông nghiệp cũng là đặc trưng nổi bật của
Phật Giáo VN
o Lối kiến trúc chùa phổ biến là "tiền Phật hậu Thần" , đưa các thần, thánh,
thành hoàng làng, anh hùng dân tộc vào thờ trong chùa
o Phật Giáo VN tổng hợp các tông phái với nhau: dòng Thiền Tông, Tịnh Độ
Tông
o Phật Giáo VN tổng hợp chặt chẽ với các tôn giáo khác: Phật với Nho, với Đạo
o Khuynh hướng thiên về nữ tính là đặc trưng bản chất VH nông nghiệp:
o Có Phật ông Phật Bà
o Có nhiều chùa chiền mang tên các bà: chùa Bà Dâu, chùa bà Đậu, chùa Bà
Tướng, Chùa Bà Đá
Có tính linh hoạt:
Tự tạo ra lịch sử PG riêng cho mình với ngày Phật đản 8-4
Coi trọng việc sống phúc đức trung thực hơn đi chùa
Vào VN đức Phật đồng nhất với vị thần
Tượng Phật VN mang dáng dấp hài hòa
Chùa VN được thiết kế theo phong cách ngôi nhà cổ truyền thống với hình
thức mái cong có 3 gian 2 chái

o Sự cải biến linh hoạt trên cơ sở tổng hợp đạo Phật với đạo thờ cúng tổ tiên
đã tạo nên đao Phật giáo Hòa Hảo (đạo Hòa Hảo) giáo chủ là Huỳnh Phú Sổ
o
o
o
o
o

Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực hiện hai điều
đó là khế lý và khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này Phật giáo sẽ chẳng còn là Phật
giáo nữa. Duy trì và phát triển hai yếu tố này, Phật giáo được truyền vào Việt Nam và các
nước khác.
Khế lý là nói về mặt tư tưởng nhờ khế lý nên dù ở thời gian và không gian nào, giáo lý
Phật-đà vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn luôn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn giữ được bản
chất của mình và chỉ có một vị đó là vị giải thoát.


Khế cơ thiên trọng về mặt lịch sử nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và quốc độ nào thì
sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng. Tùy theo phong tục tập quán của
mỗi quốc gia mà vẫn không hề mất gốc (Phật giáo). Nói một cách khác thì có thể tùy nghi
phương tiện theo từng vùng miền để truyền bá giáo lý Phật-đà nhưng không làm mất đi bản
sắc của Phật giáo là ứng hợp với mọi tầng lớp và căn cơ chúng sanh.
Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một nên gọi là khế lý, dù một mà không phải một,
nên có lắm tên Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Thái Lan, v.v. tất cả đều có
tên chung là Phật giáo, bảo rằng giống cũng được nhưng bảo rằng không thì là sai. Đây gọi là
khế cơ là bản địa hóa, hay sắc thái Phật giáo của từng vùng miền.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt bản địa hóa,
khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam.
Phật giáo đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những thời đại
hưng thịnh của đất nước như Đinh, Lê, Lý Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành

hưng thịnh và các vị thiền sư có vị trí quan trọng trong các triều đại đó. Dù được bản địa hóa
để quyện mình vào lòng dân tộc nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo Việt Nam vẫn được
truyền thừa trong suốt hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Tính tổng hợp
Tổng hợp là một trong những đặc tính của lối tư duy nông nghiệp, chính vì thế tổng hợp
là đặc tính nổi bật nhất của Phật giáo Việt Nam.
Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần trong miếu
và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy
nhiên bốn vị thần này đã được "Phật hóa". Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật
Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn
toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng
80 vẽ đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn, và khuôn
mặt đầy lòng từ mẫn v.v. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa
"tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu,
thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu,
bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng
thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo
Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến hóa. Thiền tông
còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.


Các điện thờ ở chùa miền Bắc có vô cùng phong phú các loại tượng Phật, bồ tát, la hán
của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng kết hợp Tiểu thừa với Đại
thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng)
nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ
khác, bên cạnh áo vàng còn có áo nâu, áo lam.
Tổng hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác

Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó Phật
giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để
làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy"
(cả ba tôn giáo có cùng một mục đích). Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã
hội, Đạo giáo lo thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều
thế kỷ, hình ảnh "Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở
bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt
Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất cả các tôn giáo khác để hình
thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên nhân hợp nhất" và "Vạn giáo
nhất lý".
Tính hài hòa âm dương
Sau tính tổng hợp, hài hòa âm dương là một trong những đặc tính khác của lối tư duy
nông nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm cho Phật giáo Việt Nam có
phần thiên về nữ tính.
Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt Nam bị biến thành "Phật ông - Phật
bà". Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quán Thế Âm Bồ Tát) là vị thần hộ mệnh của vùng Nam Á
nên còn được gọi là Quan Âm Nam Hải. Ngoài ra người Việt còn có những vị Phật riêng của
mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm
Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).
Tính linh hoạt
Phật giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất linh hoạt, mà nhà Phật thường gọi là "tùy
duyên bất biến; bất biến mà vẫn thường tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể
mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau. Nhưng vẫn không xa rời
giáo lý cơ bản của nhà Phật. Ví dụ: Các vị bồ tát, các vị hòa thượng đều được gọi chung là
Phật, Phật Bà Quan Âm (vốn là bồ tát), Phật Di Lặc (vốn là hòa thượng),... Ngoài ra Phật ở Việt
Nam mang dáng dấp hiền hòa và dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc
(chỉ Thích Ca Tuyết Sơn),... Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất truyền
thống của phụ nữ Việt Nam.



×