Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên tiểu học module 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.19 KB, 9 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THÀNH PHỐ MỸ THO

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN HUỆ

BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
MODULE TH 2: ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA HỌC SINH DÂN TỘC ÍT NGƯỜI,
HỌC SINH CÓ NHU CẦU ĐẶC BIỆT, HỌC SINH CÓ HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN
----------------

Họ và tên :

Lê Quốc Thiện

Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị : Trường Tiểu học Nguyễn Huệ
Dạy lớp: Thể dục K2, K4, K5

A. Mở đầu:
Giáo dục ngôn ngữ ở các tỉnh miền núi luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, dạy
học tiếng Việt cho học sinh Tiểu học người dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên luôn là
nhiệm vụ hàng đầu của những người đang giảng dạy tại nơi đây. Đó là việc dạy học
tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc thiểu số đang cư trú tại
dải đất này, các dân tộc như Jarai, Bahnar...
- Trong tâm lí học lứa tuổi, học sinh lứa tuổi thiếu niên luôn ngự trị quy luật về
tính mất cân đối tạm thời, tính mâu thuẫn và quy luật về tính không đồng đều của sự


phát triển thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của nhân cách và thể chất. Nhưng thực tế làm
công tác giáo dục tại các xã vùng đặc biệt khó khăn, học sinh là con em đồng bào dân
tộc thiểu thì mỗi người cán bộ GV phải biết những “tâm lí riêng” mà không sách vỡ lí
thuyết nào có thể nhắc tới. Hằng ngày, ngoài việc soạn bài lên lớp là việc vận động
duy trì số lượng, tìm các biện pháp nâng cao chất lượng, người GV còn phải là “Vừa
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
1


là thầy giáo, vừa là bạn bè”. Với kinh nghiệm thực tiễn sau đây sẽ giúp những GV
mới chập chững vào nghề đến nhận công tác ở miền núi có những biện pháp giáo dục
hợp lí, đặc biệt là GV chủ nhiệm lớp.
B. Nội dung:
1. Học sinh Tiểu học người dân tộc trước khi đến trường:
- Khác với học sinh người kinh, trước khi đến trường, đa số học sinh người dân tộc
thiểu số chưa biết sử dụng tiếng Việt. Thực tế cũng có số ít các em được trải qua sự
chăm sóc của vườn trẻ, nhưng vốn kiến thức ban đầu về tiếng Việt, như những mẫu
hội thoại đơn giản mang tính bắt đầu, những kỹ năng cơ bản như nghe, nói mà trường
Mầm Non đã trang bị cho các em, vì những lý do khách quan khác nhau đã không còn
theo các em bước vào lớp1. Bởi trong sinh hoạt gia đình, cộng đồng, người dân ở đây,
cũng như các em chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ nên khi bước ra thế giới bên ngoài, vào môi
trường giáo dục phổ thông, tiếng Việt lúc bấy giờ là ngôn ngữ thứ hai của các em.
Việc giao tiếp thông thường với thầy cô giáo đã khó khăn, và cũng có khi là không
thể, việc nghe giảng những kiến thức về các môn học khác nhau bằng tiếng Việt lại
càng khó khăn hơn đối với các em. Đến trường, đến lớp là các em bước đến một môi
trường sinh hoạt hoàn toàn xa lạ, tâm lý rụt rè, e sợ luôn thường trực trong các em,
làm giảm tốc độ bước chân các em đến trường.
2. Học sinh Tiểu học dân tộc thiểu số học tiếng Việt là học ngôn ngữ thứ hai:
- Mặc dù một số ít học sinh đã trải qua các lớp ở bậc Mầm non nhưng đối với các
em, trường Tiểu học vẫn là một môi trường hoàn toàn mới, tiếng Việt là một ngôn ngữ

hoàn toàn xa lạ. Sự tồn tại của tình trạng này trong đời sống các em là do điều kiện sử
dụng ngôn ngữ trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, là do tâm lý sử dụng ngôn ngữ
mẹ đẻ rất tự nhiên, bản năng. Những buổi sinh hoạt cộng đồng, những lần hội họp,
người địa phương chỉ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Họ ngại sử dụng tiếng Việt, có lẽ vì
vốn kiến thức về tiếng Việt ở họ quá ít ỏi, cũng có lẽ vì bản năng ngôn ngữ mẹ đẻ
thường trực trong họ. Chính vì thế, mỗi lần các cán bộ xã, huyện về chủ trì một cuộc
họp nào đó ở làng, bản, họ phát biểu bằng tiếng Việt rất khó khăn. Thói quen này
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
2


trong sử dụng ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng vào trong đời sống gia đình của mỗi cá nhân,
học sinh vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ khi rời trường, rời lớp. Dần dà các em không thể sử
dụng tiếng Việt, quên ngay những kiến thức về tiếng Việt đã học trên lớp, từ đó, đã
khiến cho các em thụ động, thiếu linh hoạt khi ở môi trường giao tiếp lớn hơn, vượt
khỏi môi trường cộng đồng dân cư nhỏ hẹp.
3. Mặc cảm của học sinh dân tộc thiểu số khi đến trường học tiếng Việt:
- Tiếp xúc, quan sát học sinh dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Nguyên, tôi nhận
thấy rằng, các em học sinh ở đây đã biết ý thức về nguồn gốc của mình. Cái nghèo
luôn nhắc nhở con người sống trong cảnh khốn cùng cần hiểu sâu sắc về nguồn gốc,
về điều kiện, hoàn cảnh sống của bản thân. Nghèo đã giúp con người ta vươn lên
nhưng nghèo cũng làm cho con người luôn mặc cảm, tự ti, bằng lòng với cuộc sống
hiện tại. Mặc cảm số phận đã khiến con người không thể thoát khỏi những thiếu thốn
vật chất, không thể vươn xa hơn không gian sống hiện tại. Những học sinh tiểu học
người dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên không có sự hồn nhiên của tuổi trẻ, không chỉ
có "ngày hai buổi đến trường", các em còn phải miệt mài trên nương rẫy trỉa lúa,
trồng ngô,...lo cho cuộc sống vật chất của gia đình đang chật vật, thiếu thốn. Chúng
tôi thật thương tâm khi nghe nhưng đồng nghiệp đang giảng dạy ở những vùng miền
núi Tây Nguyên tâm sự, rằng "chúng em phải vào tận làng lùng sục các em, đưa các
em đến trường."; cũng có nhiều giáo viên chia sẻ, "Em phải dùng tiền lương của mình

để mua quà ăn, đồ dùng học tập cho các em, rồi mới đưa các em trở lại trường. Nhưng
có lúc cũng không thành công!",... Theo tôi, cái gốc rễ của vấn đề là ở chỗ, cái nghèo
truyền kiếp đã quy định trách nhiệm của các em đối với gia đình. Cái ăn từng bữa còn
chưa có, chưa đủ thì học chữ để làm gì, suy nghĩ của các em và gia đình của các em là
vậy! Họ không hiểu rằng, chính cái chữ sẽ giúp con người thoát khỏi cuộc sống nghèo
khó hiện tại, giúp con người hoạch định tương lai. Cho nên vào thời điểm mùa màng,
số lượng học sinh trên lớp học rất ít. Cũng có những hôm thầy giáo cắp cặp tới lớp,
rồi quay về, tìm cách xuống bản, tới từng gia đình học sinh, giảng giải cho các em,
thuyết phục gia đình các em rằng, cần phải dành thời gian cho các em học tập, bởi các
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
3


em còn trong độ tuổi đến trường. Thế nhưng, hiệu quả của công việc "tuyên truyền"
này không phải lúc nào cũng như ý, lắm lúc, giáo viên còn phải nhận những câu trả
lời cay nghiệt của phụ huynh khiến cho họ có những giây phút nản lòng.
Một số học sinh có ý thức học tập, đến mùa màng, cũng xin phép giáo viên chủ
nhiệm, nhà trường nghỉ phép vài hôm, nhưng rồi các em cũng quên trở lại trường khi
mùa gặt kết thúc. Giáo viên lại phải nhọc công tìm đến tận bản, vận động các em đến
trường.
- Con người là chủ thể nhận thức. Nhận biết về bản thân, về mọi vật xung quanh là
sự sống bản năng của con người. Người dân tộc thiểu số luôn ý thức về nguồn gốc, về
điều kiện sống, hoàn cảnh sống của mình. Chính điều này đã khiến cho học sinh Tiểu
học dân tộc thiểu số tiếp nhận những kiến thức về tiếng Việt khó khăn, tạo rào cản
ngăn cách hoạt động sống của các em với môi trường xã hội rộng lớn, làm cho các em
khó tiếp xúc, hòa nhập cộng đồng.
- Nhìn ra được cái hạn chế, điều tốt đẹp của bản thân là con người đã phát triển ở
một mức nào đó về nhận thức. Nghĩa là con người đã biết đặt mình trong nhiều mối
quan hệ trong xã hội. Ý thức là nguồn động viên cho sự vươn lên thoát khỏi hoàn
cảnh thực tại nhưng cũng có ý thức tạo cho con người tính mặc cảm, tự ty thân thế, số

phận, làm thui chột hao mòn năng lực, tri thức bản thân. Học sinh Tiểu học dân tộc
thiểu số tại các tỉnh Tây Nguyên đến trường trong tâm thế "hèn mọn" đó. Các em
cũng đã biết nhìn ngắm những trang phục của các bạn học sinh người Kinh, nhìn lại
trang phục của mình. Ỏ những trường Nội trú, tình trạng trên ít xảy ra, nhưng đối với
các trường có cả hai đối tượng học sinh, người Kinh và người dân tộc thiểu số, tình
trạng trên luôn ngầm diễn ra trong các em. Nếu số lượng học sinh thiểu số nhiều hơn
học sinh Kinh thì tình trạng trên ít xảy ra, còn nếu số lượng học sinh thiểu số ít hơn số
lượng học sinh người Kinh thì tình trạng trên càng diễn ra nặng nề. Trong lớp chắc
chắn sẽ có sự phân biệt, kỳ thị ở hai đối tượng học sinh trên. Một bộ quần áo, một đôi
dép hay những phụ kiện đơn giản khác của các bạn khi đến trường cũng làm cho các
em băn khoăn, suy nghĩ về nhau, so sánh lẫn nhau. Nhiều em học sinh người dân tộc
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
4


thiểu số chân đất đến trường, hoặc trong trang phục cũ kỹ, hay với những đồng phục
bắt buộc nhàu nát mà các em không chỉ dành cho đến trường, hay cùng với những
cuốn tập bị bỏ quên ngay sau khi rời lớp. Tâm tư ấy cũng phần nào làm cho tinh thần
học tiếng Việt của các em học sinh Tiểu học người dân tộc thiểu số bị suy giảm.
Như đã phân tích ở trên, chính điều kiện sống như thế đã không tạo cho các em một
môi trường học tập, một góc học tập cá nhân, lại càng không thể xây dựng trong các
em ý thức học tập, rèn luyện. Vốn kiến thức về tiếng Việt ở các em hạn chế, ít ỏi là
điều hiển nhiên. Chính vì thế, các em rất ngại phải giao tiếp bằng tiếng Việt, lo sợ
phải phát biểu xây dựng bài trong giờ học, lo ngại phải giao tiếp với giáo viên ngoài
giờ học, đặc biệt là các em rất khó tiếp thu bài ở những môn học khác. Điều này đồng
nghĩa với việc kiềm hãm sự phát triển tư duy ở các em, khó tạo ra một môi trường
giáo dục thân thiện! Học sinh đã bắt đầu lo lắng cho mỗi giờ đến lớp, "sợ" phải đến
trường. Học tập lúc này là công việc quá khó khăn đối với các em.
- Đối với người dân tộc Tây Nguyên, không gian sống của họ rất đặc trưng, không
có ranh giới giữa không gian sinh hoạt gia đình và đương nhiên sẽ không gian sống cá

nhân. Đây chính là đặc trưng văn hóa của người dân tộc Tây Nguyên. Không gian
sống đặc thù này của người Tây Nguyên khắc sâu trong các em về truyền thống văn
hóa, về cội nguồn. Chúng ta nhận biết không gian sống đặc biệt ấy qua kiến trúc nhà ở
của họ, một không gian chung cho tất cả những người trong gia đình. Chính vì vậy,
việc tạo một không gian học tập cho học sinh là điều không thể. Hoạt động sống này
đã không tạo điều kiện học tập cho các em, mà còn làm cho chất lượng học tập của
các em ngày càng giảm sút.
- Đối với các em, tự học là chủ yếu, bởi vì anh chị, cha mẹ, người thân trong gia
đình hoặc không có khả năng hướng dẫn, hoặc không có ý thức trách nhiệm đôn đốc
nhắc nhở quản lý, hay do hoàn cảnh sống khó khăn mà gia đình đã không chú trọng
tới việc học của con, em mình. Điều này cho thấy đa số các em không được nằm trên
một cái nền học vấn nhất định nào đó của gia đình. Việc học tập của các em phải nhờ

Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
5


đến sự tận tâm của giáo viên, nhờ vào kế hoạch giáo dục của nhà trường. Cho nên ý
thức học tập là đặc tính rất cần được chúng ta xây dựng cho các em.
4. Chế độ xã hội:
- Hiện nay, xã hội vẫn chưa có sự quan tâm sâu sát đến điều kiện học tập của học
sinh dân tộc thiểu số. Nhà nước ta chỉ chú ý đến cơ sở vật chất của Trường học, chứ
chưa chú trọng đến đời sống của học sinh một cách đúng mức. Kinh phí hỗ trợ học
sinh nghèo vẫn chưa đến kịp thời, chẳng hạn như, kinh phí hỗ trợ học sinh nghèo ở
tỉnh Gia Lai năm học 2008 - 2009 đến nay (15/ 07/ 2010) vẫn tắc nghẽn, "chưa về
được". Sự thiếu quan tâm này của các cấp chính quyền địa phương đã gieo trong các
em tâm lý chán nản, gây trong phụ huynh tâm lý nghi ngờ. Việc nhiều cán bộ xã đã ăn
bớt tiền hỗ trợ dân nghèo ăn tết hằng năm đã bị dư luận xã hội lên án. Hiện tượng
tham ô trên xảy ra ở khắp các xã vùng khó trên cả nước đã chứng minh rằng, Nhà
nước ta nghĩ, lo cho dân chỉ được một bước, nên đời sống của những người dân ở

những vùng khó khăn vẫn chưa thể an toàn được, vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở các
tỉnh miền núi vẫn chưa thực hiện. Những tồn tại trên đã gây mất niềm tin trong lòng
dân đối với các cấp chính quyền, ở trẻ đối với trường, lớp. Cái đói, kiếp nghèo và cả
bọn "địa chủ" thời nay luôn rình rập, đeo bám họ thì làm sao tất cả họ đều có suy nghĩ
là cần cho con đến trường.
5 Về phía giáo viên:
- Đa số giáo viên người Kinh ở nơi khác đến giảng dạy ở các tỉnh Tây Nguyên đều
không biết ngôn ngữ Dân tộc, nếu biết thì cũng chỉ dừng ở mức độ rất ít nên họ không
thể so sánh, đối chiếu, liên hệ khi gặp những tình huống cần thiết trong dạy học tiếng
Việt cho đối tượng học sinh đặc biệt này. Mặt khác, về phong tục tập quán, họ lại càng
không có điều kiện tìm hiểu, cho nên họ khó có thể tiếp cận với phụ huynh, gia đình
các em, khó có thể tiếp xúc gần gũi, rút ngắn khoảng cách, xóa ranh giới không cần
thiết giữa thầy và trò, để dạy tiếng Việt hiệu quả.
Dạy học cho người dân tộc thiểu số phải do chính giáo viên người địa phương đảm
nhiệm mới mang lại hiệu quả cao được. Nhưng ngặt nỗi, trình độ chuyên môn của
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
6


giáo viên địa phương chưa được chuẩn, đa số giáo viên địa phương ở đây chỉ trải qua
những lớp đào tạo ngắn hạn, rồi bù vào đó là tấm bằng Đại học Từ Xa, hoặc nhà
trường Sư phạm phải tạo điều kiện ra trường cho họ để đáp ứng nhu cầu về giáo viên
của địa phương ở những năm trước đây. Tồn tại ở những trường Tiểu học trên địa bàn
Tây Nguyên là một số giáo viên trình độ sơ cấp (họ chỉ mới học hết lớp 5, rồi chính
quyền địa phương cho đi học 3 tháng nghiệp vụ, rồi họ lên bục giảng làm thầy), nên
công việc giảng dạy của họ khó mang lại được hiệu quả mong muốn. Bản thân họ
cũng chưa nắm vững những kiến thức về tiếng Việt nên họ truyền tải những kiến thức
này đến cho học sinh rất khó khăn. Như vậy, hiệu quả dạy học của giáo viên người
dân tộc là khó có thể!
- Quan tâm đến việc học tập của học sinh, đặc biệt lại là học sinh Tiểu học dân tộc

thiểu số cũng không có được mấy người trong số tất cả những người đang trên bục
giảng ở vùng khó khăn. Và trước tâm thế đến trường của học sinh như vậy, thiết nghĩ,
giảng dạy cho học sinh ở những vùng khó, chúng ta cần hiểu được những vấn đề về
tâm lý của học sinh, về điều kiện, hoàn cảnh sống của gia đình các em để tìm ra
những biện pháp giáo dục, dạy học các em hiệu quả hơn, đưa các em đến với ánh sáng
của tri thức. Giáo viên cũng cần tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, học ngôn ngữ
địa phương, thâm nhập đời sống văn hóa cộng đồng, đặc biệt là hằng năm, các sở
Giáo dục - Đào tạo, phòng Giáo dục cần có chương trình, kế hoạch bồi dưỡng giáo
viên người dân tộc dài ngày và thường xuyên hơn để việc dạy học tiếng Việt cho học
sinh dân tộc thiểu số hiệu quả. Một điều cuối cùng là, giáo viên cần giúp cho học sinh
dân tộc thiểu số hiểu tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông dùng chung cho các dân tộc.
C. Kết luận:
Học sinh luôn có niềm tin sâu sắc vào GV và thực tiễn. Các em thường dễ dàng
nghe theo những người mình đã tin cậy, đặc biệt là GV. Khi các em đã tin GV, các em
thường quyết tâm thực hiện cho được những công việc GV giao, nhiều khi các em còn
bắt chước tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ,.. của GV. Vì vậy, GV phải luôn gần gũi, đi
sâu, đi sát giúp đỡ các em, cố gắng cảm hóa các em bằng sự tận tình chăm sóc của
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
7


mình; đồng thời cũng cố gắng gương mẫu về mọi mặt để dành cho được sự tin yêu
của các em, từ đó phát huy tác dụng giáo dục của mình.
Nắm vững những đặc điểm tâm lí của học sinh gái. Trong học sinh miền núi, học
sinh gái thường ít nói, e dè và dễ xấu hổ, những em gái lớn trong một lớp thường
thiếu những hoài bão ước mơ cần thiết; cho nên những tác động ngoại cảnh dễ làm
cho các em này bỏ học. Khi một em có ý định bỏ học thường rủ thêm một số em khác
bỏ theo. Từ những đặc điểm trên, trong khi giao tiếp, gặp gỡ riêng với các em học
sinh gái, GV phải thường nói chuyện tâm tình với các em về các vấn đề như vai trò
của người phụ nữ trong xã hội ta hiện nay, những công việc mà người phụ nữ miền

núi phải có trách nhiệm vươn lên để gánh vác, sự cần thiết phải có trình độ văn hóa tối
thiểu trong thời đại ngày nay, đồng thời phân tích cho các em những hạn chế của
người con gái vùng cao nếu đi lấy chồng sớm,…
Học sinh con em đồng bào các dân tộc miền núi đến trường với lòng ham học hỏi,
niềm tin sâu sắc về tương lai phía trước. Đa số các em đều là con em các gia đình có
hoàn cảnh khó khăn, điều kiện kinh tế vô vùng thiếu thốn. Ngoài việc học, các em còn
phải đi rừng, đi rẫy để phụ giúp việc với gia đình. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng giáo dục và việc duy trì số lượng học sinh trên lớp. Tuy nhiên, mỗi
người GV nếu nắm vững một số đặc điểm tâm lí của học sinh miền núi, con em đồng
bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa thì việc giáo dục sẽ phát huy hiệu quả cao hơn.
D. Kết quả đánh giá:
Kết quả đánh giá
Tự đánh gái
Đánh giá Tổ
Đánh giá của BTC

Phần tiếp thu Phần vận dụng

Tổng điểm

Xếp loại

Người viết thu hoạch

Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
8


Lê Quốc Thiện


Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
9



×