Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.83 KB, 54 trang )

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
1.1. Khái niệm chung của pháp luật về TN BTTH do vi phạm QLNTD
1.1.1. Khái niệm về người tiêu dùng và TN BTTH do vi phạm QL NTD
Khái niệm người tiêu dùng (NTD) là khái niệm rất quan trọng, được sử dụng xuyên
suốt trong các quy định của pháp luật về NTD. Vì trọng tâm của pháp luật bảo vệ NTD chính
là NTD, do vậy nên nội hàm của các khái niệm này sẽ là kim chỉ nam cho các nội dung khác
được quy định trong luật bảo vệ NTD và trong vấn đề TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD.
Có nhận định từng cho rằng “Một nền pháp chế văn minh phải ưu tiên bảo vệ kẻ yếu”(1) và
pháp luật về bảo vệ NTD cũng không nhằm ngoài nhận định này, bởi vì trong các quan hệ
giữa NTD và nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ thì NTD luôn ở thế yếu hơn, thiếu thông tin hơn,
ít chuyên nghiệp hơn, nên cần thiết phải có sự can thiệp nhất định của nhà nước vào quan hệ
này để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên yếu thế. Thực hiện được điều này nghĩa là
đang từng bước góp phần đưa pháp luật phát triển đến trình độ dân chủ văn minh hiện đại, đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của người dân cũng như các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan
hệ pháp luật, đặc biệt là giai đoạn đất nước hội nhập sâu rộng, cần có các chính sách và quy
định không những đầy đủ các vấn đề mà còn cần cụ thể từng vấn đề đó. Xuất phát từ yêu cầu
nói trên, việc xác định các đối tượng nào sẽ được gọi là NTD là một vấn đề hết sức quan trọng,
nó đảm bảo cho việc xác định đúng được TN BTTH mà chủ đề này hướng tới, dưới đây là
một số khái niệm về NTD theo pháp luật Việt Nam và trên thế giới.
“NTD là người cuối cùng sử dụng, tiêu dùng hàng hóa, ý tưởng, dịch vụ nào đó, NTD
lúc theo tổ chức này là người mua hoặc đưa ra quyết định như là NTD cuối cùng, điều này có
nghĩa khi một người mua một sản phẩm, có thể là thức ăn hoặc bất kỳ một chế phẩm, dịch vụ
nào đó, họ có thể tặng hoặc cho người khác sản phẩm họ đã mua, nhưng trong trường hợp này
họ vẫn được xem là NTD mặc dù bản thân họ không hề trực tiếp sử dụng và thụ hưởng sản
phẩm đó”.(2)
(1) Nguyễn Như Phát (2003), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay,
NXB Công an nhân dân, H, , tr 10
(2)Khái niệm NTD trong luận văn của A-Z( />
1



Khái niệm NTD được dùng trong nhiều văn cảnh khác nhau, tùy thuộc vào các tình
huống mà chủ thể NTD trở nên khác nhau, vì thế cách dùng và tầm quan trọng của khái niệm
này có thể rất đa dạng. NTD là người có nhu cầu, có khả năng mua sắm các sản phẩm dịch vụ
trên thị trường phục vụ cho cuộc sống, NTD có thể là cá nhân hoặc hộ gia đình.
Theo pháp luật ở các nước châu Âu: Khái niệm NTD theo Chỉ thị của Châu Âu bao
gồm các đặc điểm sau: Là bất kỳ cá nhân nào mua hàng theo hợp đồng mà mục tiêu của hợp
đồng không liên quan đến thương mại, kinh doanh hay nghề nghiệp. Như vậy theo khái niệm
này thì khái niệm NTD không bao gồm pháp nhân và không bao gồm người sử dụng, thụ
hưởng hàng hóa dịch vụ mà không trực tiếp giao kết hợp đồng với nhà sản xuất, kinh doanh.(3)
Theo pháp luật Đài Loan thì khái niệm NTD được quy định là những ai tham gia vào
các giao dịch, sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ và mục đích là để tiêu dùng. Như vậy chủ thể
tham gia vào các giao dịch ở đây có thể được hiểu là bao hàm cả thể nhân và pháp nhân, miễn
là mục đích của họ là để tiêu dùng.(4)
Theo pháp luật Malaysia, khái niệm NTD tương đối chi tiết về mục đích sử dụng nhưng
chỉ nói tới khái niệm người (person) mà không dùng từ cụ thể là thể nhân hay pháp nhân như
các nước nói trên. Với quy định này dễ là gây khó hiểu khi không biết NTD ở đây sẽ là pháp
nhân hay là thể nhân. Ngoài ra theo quy định của luật thì NTD không chỉ là người trực tiếp
mua sản phẩm hay thuê dịch vụ mà bao gồm cả những người sử dụng hàng hóa dịch vụ không
phụ thuộc vào hợp đồng giữa họ với nhà cung cấp.(5)
Theo pháp luật Thái Lan, khái niệm NTD có thể bao gồm cả thể nhân và pháp nhân và
họ phải là người mua hoặc sử dụng dịch vụ của nhà kinh doanh. Tuy quy định của Thái Lan
không đề cập tới các chủ thể sử dụng hàng hóa dịch vụ nhưng không mua hàng hóa hay thuê
dịch vụ đó có là NTD hay không nhưng lại có sự mở rộng thêm cả giai đoạn được chào hàng
hoặc được đề nghị mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ. Như vậy, tại thời điểm được nhà kinh
doanh chào hàng hoặc đề nghị mua hàng, các chủ thể nói trên đã được coi là NTD và được
bảo vệ theo các quy định của pháp luật về BVQLNTD.(6)
(3),(4) Trang thông tin pháp luật Bộ Công thương ngày 02/02/2016
/>(5), (6) Trang thông tin pháp luật Bộ Công thương ngày 02/02/2016
/>

2


Còn tại Việt Nam, pháp luật đã đưa ra được khái niệm pháp lý hoàn chỉnh về NTD,
song cần nhận thức chính xác về giá trị ứng dụng của khái niệm này. Theo quy định tại Điều
3 Luật BVQLNTD năm 2010 đã định nghĩa về NTD như sau: “NTD là người mua, sử dụng
hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức”, với
quy định này không quy định rõ NTD là cá nhân hay pháp nhân, tuy nhiên dựa trên tinh thần
của điều 3, Luật BVQLNTD thì “NTD” là các cá nhân, tổ chức mua hoặc sử dụng hợp pháp
hàng hoá, dịch vụ không nhằm mục đích kinh doanh.
Có thể thấy rằng, thuật ngữ NTD lúc này không còn là khái niệm chung chung như
nhân dân, nam giới, nữ giới, già trẻ, thanh niên,… NTD phải được hiểu là những cá thể mua
và sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt (end consumer). Việc cụ thể hóa khái
niệm trên giúp từng NTD cụ thể ý thức được chính họ đang có các quyền của NTD sản phẩm
mà pháp luật quy định cho họ, từ đó giúp mỗi người đều có khả năng sử dụng các công cụ
pháp lý để tự vệ khi có sự vi phạm, cho dù sự vi phạm chỉ là cá biệt, không phổ biến và giá trị
thiệt hại không đáng kể.
Trước khi tìm hiểu khái niệm về TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD, cần phải nắm
rõ như thế nào là thiệt hại. Ta có thể hiểu thiệt hại là tổn thất, mất mát về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của cá nhân tổ chức đươc pháp luật bảo vệ, và thiệt hại
này có mối quan hệ về nhân quả với hoạt động sản xuất, kinh doanh của cá nhân, tổ chức sản
xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ đó.
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi NTD là một trường hợp cụ thể của TN BTTH
ngoài hợp đồng nhưng trong một số trường hợp cũng có thể là phát sinh trong quan hệ hợp
đồng (hợp đồng miệng) được quy định trong BLDS năm 2015. Nhưng trong luật này nhà làm
luật vẫn chưa đưa ra khái niệm cụ thể về TN BTTH trong trường hợp này, đồng thời tính đến
thời điểm hiện tại vẫn chưa có bất kì một văn bản luật nào hướng dẫn hay nêu định nghĩa cụ
thể cho nội dung này, thay vào đó, tại điều 608 BLDS 2015 chỉ quy định một cách chung nhất
rằng: “cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất kinh doanh không đảm bảo chất lượng hàng
hóa mà gây thiệt hại cho NTD thì phải bồi thường”. Từ quy định tại điều luật này có thể đưa

ra khái niệm đối với TN BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD như sau: TN BTTH do vi phạm
quyền lợi NTD là một loại trách nhiệm dân sự (có thể trong hoặc ngoài hợp đồng) phát sinh

3


do hành vi của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không đảm bảo chất
lượng hàng hóa gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp cho NTD thì phải bồi thường những
tổn thất mà mình gây ra.
Trách nhiệm sản phẩm là hệ thống các quy tắc phân bổ thiệt hại trong xã hội giữa các
chủ thể có liên quan khi xảy ra thiệt hại. Vấn đề cơ bản mà chế định này cần giải quyết là khi
xảy ra thiệt hại từ quá trình tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ đã được nhà sản xuất, nhà cung ứng
sản phẩm, dịch vụ bán ra thị trường, thì ai sẽ phải chịu bồi thường? Bản thân áp lực cạnh tranh
trên thị trường cũng khiến nhiều nhà sản xuất tự đưa ra những cam kết của mình trong việc
giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, kinh nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế thị trường cho
thấy, áp lực cạnh tranh thường không đủ để đảm bảo rằng nhà sản xuất, nhà phân phối có cách
ứng xử hài hòa về lợi ích giữa nhà sản xuất, phân phối với NTD. Chính vì thế, các quốc gia
thường có các quy định pháp luật để giải quyết vấn đề này. Ở Việt Nam thời gian qua, các vụ
việc xâm phạm quyền lợi NTD ở quy mô khá lớn liên tục được báo chí phát hiện và đưa ra
trước công luận như vụ con ruồi trong chai nước của Tân Hiệp Phát, vụ nước giải khát C2,
Rồng đỏ có hàm lượng chì vượt mức cho phép, đầu độc người tiêu dùng,…Các cơ quan chức
năng đã vào cuộc, nhưng những biện pháp mà các cơ quan này thực hiện vẫn chưa mang lại
hiệu quả thiết thực. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do pháp luật Việt Nam
chưa có quy định cụ thể về chế định trách nhiệm sản phẩm(7). Trách nhiệm sản phẩm là một
chế định pháp luật quan trọng ở nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển hiện nay. Quá
trình phát triển chế định pháp luật này gắn liền với nhu cầu bảo vệ NTD trước những nhà sản
xuất, cung ứng hàng hoá sản phẩm. Sự phát triển của chế định này là một bước tiến của pháp
luật ở nhiều nước trong việc kiểm soát các nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm vì lợi ích của
cộng đồng. Bản chất của chế định này là các nhà sản xuất và những tổ chức, cá nhân tham gia
vào việc tiêu thụ sản phẩm phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra cho người sử

dụng sản phẩm nếu như việc sử dụng chúng tiềm ẩn những nguy hại nhưng không được cảnh
báo trước.

(7) Tạp chí dân chủ và pháp luật Cơ quan ngôn luận của bộ tư pháp :
/>
4


Pháp luật trách nhiệm sản phẩm được xây dựng dựa trên ba nguyên lý cơ bản về sự vi
phạm nghĩa vụ bảo đảm, sự bất cẩn và trách nhiệm nghiêm ngặt. Có thể nhận thấy, đây cũng
chính là ba cơ sở khởi kiện của người bị thiệt hại trong các vụ án liên quan đến trách nhiệm.(8)
Tuy nhiên, NTD ít sử dụng nghĩa vụ đảm bảo để làm cơ sở khởi kiện vì để áp dụng ta
cần phải chứng minh bản chất mối quan hệ giữa người bán, người cung cấp hàng hóa và người
mua. Nói là như vậy nhưng thực tế để chứng minh cho vấn đề này thì không hề đơn giản. Nếu
như sản phẩm mua về có lỗi và gây ra thương tích, NTD phải chứng minh rằng hành vi của
nhà sản xuất khi thiết kế ra sản phẩm là không đủ tiêu chuẩn hoặc không hợp lí, nhưng đối với
NTD thì việc sử dụng sản phẩm và xem xét đến quy trình giám sát chất lượng của các sản
phẩm mình sử dụng thì hầu như là không thể.
Chế định về trách nhiệm sản phẩm theo quy định ở các quốc gia phát triển được hiểu
là người sản xuất phải chịu trách nhiệm nếu như sản phẩm của họ bị kém chất lượng và việc
sử dụng sản phẩm kém chất lượng này trong điều kiện bình thường gây ra những thiệt hại cho
người sử dụng. Đây là một bước tiến trong việc BVQLNTD, bởi vì để đảm bảo quyền lợi của
mình thì với nguyên tắc này, người khởi tiêu dùng không cần chứng minh sự cẩu thả của nhà
sản xuất hay nghĩa vụ đảm bảo. NTD lúc này chỉ cần chứng minh rằng sản phẩm kém chất
lượng, nguy hiểm hoặc có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe họ và thực tế đã gây thiệt hại nào
đó.
Luật BVQLNTD năm 2010 đã tiếp thu tinh thần của chế định về trách nhiệm sản phẩm
và đã quy định NTD không có nghĩa vụ phải chứng minh lỗi sản phẩm. Tại Điều 42 của Luật
BVQLNTD năm 2010 quy định nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự về BVQLNTD. Tuy
nhiên trong thực tế các nhà nghiên cứu đã phân tích thì việc quy định NTD không có nghĩa vụ

chứng minh lỗi trong vụ án dân sự không có nghĩa là miễn trừ tất cả nghĩa vụ chứng minh của
NTD.

(8) Tạp chí dân chủ và pháp luật Cơ quan ngôn luận của bộ tư pháp :
/>
5


Để thực hiện việc khởi kiện, NTD vẫn phải chứng minh thiệt hại, cung cấp chứng cứ
về thiệt hại cũng như hành vi gây ra thiệt hại mà không cần phải chứng minh lỗi của tổ chức,
cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ gây ra thiệt hại đó. Quy định này xuất phát từ vị trí yếu
thế của NTD trong mối quan hệ với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Vì vậy, căn cứ phát sinh trách nhiệm chính là khuyết tật sản phẩm và thiệt hại đã xảy ra. Ở
đây, NTD không cần chứng minh lỗi này, mà nghĩa vụ chứng minh mình có lỗi hay không là
ở phía các nhà sản xuất, nhà cung ứng nếu họ muốn miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Việc xác định căn cứ, dựa trên đó xác định khuyết tật sản phẩm là yếu tố vô cùng quan
trọng để xác định trách nhiệm nghiêm ngặt. Một sản phẩm bị coi là có khuyết tật khi sản phẩm
đó không đảm bảo an toàn ở mức độ mà người ta có thể trông chờ được một cách hợp lí. Tuy
nhiên, Điều 24 Luật BVQLNTD năm 2010 có ghi nhận quyền miễn trừ nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại trong trường hợp khuyết tật của hàng hóa không thể phát hiện với trình độ khoa học
- kỹ thuật tại thời điểm cung cấp hàng hóa tương tự như điểm đ khoản 1 và điểm đ khoản 2
Điều 62 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007. Như vậy, trong tình huống này, NTD
rơi vào tình thế bất lợi nếu như khi mua hàng hóa mà không biết rằng sản phẩm thụ hưởng đó
có thể hay không thể phát hiện khuyết tật. Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVQLNTD cũng
không đề cập tới một trình tự hoặc phương thức rõ ràng để làm rõ nội hàm cụm từ “không thể
phát hiện với trình độ khoa học - kỹ thuật tại thời điểm cung cấp hàng hóa”. Quy định không
có hướng dẫn cụ thể như vậy, một lần nữa lại đặt NTD vào vị thế bị động, có thể gặp rủi ro
khi tiếp nhận hàng hóa do bản thân bị hạn chế không đủ năng lực để tự kiểm chứng.(9)
Trên đây là những khái niệm về NTD và khái niệm về TN BTTH do vi phạm quyền lợi

NTD mà nhóm đã nghiên cứu được. Việc xác định rõ đâu là NTD, thế nào là TN BTTH do vi
phạm quền lợi NTD giúp việc nghiên cứu về chế định này được rõ ràng và chính xác hơn, qua
đó đưa ra được những nhận định và phương hướng đánh giá thực hiện một cách chính xác như
mục tiêu ban đầu đã đặt ra, góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ NTD và đưa
những kiến nghị, đề xuất này vào thực tiễn áp dụng.
(9) Ngô Thu Trang, Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp
/>
6


1.1.2. Đặc điểm của TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD
Trong các biện pháp chế tài được áp dụng đối với chủ thể có hành vi xâm phạm quyền
lợi của NTD như: chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài dân sự thì chế tài dân sự được
coi là biện pháp chế tài mang tính thiết thực nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của NTD, bởi
hậu quả từ việc áp dụng biện pháp chế tài này mang lại. Nếu như hậu quả của biện pháp áp
dụng chế tài hành chính, chế tài hình sự là tác động vào nhân thân người thực hiện hành vi vi
phạm hoặc động viên một phần lợi ích vật chất và ngân sách nhà nước (tiền phạt) thì hậu quả
của việc áp dụng chế tài dân sự đối với chủ thể có hành vi xâm phạm quyền lợi của NTD là
nhằm khôi phục, bù đắp, bảo đảm những lợi ích nhất định cho chính người bị xâm phạm.
Chế tài dân sự đối với hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi của NTD là hậu quả
pháp lý bất lợi được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm quyền lợi của
NTD, theo đó các chủ thể này buộc phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định hoặc phải bồi
thường thiệt hại do hành vi vi phạm của mình gây ra.
TN BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD: hành vi xâm phạm quyền lợi của NTD và
có thể gây ra thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và
lợi ích hợp pháp khác của NTD. Căn cứ phát sinh TN BTTH cho NTD có thể là do tổ chức,
cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ và NTD thỏa thuận, nhưng cũng có thể xuất phát từ các
căn cứ do pháp luật quy định. Khi tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại
cho NTD thì các tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hóa dịch vụ đó phải bồi thường thiệt hại do
hành vi vi phạm của mình gây ra. Thiệt hại mà tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ

phải bồi thường có thể là thiệt hại về vật chất, có thể là thiệt hại về tinh thần.

7


1.1.3. Vai trò của pháp luật về TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD
Trong nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay, thì vai trò của NTD ngày càng
được nâng cao, việc ban hành những chính sách nhằm đảm bảo quyền lợi của NTD là rất cần
thiết.
Pháp luật về TN BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD đóng vai trò rất quan trọng
trong chính sách phát triển của quốc gia, trong đó có việc góp phần hiện đại hóa nền kinh tế
và cải thiện chất lượng sống của người dân. Chính từ nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng,
nhiều doanh nghiệp sẽ lên kế hoạch đưa ra nhiều sản phẩm, dịch vụ đa dạng nhằm đáp ứng
nhu cầu sử dụng ngày càng cao của người tiêu dùng đồng thời tăng tính cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp sẽ có chiến lược phát triển lâu dài và phù hợp với tình hình
thực tế. Chính vì vậy, người tiêu dùng chính là người tác động không nhỏ đến kế hoạch và
chiến lược kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp vì lí do lợi
nhuận và nhằm tăng tính cạnh tranh trên thị trường nên sẽ sản xuất ra nhiều hàng hoá, dịch vụ
nhằm đáp ứng nhu cầu của NTD và có cả hàng giả, hàng kém chất lượng,…
TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD nhằm hướng tới bảo vệ quyền lợi của NTD- bảo
vệ một cấu thành thị trường, là bảo vệ giá trị quyền con người. Trong nền kinh tế thị trường
như hiện nay, thì NTD đóng vai trò là một thành tố quan trọng để tạo nên sự cân bằng trên thị
trường bởi khi tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hoá ra ngoài thị trường thì việc tiêu dùng hàng
hoá của NTD tạo nên sự cần bằng trên thị trường trong quan hệ mối cung-cầu. Rõ ràng bây
giờ muốn sản xuất phát triển thì một phần phải do tiêu dùng. NTD mua với số lượng lớn,
doanh nghiệp bán được nhiều hàng thì doanh thu tăng cao, doanh nghiệp mới có thể tồn tại.
Chính vì vậy có thể nói sức mua của NTD là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Nếu sức mua mà kém thì không thể sản xuất được.
Luật BVQLNTD năm 2010 tại Điều 8 cũng đã quy định quyền cơ bản nhất của người
tiêu dùng là được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác

khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ cung cấp. NTD có quyền được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ
hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần

8


thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng. Trên thực tế, những
quyền này vẫn bị xâm phạm.
Bởi thế, việc bảo vệ NTD còn xuất phát từ chính vai trò của họ trong nền kinh tế. Để
phát triển nền kinh tế bền vững thì bất kì nhà nước nào cũng đều phải quan tâm bảo vệ các
thành tố thị trường mà NTD là nhân vật trung tâm. Bên cạnh những hỗ trợ mang tính chất
hướng dẫn, đào tạo, tuyên truyền, cần thiết có một công cụ mạnh hơn để bảo đảm cho NTD
có thể sử dụng để tự mình bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ trước những vi phạm, lạm dụng
của các tổ chức, cá nhân.
Tóm lại, bất kì gia đoạn nào thì NTD cũng đóng vai trò vai quan trọng trong nền kinh
tế và đặc biệt là nền kinh tế thị trường như hiện nay. Chính vì thế, việc bảo vệ quyền lợi của
NTD cũng cần được thực hiện song song với việc phát triển kinh tế, giúp NTD cò thể yên tâm
hơn khi tham gia vào thị trường.
1.2. Lịch sử hình thành của chế định TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD
1.2.1. Lịch sử hình thành chế định về TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD trên thế
giới
Chế định về TN BTTH được hình thành như một xu thế tất yếu trong quá trình phát
triển hệ thống pháp lý bảo vệ NTD, nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ NTD một cách đầy đủ và
hữu hiệu hơn. Chế định pháp luật này được áp dụng đầu tiên ở Hoa Kỳ và sau đó được tiếp
nhận bởi các nước thuộc phạm vi liên minh Châu Âu (EU) và Châu Á (như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật và các nước khu vực Đông nam Á (ASEAN)). Pháp luật về TN BTTH do vi phạm
quyền lợi NTD hay còn được gọi bằng trách nhiệm sản phẩm đã được phát triển nhằm đảm
bảo cho sự an toàn và bồi thường thích đáng trong các trường hợp khi một bên bị thương tích

hoặc tổn thất từ việc sử dụng sản phẩm. Các nguyên tắc của loại trách nhiệm này được sử
dụng khá linh hoạt và được phát triển để cân bằng lợi ích của người sản xuất và người cung
ứng với việc bảo vệ quyền lợi cho những người có thể bị ảnh hưởng từ việc sử dụng sản phẩm
của họ. Dưới góc độ lập pháp, pháp luật trách nhiệm sản phẩm đề cao trách nhiệm đưa ra
những lợi ích để tích luỹ cho sự phát triển của xã hội, sản xuất, mua bán và sử dụng các sản
phẩm bằng cách tạo ra các ưu đãi để sản xuất những sản phẩm không có khuyết tật hoặc đưa
ra những cảnh báo phù hợp về bất kỳ sự nguy hiểm liên quan đến việc sử dụng sản phẩm, các
9


quy định trong thời kì này của chính phủ can thiệp rộng hơn với những thủ tục được ban hành
mới.(10)
Quá trình hình thành chế định về TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD trên thế giới
về căn bản nó có thể được xem như bước tiến hành song song với quá trình suy vong của học
thuyết về tính tất yếu của hợp đồng (The doctrine of Privity). Bởi vì, theo học thuyết này,
không thể trao quyền hoặc bắt buộc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng cho bất kỳ chủ thể nào
không phải là một bên của hợp đồng đó. Tính tất yếu của hợp đồng đưa đến một cách hiểu là
chỉ có các bên trong quan hệ hợp đồng mới có thể kiện để yêu cầu thực thi quyền hay đòi bồi
thường thiệt hại cho mình.
Với quan niệm của học thuyết tính tất yếu của hợp đồng thì một người bị thiệt hại chỉ
có thể kiện một người có hành vi bất cẩn nếu người đó là một bên trong giao dịch với người
bị thiệt hại. Và do đó nghĩa vụ của một người phải có sự cẩn trọng hợp lý chỉ xuất phát từ hợp
đồng và chỉ người nào cùng tham gia quan hệ hợp đồng đó mới có thể kiện vì sự vi phạm
nghĩa vụ theo hợp đồng này. Điều đó cũng có nghĩa là khi một nhà sản xuất bất cẩn bán một
sản phẩm cho một người kinh doanh bán lẻ sau đó người kinh doanh bán lẻ tiếp tục bán sản
phẩm cho khách hàng thì bên người sản xuất không phải chịu trách nhiệm trong việc này.
Khách hàng khi đó không có bất kỳ biện pháp nào để yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại vì không
phải người bán lẻ mà chính nhà sản xuất mới là người gây ra thiệt hại. Do đó quyền lợi của
NTD lúc này có thể bị xâm phạm bởi các sản phẩm từ người sản xuất bất cẩn nhưng lại không
có bất cứ biện pháp nào trong giai đoạn này được đưa ra để bảo vệ cho quyền lợi chính đáng

của họ, cũng như TN BTTH là điều đương nhiên mà nhà sản xuất bất cẩn không phải gánh
vác.
Với quan niệm của học thuyết tính tất yếu của hợp đồng thì một người bị thiệt hại chỉ
có thể kiện một người có hành vi bất cẩn nếu người đó là một bên trong giao dịch với người
bị thiệt hại.

(10) Trương Hồng Quang, Một số vấn đề cơ bản về chế định trách nhiệm sản phẩm />
10


Và do đó nghĩa vụ của một người phải có sự cẩn trọng hợp lý chỉ xuất phát từ hợp đồng
và chỉ người nào cùng tham gia quan hệ hợp đồng đó mới có thể kiện vì sự vi phạm nghĩa vụ
theo hợp đồng này. Điều đó cũng có nghĩa là khi một nhà sản xuất bất cẩn bán một sản phẩm
cho một người kinh doanh bán lẻ sau đó người kinh doanh bán lẻ tiếp tục bán sản phẩm cho
khách hàng thì bên người sản xuất không phải chịu trách nhiệm trong việc này. Khách hàng
khi đó không có bất kỳ biện pháp nào để yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại vì không phải người
bán lẻ mà chính nhà sản xuất mới là người gây ra thiệt hại. Do đó quyền lợi của NTD lúc này
có thể bị xâm phạm bởi các sản phẩm từ người sản xuất bất cẩn nhưng lại không có bất cứ
biện pháp nào trong giai đoạn này được đưa ra để bảo vệ cho quyền lợi chính đáng của họ,
cũng như TN BTTH là điều đương nhiên mà nhà sản xuất bất cẩn không phải gánh vác.
Học thuyết về tính tất yếu của hợp đồng (The doctrine of Privity) đã thống trị đời sống
pháp luật thế kỷ 20, mặc dù các toà án thời bấy giờ cũng tạo ra một số ngoại lệ trong việc
tránh để không phủ định việc đòi khôi phục quyền lợi cho những nguyên đơn bị thiệt hại dưới
hình thức thương tích. Tính tất yếu của hợp đồng đã không được sử dụng trong trường hợp
người bán đã lừa dối trong việc che giấu khuyết tật của sản phẩm hay sản phẩm tự nó đã có
thể gây nguy hiểm hoặc có nguy hiểm nhãn tiền đối với sức khoẻ hoặc tính mạng, chẳng hạn
như thuốc độc hay súng. Đối với một số toà án, việc một sản phẩm có khuyết tật kết hợp với
thực tế là bị đơn có mời nguyên đơn sử dụng sản phẩm theo một cách nào đó là đủ để xác định
trách nhiệm. Trong một số trường hợp, thuật ngữ nguy hiểm nhãn tiền được giải thích theo
nghĩa là đặc biệt nguy hiểm với lý do xuất phát từ chính khuyết tật chứ không phải giải thích

bằng chính sự nguy hiểm.
Năm 1916, một vụ kiện nổi tiếng và đã trở thành án lệ là Macpherson kiện công ty
Motor Buick đã mở rộng phạm vi của sản phẩm nguy hiểm tự thân hay nguy hiểm nhãn tiền
và sự mở rộng này thực tế đã loại bỏ yêu cầu phải có quan hệ hợp đồng trong các trường hợp
có sự bất cẩn. Vụ việc này đã xác định rằng việc không có quan hệ hợp đồng không phải là cơ
sở để loại trừ trách nhiệm, nếu như với một sản phẩm được sản xuất một cách bất cẩn và người
ta có khả năng nhìn thấy trước được rằng nó có thể gây thương tích cho người khác, bao gồm
cả nguyên đơn. Với việc công nhận lý thuyết về sự bất cẩn, vụ việc có tính ngoại lệ này được
xem như là đã phá bỏ quy tắc về tính tất yếu của hợp đồng. Án lệ MacPherson nhanh chóng
trở thành một quy định có tính dẫn dắt, và trong các vụ việc có xem xét về sự bất cẩn, thì quy
11


tắc phải có quan hệ hợp đồng đã không còn được áp dụng. Sự đồng cảm ngày càng tăng của
công chúng đối với các nạn nhân của sự bất cẩn trong các ngành sản xuất cũng đóng góp vào
sự suy vong của quy tắc này.(11)
Giai đoạn từ 1930 đến 1960 tại Hoa Kỳ, những luật gia cũng như luật sư đã đưa ra
nhiều quan điểm về việc áp dụng trách nhiệm đối với sản phẩm mà không cần lỗi của nhà sản
xuất và họ gọi đó là “Strict liability” hay trách nhiệm sản phẩm nghiêm ngặt. Ví dụ điển hình
nhất là phán quyết của tòa án tối cao bang California về vụ Escola v. Coca Cola Bottling Co.
of Fresno vào năm 1944, đây được xem là phán quyết đầu tiên cho loại trách nhiệm sản phẩm
nghiêm ngặt của nhà sản xuất. Trong quá trình tranh tụng, thẩm phán Roger John Traynor cho
rằng mặc dù nguyên đơn không chứng minh được lỗi của công ty sản xuất vỏ chai trên, nhưng
bị đơn là người chịu trách nhiệm sản xuất và đưa ra thị trường các loại vỏ chai đảm bảo an
toàn cho người sử dụng, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm đối với các khuyết tật xảy ra
trong điều kiện thông thường mà bị đơn không thể lường trước được.(12)
Cũng vào giai đoạn đầu thế kỷ 20, một ngoại lệ của quy tắc phải có quan hệ hợp đồng
cũng đã hình thành với các vụ việc liên quan đến sản phẩm tiêu dùng như thực phẩm và cho
đến các sản phẩm sử dụng trực tiếp cho cơ sở như hóa mỹ phẩm, và bảo đảm trong các vụ việc
này được mở rộng đến người sử dụng cuối cùng. Trong các trường hợp mà có sự bảo đảm rõ

ràng, chẳng hạn như sự bảo đảm được tuyên bố đối với công chúng nói chung, thì yêu cầu
phải có quan hệ hợp đồng đã được loại bỏ trong những năm 1930. Chẳng hạn như trong vụ
kiện giữa Baxter kiện Công ty Ford Motor năm 1932 thì sự khẳng định trong tài liệu kèm theo
sản phẩm ô tô của hãng này chỉ rõ rằng “kính chắn gió chống vỡ” thì điều này sẽ tạo thành
một sự bảo đảm rõ ràng đối với người mua về việc kính chắn gió của ô tô sẽ không bị vỡ. (13)

(11), (12), (13) Ths. Trần Thị Quang Hồng* Trương Hồng Quang** Một số vấn đề chung về chế định TNSP
và vai trò của chế định này dưới góc độ bảo vệ NTD- (Bài đăng trên Tạp chí NN & PL số tháng 12/2010)

12


Còn đối với sự bảo đảm ngầm định, việc mở rộng thêm trường hợp ngoại lệ của quy
tắc phải có quan hệ hợp đồng không áp dụng đối với các sản phẩm không phải là thực phẩm.
nhưng với án lệ Henningsen kiện Công ty ô tô Bloomfield 1960 thì Toà án Tối cao New Jersey
đã bác bỏ ngoại lệ về sự hạn chế của yêu cầu phải có quan hệ hợp đồng và xác định rằng sự
đảm bảo ngầm định sẽ là đảm bảo với người sử dụng hoặc tiêu dùng cuối cùng của sản phẩm.
Quyết định Henningsen, với tác dụng làm vô hiệu các miễn trách đối với đảm bảo ngầm định
của nhà sản xuất, đã được học tập trong phần lớn các phán quyết toà án khác sau này.(14)
Tuy nhiên phải đến vụ kiện xảy ra giữa Greenman và Yuba Power Products vào năm
1963, khi Toà án tối cao California(15) khẳng định quy tắc về trách nhiệm nghiêm ngặt đối với
các sản phẩm có khuyết tật thì án lệ này mới chính thức được xem là phổ biến và có tầm ảnh
hưởng mạnh mẽ. Trong một thời gian ngắn, quy tắc về trách nhiệm nghiêm ngặt đã lan ra khắp
nước Mỹ và vào năm 2003, nó đã trở thành luật của phần lớn các bang của Hoa Kỳ và được
hình thành tại các quốc gia khác trên thế giới đây cũng chính là lịch sử hình thành của chế
định về trách nhiệm sản phẩm nói chung và trách nhiệm về bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi của NTD nói riêng trên thế giới.
Học hỏi những kinh nghiệm lập pháp về bảo vệ QL NTD và đồng thời phù hợp với tình
hình Việt Nam thực tại thì Luật BVQLNTD năm 2010, có hiệu lực từ ngày 1/7/2011 đã tạo
lập hành lang pháp lý cần thiết cho việc bảo vệ người tiêu dùng (NTD), xác lập được sự ổn

định trong quan hệ giữa NTD với các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Từ đó đã hình thành được
nền tảng tư duy mới trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ NTD và thiết lập được vị thế
các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ, hướng tới mục tiêu xã hội hóa công tác bảo vệ NTD.

(14), (15) Ths. Trần Thị Quang Hồng* Trương Hồng Quang** Một số vấn đề chung về chế định TNSP và vai
trò của chế định này dưới góc độ bảo vệ NTD- (Bài đăng trên Tạp chí NN & PL số tháng 12/2010)

13


1.2.2. Lịch sử hình thành chế định về TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD ở Việt
Nam
Thực trạng công tác bảo vệ NTD tại Việt Nam cho thấy, các vụ vi phạm quyền lợi NTD
có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ. Trong khi đó, các quy định của
pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho quá trình phát hiện và xử lý các vi
phạm quyền lợi của NTD. Thực trạng này đòi hỏi phải xây dựng một cơ chế pháp lý đầy đủ
và hoàn thiện nhằm BVQLNTD. Hệ thống quy định của pháp luật về BVQLNTD còn nhiều
bất cập và việc bảo vệ NTD là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn xã hội.
Không chỉ tại Việt Nam, hầu hết các nước trên thế giới đều rất coi trọng công tác này bởi lẽ
bảo vệ NTD chính là bảo vệ sự phát triển bền vững của xã hội. Do đó, nhiều quốc gia đã sớm
ban hành các đạo luật với mục đích bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NTD. Tại Việt
Nam, ngày 27 tháng 4 năm 1999, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Bảo vệ
NTD. Đây có thể coi là một bước ngoặt quan trọng trong công tác bảo vệ NTD ở nước ta cho
thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác này.
Bên cạnh Pháp lệnh Bảo vệ NTD, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD
Việt Nam còn được quy định bởi rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác như: BLDS,
BLHS, Luật thương mại, Luật cạnh tranh, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa...
BLDS đầu tiên ở nước ta ra đời năm 1995, khi mà quá trình chuyển đổi từ kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đang bước vào giai đoạn tăng tốc, và ngay từ thời
điểm này các nhà lập pháp đã ý thức được sự quan trọng của quy tắc trách nhiệm của nhà sản

xuất đối với những thiệt hại đã gây ra cho NTD khi họ sử dụng sản phẩm từ nhà sản xuất đó.
Điển hình là điều 632 BLDS năm 1995 có quy định như sau: “ cá nhân, pháp nhân và các
chủ thể khác sản xuất, phân phối do không đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh các hàng hóa khác cho NTD thì phải bồi thường thiệt hại”. Tiếp tục
kế thừa tinh thần này, BLDS năm 2005 có nhiều quy định liên quan đến việc xử lý hành vi
xâm phạm quyền lợi của NTD, cụ thể Điều 604 quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô
ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại
phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó”. Điều 630 BLDS

14


năm 2005 quy định “cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không bảo đảm
chất lượng hàng hoá mà gây thiệt hại cho NTD thì phải bồi thường”. Điều 1 của pháp lệnh
BVQLNTD năm 1999 đã định nghĩa NTD là người mua , sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục
đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức, có nghĩa là người mua hàng hóa
dịch vụ để bán lại sẽ không được coi là NTD. Đồng thời Điều 9 của pháp lệnh cũng quy định
NTD có quyền đòi bồi hoàn, bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn,
chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện
theo quy định của pháp luật đối với việc sản xuất, phan phối hàng cấm, hàng giả, hàng hóa,
dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng và việc thông tin, quản cáo sai sự thật...
Mặc dù đã có Pháp lệnh bảo vệ NTD và các luật có liên quan điều chỉnh các vấn đề
liên quan đến trách nhiệm đối với việc vi phạm quyền lợi của NTD, nhưng với kết quả nghiên
cứu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và khảo sát, đánh giá thực tiễn thi hành
các quy định của pháp luật về bảo vệ NTD cho thấy các quy định pháp luật hiện hành có nhiều
bất cập và không phù hợp với yêu cầu của công tác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD
trong tình hình mới. Cụ thể như sau:
Các quy định về bảo vệ NTD còn mang tính tuyên ngôn, khó thực hiện. Pháp lệnh Bảo

vệ NTD mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận các quyền của NTD mà chưa có những cơ chế cụ
thể để thực thi các quyền này. Chính vì vậy, mà công tác BVQLNTD còn gặp nhiều khó khăn.
Quy định của pháp luật hiện hành chưa xây dựng được một cơ chế giải quyết các khiếu
nại, tranh chấp hữu hiệu để NTD có thể tự bảo vệ mình. Các tranh chấp giữa NTD và tổ chức,
cá nhân kinh doanh được hiểu là các tranh chấp dân sự thông thường nên được xử lý theo các
quy định hiện hành về pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, các tranh chấp của NTD với tổ
chức, cá nhân kinh doanh có đặc thù là những tranh chấp nhỏ, đơn giản và cần được giải quyết
nhanh chóng, thuận tiện cho NTD. Thực tế cho thấy việc áp dụng các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự hiện hành để giải quyết các khiếu nại, tranh chấp của NTD là không phù hợp
vì giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự là phức tạp và tốn kém, không phù hợp với khiếu nại,
giải quyết tranh chấp của NTD. Đây là lý do chính dẫn đến việc NTD nước ta thường không
khiếu nại, khởi kiện ra toà khi bị vi phạm quyền lợi. Lợi dụng điều này, nhiều tổ chức cá nhân

15


kinh doanh thường không đề cao ý thức bảo vệ quyền lợi NTD dẫn đến thiệt hại quyền lợi
NTD và lợi ích chung của xã hội.
Quy định của pháp luật hiện hành chưa có những chế tài đặc thù, đủ sức răn đe để xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật. Theo đó, các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ NTD có
thể phải chịu chế tài dân sự, hành chính và thậm chí là chế tài hình sự (nếu hành vi cấu thành
tội phạm theo quy định của BLHS). Thực tiễn công tác bảo vệ NTD trong thời gian qua cho
thấy các chế tài hiện hành không đủ sức răn đe, giáo dục đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm
quyền lợi của NTD. Đây chính là một trong những nguyên nhân lý giải cho sự gia tăng cả về
số lượng và mức độ của các vụ việc vi phạm quyền lợi của NTD trên thực tế. Trong năm 2008,
riêng lực lượng quản lý thị trường đã kiểm tra và xử lý 18.539 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả,
hàng kém chất lượng, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và an toàn vệ sinh thực phẩm. Tuy nhiên,
cũng theo cơ quan này, mức xử phạt không tương xứng với lợi nhuận mà doanh nghiệp thu
được từ hành vi vi phạm, do đó có thực tế là nhiều doanh nghiệp chấp nhận bị phạt để vi
phạm). Học hỏi kinh nghiệm từ các nước trên thế giới, ngoài biện pháp phạt tiền, cấm kinh

doanh,… Các nước này còn đưa ra những chế tài đặc thù như công bố công khai trên các
phương tiện thông tin đại chúng, truy thu lợi nhuận bất hợp pháp… Đây là những chế tài rất
hiệu quả để áp dụng cho các tổ chức, cá nhân vi phạm quyền lợi của NTD. Tuy nhiên, các quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành vẫn chưa đưa ra được những chế tài thể hiện tính đặc
thù, phù hợp trong lĩnh vực này.(16)
Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong công tác bảo vệ NTD chưa
được quy định một cách rõ ràng. Khác với các lĩnh vực khác, hoạt động bảo vệ NTD liên quan
đến nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Chính vì vậy, có rất nhiều cơ quan, tổ chức có liên quan
đến công tác này. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành chưa tạo ra một cơ chế
phối hợp có hiệu quả để các cơ quan có liên quan có thể phối hợp trong công tác bảo vệ NTD.
Do vậy, các vụ việc vi quyền lợi NTD không được phát hiện và xử lý một cách kịp thời, triệt
để. Các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ NTD cũng chưa được trao đủ thẩm quyền để tiến
hành các hoạt động bảo vệ NTD một cách hiệu quả.

(16) Nguồn: Cục Quản lý thị trường - Bộ Công Thương ngày 02/02/2016

16


Chưa có cơ chế hữu hiệu để các tổ chức bảo vệ NTD hoạt động một cách hiệu quả.
Kinh nghiệm trong công tác bảo vệ NTD của nhiều nước trên thế giới cho thấy, vai trò của
các tổ chức bảo vệ NTD là hết sức quan trọng, góp phần quyết định vào sự thành công của
công tác này, ví dụ như khi quyền và lợi ích hợp pháp của NTD bị xâm hại thì tổ chức bảo vệ
quyền lợi NTD sẽ đứng ra khở kiện cho NTD khi mà NTD có yêu cầu. Ở nước ta, việc ra đời
của các tổ chức bảo vệ NTD đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích cho NTD. Tuy nhiên, cho đến nay, các tổ chức bảo vệ NTD vẫn hoạt động chưa hiệu quả,
chưa đáp ứng được yêu cầu trong công tác bảo vệ NTD trong tình hình mới.
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là sự bất cập của các
quy định pháp luật hiện hành. Khác với các tổ chức xã hội khác, các tổ chức bảo vệ NTD hoạt
động mà không có sự đóng góp của các hội viên cũng như không có bất kỳ một nguồn thu ổn

định nào khác. Chính vì vậy, hoạt động của các tổ chức này là rất khó khăn trong khi đó chưa
có một cơ chế hỗ trợ tài chính hữu hiệu từ ngân sách nhà nước. Vì vậy, rất khó để các tổ chức
bảo vệ NTD hoạt động có hiệu quả.
Có thể thấy qua 10 năm thực hiện Pháp lệnh BVQLNTD số 13/1999/PL-UBTVQH
ngày 27 tháng 4 năm 1999 và gần 7 năm thi hành Luật BVQLNTD từ năm 2010 đã giải quyết
phần nào vi phạm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của NTD như sản xuất hàng giả,
hàng kém chất lượng vv... Trong Pháp lệnh đã quy định các nguyên tắc cơ bản trong
BVQLNTD; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; quản lý nhà nước
về BVQLNTD; giải quyết khiếu nại, tố cáo của NTD. Nguyên tắc của pháp lệnh đưa ra là
“Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD là trách nhiệm chung của toàn xã hội”. Trong đó,
đề cập đến 8 quyền cơ bản của NTD, được Liên Hợp Quốc công nhận và công bố. Bao gồm,
quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, quyền được an toàn, quyền được thông tin, quyền
được lựa chọn, quyền được lắng nghe, quyền được khiếu nại và bồi thường, quyền được giáo
dục đào tạo về tiêu dùng, quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững. Sự ra đời
của Pháp lệnh BVQLNTD năm 1999 và Luật BVQLNTD năm 2010 đã tạo nên hành lang
pháp lý quan trọng trong BVQLNTD. Kết quả đạt được có thể thấy những cố gắng nhất định
như việc chống hàng giả, hàng nhái, vệ sinh an toàn thực phẩm, chống gian lận thương mại.
Tuy nhiên, việc thực thi còn nhiều bất cập và các quy định trong đó chưa đầy đủ và còn quá
chung chung dẫn đến kết quả hoạt động pháp lệnh còn hạn chế và hiệu quả thực thi chưa cao
17


vì còn sơ sài, chủ yếu chỉ nêu những nguyên tắc chung mà chưa có những chế tài cụ thể trong
từng trường hợp. BVQLNTD luôn là vấn đề được quan tâm khi mà gần đây các vụ vi phạm
ngày càng gia tăng ở mức độ báo động như: sữa có chứa melamine; rượu có chứa độc tố, mỹ
phẩm chứa hoá chất không được phép sử dụng, thực phẩm chứa chất bảo quản vv... Hiện trạng
trên đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới trong lĩnh vực bảo vệ NTD, trong đó có việc hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ quyền lợi người dùng, dựa trên những quan điểm và định hướng như sau:
Bảo đảm sự cân bằng trong giao dịch dân sự giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh
Hợp đồng là một sự tự do thỏa thuận. Tuy nhiên, nếu để các bên tự do vô hạn thì hợp đồng sẽ

trở thành phương tiện để bên mạnh hơn lấn át bên yếu thế hơn và gây thiệt hại to lớn tới lợi
ích chung của xã hội. NTD luôn là bên thiếu thông tin, đặc biệt là các thông tin và kiến thức
liên quan đến đặc tính kỹ thuật của sản phẩm. Bên cạnh đó, NTD thông thường ít có cơ hội
đàm phán, thương lượng trong quan hệ với tổ chức, cá nhân kinh doanh. Do đó, pháp luật cần
có các quy định đặc thù để đảm bảo sự cân bằng trong các quan hệ này, qua đó góp phần ổn
định trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích chung của xã hội.
Xã hội hóa công tác bảo vệ NTD theo định hướng này, nhà nước khuyến khích các tổ
chức, cá nhân trong xã hội tham gia cùng Nhà nước trong công tác bảo vệ NTD. Bên cạnh đó,
pháp luật hướng tới sử dụng chính sức mạnh của thị trường để loại bỏ các doanh nghiệp có
hành vi xâm phạm quyền lợi NTD từ đó ngoài việc bảo vệ được lợi ích của NTD còn hướng
tới bảo vệ các doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NTD đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức, cá nhân kinh doanh Các quy định của Luật hướng tới việc nâng cao trách
nhiệm của doanh nghiệp đối với NTD nhưng vẫn đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng
của các chủ thể này. Luật không thể hiện xu hướng quá thiên về bảo vệ NTD mà hạn chế đi
quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp, tránh tạo ra những kẽ hở để một số cá nhân lợi dụng
quyền lợi của NTD gây thiệt hại cho doanh nghiệp (Luật tránh việc tạo ra cơ chế khiếu nại
tràn lan không có cơ sở, không quy định quyền được đổi trả lại hàng hóa sau một thời gian sử
dụng như quy định của pháp luật một số nước).

18


1.3. Phân biệt TN BTTH do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và ngoài hợp đồng
TN BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD có thể phát sinh từ quan hệ hợp đồng giữa
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá dịch vụ với người mua hàng hoá hoặc sử dụng dịch vụ
này thông qua hợp đồng miệng nhưng NTD phải là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho
mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức và đồng thời cũng không vì mục
đích lợi nhuận. Và khi có tranh chấp phát sinh thì NTD phải chứng minh đã có quan hệ hợp
đồng với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá dịch vụ đó. Tuy nhiên TN BTTH do vi phạm

quyền lợi của NTD đây cũng có thể là một dạng cụ thể của TN BTTH ngoài hợp đồng vì nó
mang đầy đủ các TN BTTH ngoài hợp đồng và có sự khác biệt so với TN BTTH trong hợp
đồng như:
Thứ nhất, nói về ý chí của chủ thể khi tham gia vào quan hệ này thì TN BTTH do vi
phạm hợp đồng là các chủ thể có mối quan hệ với nhau qua một hợp đồng, các chủ thể này đã
dự liệu và có sự thỏa thuận trước về thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ bồi thường. Còn đối với TN BTTH ngoài hợp đồng thì giữa các chủ
thể của quan hệ pháp luật này trước đó chưa có quan hệ hợp đồng với nhau hoặc nếu có quan
hệ hợp đồng thông qua một hợp đồng thì nội dung của hợp đồng này không liên quan đến thiệt
hại phát sinh và trách nhiệm bồi thường ở đây. Việc xảy ra thiệt hại này, ngoài ý chí của các
chủ thể. Đây là đặc tính có tính tiên quyết nhất trong sự khác biệt giữ TN BTTH trong và
ngoài hợp đồng.
Thứ hai, trong trường hợp thiệt hại do nhiều người gây ra thì xác định TN BTTH liên
đới hay riêng lẽ từ đó ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Còn trong
trường hợp, do vi phạm hợp đồng thì chỉ phát sinh TN BTTH liên đới khi trước đó các chủ
thể này đã có thỏa thuận với nhau về việc liên đới hay không liên đới chịu trách nhiệm bồi
thường và điều này phải được ghi nhận trong hợp đồng. Còn TN BTTH ngoài hợp đồng thì
không nhất thiết các chủ thể này phải có sự thỏa thuận trước đó mà chỉ cần có sự thống nhất
về hành vi hoặc hậu quả hoặc cả hai yếu tố trên.
Thứ ba, về việc xác định lỗi thì TN BTTH do vi phạm hợp đồng nói chung và TN
BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD nói riêng có thể phát sinh cả trong trường hợp chủ thể
bồi thường thiệt hại ở đây không cần có lỗi, có thể hiểu là việc gây thiệt hại có thể do hành vi

19


của người khác nếu các bên trong hợp đồng có sự thỏa thuận về TN BTTH khi có thiệt hại
xảy ra; còn TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD ngoài hợp đồng thì chỉ xuất hiện khi chủ
thể đó gây ra lỗi.
Cuối cùng, là thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu phát sinh thiệt

hại do vi phạm hợp đồng thì thời điểm bồi thường là thời điểm xác định nghĩa vụ và thời điểm
phát sinh TN BTTH là khác nhau. Còn thời điểm này, trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng có thể xuất hiện đồng thời.
Từ những phân tích ở trên, thì TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD là một dang cụ
thể của TN BTTH ngoài hợp đồng và cũng có thể phát sinh từ quan hệ hợp đồng (hợp đồng
miệng) và cần lưu ý rằng, hợp đồng phải có hiệu lực. Chính vì thế, việc bồi thường thiệt hại
này nếu NTD chứng minh được đã có quan hệ hợp đồng với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hoá dịch vụ thì sẽ căn cứ vào hợp đồng để giải quyết dựa trên cơ sở các điều kiện phát sinh
TN BTTH do vi phạm hợp đồng. Đồng thời, nếu giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hoá dịch vụ không có quan hệ hợp đồng thì việc bồi thường thiệt hại cho NTD phải tuân
theo những căn cứ phát sinh, nguyên tắc bồi thường và các vấn đề liên quan được quy định
trong Chương XX TN BTTH ngoài hợp đồng tại BLDS 2015 và NQ số 03/2006/NQ-HĐTP
ngày 08/7/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng.

20


1.4. Pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi NTD
Quan hệ tiêu dùng là một loại quan hệ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng mua bán,
theo đó, NTD mua sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của người cung cấp về để sử dụng mà không
vì mục đích kinh doanh (bán lại). Như vậy, quan hệ tiêu dùng không phải là quan hệ thương
mại, được điều chỉnh bởi Luật Thương mại mà chỉ có thể là quan hệ dân sự được điều chỉnh
chung bởi BLDS và đặc biệt là Luật bảo vệ NTD. Cũng cần lưu ý rằng, các lĩnh vực pháp luật
khác như pháp luật cạnh tranh, pháp luật về vệ sinh, an toàn thực phẩm, pháp luật về chất
lượng sản phẩm và rộng ra là cả pháp luật dân sự, hình sự đều có thêm mục đích là bảo vệ
NTD. Tuy nhiên, nếu như những pháp luật này bảo vệ NTD theo phương pháp can thiệp vào
hành vi của nhà sản xuất, kinh doanh, cung cấp sản phẩm hàng hóa dịch vụ thông qua những
hạn chế hoặc cấm đoán hành vi thì pháp luật bảo vệ NTD (với tính cách là một chế định pháp
luật độc lập) lại xuất hiện ở phía NTD.

Trước hết, khi xét đến quan hệ pháp luật về TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD thì
cần hiểu bản chất của quan hệ pháp luật: thực chất, quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được
các quy phạm pháp luật điều chỉnh, trong đó các bên tham gia đáp ứng được những điều kiện
do Nhà nước quy định, có những quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luậtđây là cách hiểu về quan hệ pháp luật chung nhất, tuy nhiên trong mỗi ngành luật sẽ có sự
điều chỉnh cụ thể hơn, nhằm giúp bảo vệ quyền lợi và các nghĩa vụ của các đối tượng tham
gia vào quan hệ đó.
Từ cách hiểu trên, ta có thể hiểu rằng quan hệ pháp luật về TN BTTH do vi phạm quyền
lợi NTD là quan hệ pháp luật xã hội được các quy phạm pháp luật bảo vệ NTD điều chỉnh,
trong đó các bên tham gia (NTD và người cung cấp hàng hóa, dịch vụ) phải đáp ứng các điều
kiện do Nhà nước quy định, có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Để hiểu rõ hơn về quan
hệ pháp luật bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi NTD cần phải xác định các yếu tố: chủ
thể của quan hệ pháp luật, nội dung quan hệ pháp luật và khách thể của quan hệ pháp luật này.
1.4.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của NTD
Chủ thể của một quan hệ pháp luật nói chung là những người tham gia vào quan hệ
pháp luật đó. Khác với quan hệ pháp luật phát sinh từ một hợp đồng dân sự thì TN BTTH là
một nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng. Còn TN BTTH ngoài hợp đồng nói chung và TN
21


BTTH do vi phạm quyền lợi NTD nói riêng thì TN BTTH là sự kiện phát sinh quan hệ nghĩa
vụ giữa các chủ thể. Như vậy, chủ thể chịu TN BTTH trong quan hệ nghĩa vụ này là phải có
đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi theo quy định của pháp luật dân sự. Xét về
mặt chủ thể của quan hệ pháp luật này bao gồm 2 chủ thể: chủ thể chịu TN BTTH và chủ thể
được bồi thường thiệt hại. Tại điều 608 BLDS 2015 có quy định “Cá nhân, pháp nhân sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà gây thiệt
hại cho NTD thì phải bồi thường.”
Ta có thể thấy, trong BLDS 2015 đã xác định chủ thể có TN BTTH là tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ còn chủ thể được bồi thường thiệt hại là NTD. Tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được quy định cụ thể trong 2 văn bản pháp luật có liên quan
trong lĩnh vực này:

Tại khoản 3 Điều 3 Luật BVQLNTD 2010 có quy định: Tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ là tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm thương nhân theo quy định của Luật thương mại, cá nhân hoạt
động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh. Về chủ thể chịu
trách nhiệm bồi thường theo luật này, thì bao gồm tất cả tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm.
Tại khoản 6 Điều 3 Luật chất lượng, sản phẩm hàng hóa 2007 có quy định: Tổ chức,
cá nhân sản xuất, kinh doanh là tổ chức, cá nhân tổ chức và thực hiện việc sản xuất (sau đây
gọi là người sản xuất), nhập khẩu (sau đây gọi là người nhập khẩu), xuất khẩu (sau đây gọi là
người xuất khẩu), bán hàng, cung cấp dịch vụ (sau đây gọi là người bán hàng
Về chủ thể chịu TN BTTH được Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa quy định tại khoản
10 Điều 10, khoản 13 Điều 12, khoản 12 Điều 16 và Điều 61, Điều 62 theo đó người sản xuất,
nhập khẩu phải bồi thường thiệt hại cho NTD trong trường hợp hàng hóa gây thiệt hại do lỗi
của nhà sản xuất, nhập khẩu không đảm bảo chất lượng hàng hóa trừ các trường hợp quy định
tại khoản 1 Điều 62 của Luật chất lượng sản phẩm khoản 2 Điều 62 Luật chất lượng sản phẩm
hàng hóa 2007 hàng hóa 2007. Còn về người bán hàng phải chịu trách nhiệm bồi thường cho
NTD trong trường hợp thiệt hại phát sinh do lỗi của người bán hàng không đảm bảo chất lượng

22


sản phẩm, hàng hóa trừ các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 62 Luật chất lượng sản
phẩm hàng hóa 2007. Ngoài ra ta thấy, theo như quy định của Luật này thì chưa đề cập đến
trường hợp cả nhà sản xuất, nhập khẩu và nhà bán hàng đều có lỗi trong việc không đảm bảo
chất lượng sản phẩm, hàng hóa thiệt hại cho NTD.
NTD- là đối tượng được bảo vệ theo Luật bảo vệ NTD và đồng thời đây cũng là đối
tượng được bồi thường thiệt hại nếu phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chính bởi sự ưu tiên
này, nhằm bảo đảm hiệu quả trong việc điều chỉnh và tính công bằng trong áp dụng các ưu
đãi, pháp luật không thể sử dụng nguyên vẹn khái niệm NTD trong kinh tế học hoặc với tính

cách là người mua hàng hóa, dịch vụ trong BLDS mà cần phải được phân biệt. Trong Luật
BVQLNTD thì có định nghĩa về NTD là các cá nhân mua hàng hóa, dịch vụ không nhằm mục
đích hoạt động kinh doanh, thương mại hoặc hoạt động nghề nghiệp chuyên nghiệp.Vậy để
xác định một chủ thể có phải là NTD để được bồi thường thiệt hại khi bị xâm phạm quyền lợi
chính đáng hay không thì pháp luật thường dựa vào các điều kiện sau:
Đối tượng của giao dịch phải là những hàng hóa, dịch vụ được phép lưu thông và đáp
ứng được các nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của cá nhân con người. Đây là một điều
kiện, thật ra, rất khó xác định bởi nhu cầu sinh hoạt của con người trong điều kiện hiện nay
rất đa dạng. Những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu hằng ngày của con người như đồ ăn, thức uống,
thuốc chữa bệnh, đồ dùng học tập,…được coi là đối tượng đương nhiên của NTD. Khi đó, các
quy định của pháp luật BVQLNTD liên quan đến vệ sinh, an toàn đối với sức khỏe con người
được áp dụng, kể cả đối với trường hợp hàng hóa chưa được bán cho NTD. Trong những
trường hợp khác, cần phải kết hợp với mục đích của việc mua hàng hóa, dịch vụ đó dùng vào
việc gì.(17)

(17) Trang 23, 24 Giáo trình Luật BVQLNTD, NXB chính trị quốc gia-Sự thật Hà Nội 2012

23


NTD phải là cá nhân. Việc quy định này, giúp những NTD yếu thế trong quan hệ với
nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Nhìn chung, nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ có hiểu biết tốt
hơn về hàng hóa, dịch vụ của mình hơn so với NTD. Khi tìm hiểu về sản phẩm, khả năng tiếp
cận và tiếp nhận thông tin tham vấn của cá nhân đơn lẻ là hạn chế hơn nhiều đối với một tổ
chức. Nói cách khác, trong việc tự bảo vệ quyền của mình, năng lực của một tổ chức thường
tốt hơn các cá nhân rất nhiều.
Tuy nhiên, việc “tiêu dùng” hay “sinh hoạt” của một tổ chức cũng là một điều rất khó
xác định; đồng thời khó có thể coi việc “tiêu dùng” hay “sinh hoạt” của tổ chức là không vì
hoạt động chức năng hoặc nghề nghiệp của tổ chức đó. Ví dụ: một công ty mua nước uống
không phải để “cơ quan uống” mà là để những con người cụ thể trong công ty uống. Vì vậy,

tổ chức không thể được xem là NTD. Giao dịch phát sinh sẽ được các văn bản pháp luật liên
quan đến hợp đồng bảo vệ, mặc dù đối tượng giao dịch là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng. Trong
ví dụ nêu trên, nếu nhân viên uống nước bị thiệt hại thì có thể kiện nhà cung cấp nước với tư
cách là NTD; còn cơ quan, tổ chức đã mua thì chỉ được kiện nhà cung cấp với tư cách là người
mua hàng trong quan hệ hợp đồng thông thường và có thể trở thành đại diện của NTD.(18)
Việc mua hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cho cá nhân, hộ gia
đình. Mục đích tiêu dùng, sinh hoạt ở đây được hiểu là để phục vụ cho nhu cầu của cá nhân
hay hộ gia đình chứ không phải để bán lại. Cần lưu ý rằng, NTD có thể là người không có
quan hệ trực tiếp với nhà cung cấp. Họ có thể được người khác mua tặng, cho, cấp phát. Ví
dụ, mẹ mua bánh về cho con, đứa con không tham gia giao dịch mua bán nhưng nó vẫn là
NTD.(19)
Tóm lại, chủ thể của quan hệ pháp luật về TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD bao
gồm chủ thể chịu TN BTTH (cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng hóa dịch vụ) trong việc cung
cấp hàng hóa, dịch vụ không đảm bảo chất lượng hoặc không cung cấp đầy đủ các thông tin
cần thiết về việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ đó cho NTD dẫn đến thiệt hại cho NTD và chủ
thể được bồi thường thiệt hại (NTD).

(18), (19) Trang 24, 25 Giáo trình Luật BVQLNTD, NXB chính trị quốc gia-Sự thật Hà Nội 2012

24


1.4.2. Nội dung của quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
của NTD
Nội dung quan hệ pháp luật về TN BTTH do vi phạm quyền lợi NTD là quyền, nghĩa
vụ và trách nhiệm pháp lý của các bên khi tham gia vào quan hệ pháp luật này. Đối với NTD
là nói đến quyền được bồi thường thiệt hại, còn nói đến các cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ là nói đến TN BTTH cho NTD.
Trước hết, nói đến quyền được bồi thường thiệt hại của NTD. Cũng như ta đã biết,
NTD có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Để phát triển kinh tế bền vững, bất kì nhà

nước nào cũng đều phải quan tâm bảo vệ các thành tố thị trường mà NTD là nhân vật trong
tâm. NTD là đối tượng mà các nhà sản xuất, kinh doanh hướng tới. Bởi vậy, bên cạnh việc
một khung pháp lý để quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức thực hiện
hoạt động sản xuất, kinh doanh thì nhà nước đã xây dựng một khung pháp lý để bảo vệ quyền
lợi của NTD.
Tuy nhiên, cũng không ít trường hợp các nhà sản xuất, kinh doanh lợi dụng sự quản lý
chưa chặc chẽ của nhà nước cùng sự kém hiểu biết của NTD đã có những hành vi vi phạm
pháp luật và xâm hại đến quyền lợi của NTD. Do đó, cần có hành lang pháp lý để bảo vệ
quyền lợi của NTD và khi quyền lợi của họ bị xâm phạm thì cần có cơ chế để khắc phục hậu
quả đó chính là sự bồi thường thiệt hại. Theo như quy định của Luật BVQLNTD thì tại khoản
6 Điều 8 về quyền của NTD có quy định: “Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ
không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá
cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm
yết, quảng cáo hoặc cam kết.”
Nói đến TN BTTH cho NTD của các cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Đây là mối quan hệ đối nhân- bởi sự tương ứng với quyền được bồi thường thiệt hại của NTD
là TN BTTH của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ có hành vi vi phạm pháp luật
gây thiệt hại cho NTD. Đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có hành vi
vi phạm pháp luật và gây thiệt hại thì mức bồi thường còn tùy vào mức độ lỗi, tính nguy hiểm
của hành vi đến quyền và lợi ích hợp pháp tới NTD. Tuy nhiên, trong Nghị quyết số 03/2006
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có quy định: “đối với trường hợp pháp luật có quy

25


×