Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 90 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non (GDMN) là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo
dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, nhận thức, tình
cảm xã hội và thẩm mỹ cho trẻ em. Những kỹ năng mà trẻ được tiếp thu qua
chương trình chăm sóc giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho việc học tập và
thành công sau này của trẻ.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng
nhất của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và
vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em.
Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện
bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành
vi văn hoá.
Usinsky từng nói: Từ là một đơn vị ngôn ngữ không thể thiếu trong
tạo lập lời nói để giao tiếp của trẻ.
“Tất cả mọi hiểu biết đều bắt đầu từ ngôn ngữ, thông qua ngôn ngữ và
trở lại với ngôn ngữ” và “Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển trí tuệ
và là kho tàng mọi tri thức”. (Usinsky)
Bởi vậy giáo dục ngôn ngữ cho trẻ là vô cùng cần thiết và phải bắt đầu
ngay từ rất sớm từ tuổi mầm non (0 – 6 tuổi) đặc biệt là từ 2 – 5 tuổi, lứa tuổi
này ngôn ngữ trẻ có điều kiện phát triển cực kỳ nhanh về tất cả các mặt: ngữ
âm, từ vụng và ngữ pháp mà không giai đoạn nào có thể sánh bằng. Nếu nhà
giáo dục bỏ qua giai đoạn phát cảm trong ngôn ngữ này sẽ là thiệt thòi lớn
cho sự phát triển của đứa trẻ, trẻ sẽ khó theo kịp sự phát triển của các bạn
cùng lứa tuổi. E. I. Tikhêêva cho rằng phát triển ngôn ngữ cho trẻ là khâu chủ
yếu của hoạt động trong trường mẫu giáo, là tiền đề cho mọi sự thành công
khác.

1



Mặt khác khi hết tuổi Mẫu giáo trẻ sẽ chuyển sang trường Tiểu học,
đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của trẻ 6 tuổi vì trẻ phải chuyển
qua một lối sống mới với sự thay thế của hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang
học tập. Đồng thời trẻ cũng chuyển qua một vị trí xã hội mới với những quan
hệ mới của một người học sinh thực thụ. Sự thay đổi đó đòi hỏi trẻ phải có
những điều kiện tâm lý cần thiết đủ để trẻ có thể thích nghi bước đầu với các
điều kiện học tập có hệ thống ở phổ thông. Một trong những điều kiện tâm lý
hết sức quan trọng thoả mãn đòi hỏi mới là ngôn ngữ của trẻ. Khi trẻ sử dụng
thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng ngày: phát âm chuẩn; vốn từ
phong phú, đa dạng; câu nói hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp là trẻ có một công
cụ để tư duy trừu tượng, có một phương tiện cơ bản để lĩnh hội kiến thức
khoa học của các môn học, đặc biệt là môn Tiếng Việt – môn học được xem
là cơ bản nhất và khó khăn nhất đối với học sinh lớp 1 và trẻ còn có cả phương
tiện hữu hiệu để tiếp xúc thuận lợi với môi trường mới, quan hệ mới.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 5 – 6 tuổi nói riêng, trẻ rất nhạy
cảm với nghệ thuật ngôn từ: âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, đồng
dao, ca dao, dân ca sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ; những câu chuyện cổ tích,
thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. Chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với văn học
thông qua hoạt động kể chuyện là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt
nhất, hiệu quả nhất; đồng thời giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc tưởng
tượng sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Thông qua hoạt động
kể chuyện, ngôn ngữ của trẻ được rèn luyện, phát triển, trẻ phát âm rõ ràng
mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ được học cách trình bày ý kiến, suy nghĩ,
kể về một sự vật hay sự kiện nào đó một cách mạch lạc thông qua vốn từ của
trẻ.
Có nhiều phương pháp, phương tiện để trau dồi vốn từ cho trẻ và kể
chuyện là một biện pháp được sử dụng rất phổ biến ở trường mầm non, nếu
xác định rõ ảnh hưởng của hoạt động kể chuyện đến sự phát triển ngôn ngữ
nói chung và vốn từ của trẻ, ta có thể sử dụng hoạt động kể chuyện như một
2



phương tiện hiệu quả nhằm phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo (MG) 5 – 6
tuổi.
Xuất phát những lí do trên, đề tài “Biện pháp phát triển vốn từ cho
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện” được nhóm lựa
chọn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng phát triển vốn từ của trẻ MG 5 – 6 tuổi trong
hoạt động kể chuyện; xác định các yếu tố ảnh hưởng, từ đó đề xuất một số
biện pháp nâng cao vốn từ cho trẻ và tổ chức thực nghiệm.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng ảnh hưởng của
hoạt động kể chuyện tới sự phát triển vốn từ cho trẻ MG 5 – 6 tuổi ở một số
trường mầm non thuộc Tp.HCM.
3.1.

Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp sử dụng hoạt động kể chuyện (HĐKC) phát triển vốn từ cho

trẻ MG 5 – 6 tuổi.
3.2.

Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ MG 5 – 6 tuổi.

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1 Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu để hệ thống các vấn đề lý luận làm cơ sở
lý luận cho đề tài, thực trạng tổ chức một số biện pháp ảnh hưởng của hoạt

động kể chuyện tới sự phát triển vốn từ cho trẻ MG 5 – 6 tuổi ở một số trường
mầm non thuộc Tp.HCM, từ đó đề xuất biện pháp nhằm phát triển vốn từ cho
trẻ.
4.2 Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
- 30 trẻ MG 5 – 6 tuổi ở trường mầm non thuộc quận 1 (trung tâm).
- 30 trẻ MG 5 – 6 tuổi ở trường mầm non thuộc quận Tân Bình (ven nội).
3


- 30 trẻ MG 5 – 6 tuổi ở trường mầm non thuộc huyện Hóc Môn (ngoại
thành).
- 50 giáo viên mầm non (GVMN) đang trực tiếp chăm sóc – giáo dục trẻ
MG 5 – 6 tuổi ở một số trường mầm non tại trung tâm, ven nội và ngoại thành
Tp. Hồ Chí Minh.
4.3 Giới hạn thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ tháng 7/2016 đến tháng 04/2017.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu, hệ thống hóa các vấn đề lí luận về hoạt động giáo dục vốn
từ cho trẻ MG 5-6 tuổi và ảnh hưởng của HĐKC cho trẻ MG 5 – 6 tuổi ở
trường mầm non.
5.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân phát triển vốn
từ của trẻ MG 5 – 6 tuổi ở trong HĐKC ở một số trường mầm non thuộc
Tp.HCM.
5.3. Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ MG
5 – 6 tuổi thông qua HĐKC ở trường mầm non.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Vốn từ của trẻ MG 5-6 tuổi trong HĐKC ở một số trường mầm non còn hạn
chế, có thể do một số nguyên nhân sau:
- Trình độ nhận thức, vốn hiểu biết, kinh nghiệm của trẻ còn hạn chế.
- Giáo viên ít tổ chức hoạt động để cung cấp vốn từ cho trẻ.

- Giáo viên chưa tạo điều kiện để trẻ phát huy tính sáng tạo trong khi kể
chuyện.
- Giáo viên thường xuyên cung cấp cho trẻ vốn sống và ấn tượng cảm
xúc.
- Đồ dùng trực quan chưa đa dạng phong phú, thẩm mỹ chưa đạt, giá trị
sử dụng chưa cao. Đặc biệt là đồ dùng cho trẻ hoạt động còn rất ít.
Nếu GVMN vận dụng tốt một trong số các biện pháp sau vào hoạt động kể
chuyện thì sẽ giúp trẻ nâng cao số lượng – chất lượng vốn từ:
4


- Sưu tầm tổng hợp các thể loại truyện có tác dụng phát triển vốn từ cho
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi đàm thoại.
- Kể chuyện theo tranh kết hợp trên nền âm nhạc phù hợp.
- Sử dụng phương tiện trực quan “Rối bóng”.
- Diễn xuôi câu chuyện theo giai điệu bài hát quen thuộc.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận.
Phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến đề tài, xây dựng cơ sở lý
luận của đề tài.
7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
7.2.1. Phương pháp quan sát
a. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng vốn từ của trẻ MG 5 – 6 tuổi trong HĐKC và
những biện pháp tổ chức HĐKC của GVMN nhằm phát triển vốn từ cho trẻ
MG 5 – 6 tuổi.
b. Đối tượng nghiên cứu
Trẻ MG 5 – 6 tuổi và GVMN dạy trẻ lớp Lá (5 – 6 tuổi).
c. Cách thực hiện

Quan sát, ghi nhận các mẫu lời nói của trẻ MG 5 – 6 tuổi, cách thức tổ
chức HĐKC của GVMN.
7.2.2. Phương pháp sử dụng bài tập
a. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng vốn từ của trẻ MG 5 – 6 tuổi.
b. Đối tượng nghiên cứu
Trẻ MG 5 – 6 tuổi.
c. Cách thực hiện
Sử dụng các bài tập, quan sát trẻ thực hiện các bài tập ngôn ngữ, ghi
nhận kết quả.
5


7.2.3. Phương pháp phỏng vấn
a. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng vốn từ của trẻ MG 5 – 6 tuổi.
b. Đối tượng nghiên cứu
Trẻ MG 5 – 6 tuổi.
c. Cách thực hiện
Trò chuyện, phỏng vấn trẻ nhằm tìm hiểu lời nói của trẻ.
7.2.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
a. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nhận thức và biện pháp GVMN sử dụng nhằm phát triển vốn
từ cho trẻ MG 5 – 6 tuổi thông qua HĐKC.
b. Đối tượng nghiên cứu
GVMN, cán bộ quản lý trường MN.
c. Cách thực hiện
Soạn mẫu phiếu điều tra (sử dụng câu hỏi mở và đóng) phù hợp đối
tượng cần khảo sát, nội dung cần tìm hiểu. Yêu cầu người được hỏi điền vào
phiếu.

7.2.5. Phương pháp thống kê toán học.
a. Mục đích nghiên cứu
Xử lý số liệu thu thập được, đánh giá độ tin cậy – tính tương quan.
b. Cách thực hiện
Sử dụng phần mềm Excel để tính toán xử lý các số liệu sau khi thu
thập được từ việc nghiên cứu thực trạng và thử nghiệm một số biện pháp của
đề tài. Các thuật toán thống kê xử lý và phân tích các số liệu nghiên cứu: Tỉ
lệ %, giá trị trung bình.

6


8. Dự kiến cấu trúc
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
5. Nhiện vụ nghiên cứu.
6. Giả thuyết nghiên cứu.
7. Phương pháp nghiên cứu.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: Cơ sở lý luận về biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 5 –
6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện.
Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động kể chuyện nhằm phát triển vốn từ
cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường mầm non.
Chương 3: Biện pháp tổ chức hoạt động kể chuyện nhằm phát triển vốn từ
cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường mầm non.

7



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI THÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG KỂ CHUYỆN ĐẾN
1.1.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Loài người ngay từ thuở sơ khai đã sáng tạo ra ngôn ngữ, một hệ

thống tín hiệu đặc biệt dùng làm phương tiện cơ bản và quan trọng nhất
trong giao tiếp giữa các thành viên trong cộng đồng người. Cũng từ ngôn
ngữ được phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Ngôn ngữ
chính là một trong những yếu tố nâng tầm cao của con người lên vượt xa
về chất so với mọi giống loài.
Ngôn ngữ là chức năng tâm lý cấp cao của con người, là công cụ để
tư duy, để giao tiếp, là chìa khóa để con người nhận thức và chiếm lĩnh
kho tàng tri thức của dân tộc và nhân loại.
Với mỗi cá nhân, sự phát triển ngôn ngữ diễn ra cực kỳ nhanh ở giai
đoạn từ 0 – 6 tuổi (lứa tuổi mầm non). Từ chỗ sinh ra chưa có ngôn ngữ,
đến cuối 6 tuổi – chỉ một khoảng thời gian rất ngắn so với cả một đời người
– trẻ đã có thể sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng ngày.
Đây chính là giai đoạn phát cảm về ngôn ngữ. Ở giai đoạn này nếu không
có những điểu kiện thuận lợi cho sự phát triển ngôn ngữ thì sau này khó
có thể phát triển tốt được. Chính vì vậy ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ
của trẻ trước tuổi học là vấn đề được nhiều nhà khoa học trên thế giới và
trong nước quan tâm nghiên cứu.
Vấn đề ngôn ngữ đã được đề cập đến ngay từ thời cổ đại. Nhưng
thời cổ đại người ta nghiên cứu ngôn ngữ không tách khỏi triết học và lôgic

học. Các nhà triết học cổ đại đã coi ngôn ngữ như là một hình thức biểu
hiện bề ngoài của các bên trong là “logos”, tinh thần, trí tuệ của con người.
Trong cuốn “Bàn về phương pháp”, Descartes đã chỉ ra những đặc tính
8


chủ yếu của ngôn ngữ và lấy đó làm tiêu chí phân biệt con người, khác với
động vật. Ông nhấn mạnh tính chất của ngôn ngữ, cái tín hiệu duy nhất ấy
chắc chắn là của một tư duy tiềm tàng trong cơ thể và kết luận rằng:
“Có thể lấy ngôn ngữ làm chỗ khác nhau thực sự giữa con người và
con vật” [20].
Chỉ đến giữa thế kỷ 19 khuynh hướng tâm lý học mới nảy sinh trong
ngôn ngữ học. Ngưởi đầu tiên sáng lập ra trường phái ngôn ngữ học tâm
lý Shteintal (1823 – 1899). Ông đã đưa ra học thuyết ngôn ngữ là sự hoạt
động của cá nhân và sự phản ánh tâm lý dân tộc. Theo ông, ngôn ngữ học
phải dựa vào tâm lý cá nhân trong khi nghiên cứu ngôn ngữ cá nhân, phải
dựa vào tâm lý dân tộc trong khi nghiên cứu ngôn ngữ của dân tộc [20].
Thuyết tâm lý liên tưởng – đại biểu là V.Vunt (1832 – 1920) –
nghiên cứu lý thuyết về dạng thức bên trong của từ, về các loại ý nghĩa
chuyển đổi của từ, về nghĩa hiện có của từ và câu, về mối quan hệ liên
tưởng có tính ngữ đoạn.
Sau cách mạng tháng Mười Nga 1917, các nhà ngôn ngữ học, tâm
lý học Xô Viết đã vận dụng quan điểm của Mác – Lênin vào hoạt động
nghiên cứu ngôn ngữ đó là: xem xét ngôn ngữ với tư cách là một hiện
tượng xã hội. Ngôn ngữ thể hiện các mối quan hệ giữa con người với con
người được quy định bởi những điều kiện cụ thể của thời ký lịch sử nhất
định. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy và là phương tiện giao
tiếp chủ yếu của con người. Với quan điểm này có thể kể đến: L.X.
Vưgôtxki; R.O. Shor; E.D. Polivanov; K.N. Derzhavin; B.A. Larin; M.V.
Sergievskij; M.N. Peterson; L.J. JaKubinskij; A.M. Selishchev… Họ đã đi

vào nghiên cứu tính chất xã hội của ngôn ngữ, về mối quan hệ giữa ngôn
ngữ và tư duy, sự phụ thuộc qua lại giữa các thuộc tính của ngôn ngữ…
L.X. Vưgotxki trong cuốn: “Tư duy và ngôn ngữ” đã lập luận rằng hoạt
động tinh thần của con người chính là kết quả học tập mang tính xã hội
chứ không phải là một học tập chỉ là cá thể. Theo ông, khi trẻ em gặp phải
9


những khó khăn trong cuộc sống, trẻ tham gia vào hợp tác của người lớn
và bạn bè có năng lực cao hơn, những người này giúp đỡ trẻ và khuyến
khích trẻ. Trong mối quan hệ hợp tác này, quá trình tư duy trong một xã
hội nhất định được chuyển giao sang trẻ. Do ngôn ngữ là phương thức đầu
tiên mà qua đó, con người trao đổi các giá trị xã hội, L.X. Vưgotxki coi
ngôn ngữ là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của tư duy [18].
Việc nghiên cứu ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi mầm non (0 – 6 tuổi)
cũng được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm và tiếp cận sâu
ở từng góc độ khác nhau trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới
Ngôn ngữ là tài sản quý báu của văn minh nhân loại. Ngôn ngữ là điểm
mốc then chốt giúp cho nhiều công trình nghiên cứu được tỏa sáng. Không
những vậy ngôn ngữ có sức hút mạnh mẽ, lôi cuốn sự tham gia nghiên cứu
của rất nhiều nhà khoa học, từ những lĩnh vực khác nhau: Triết học, tâm lí
học, ngôn ngữ học, giáo dục học, xã hội học,…Vai trò phát triển ngôn ngữ
cho trẻ từ lâu được các nhà khoa học ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Có
thể kể đến các tác giả như:
A.M. Borodis với cuốn: Phương pháp phát triển tiếng cho trẻ em
(NXBGD Matxcơva – 1974).
Xôkhin với tác phẩm: Phương pháp phát triển lời nói trẻ em (NXBGD
Matxcơva – 1979).
E.I.Tikhêêva với tác phẩm: Phát triển ngôn ngữ trẻ em (NXBGD –

1997).
Các tác giả: L.P.Phedorenco, G.A.Phomitreva, V.K.Lomarep cũng có
những cuốn sách tương tự.
Tác giả E.I.Tikhêêva đã đề ra phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
một cách hệ thống, trong đó bà nhấn mạnh cần dựa trên cơ sở tổ chức cho trẻ
tìm hiểu thế giới thiên nhiên xung quanh trẻ, dạo chơi, xem tranh, kể chuyện
cho trẻ nghe… Bà đưa ra các biện pháp cụ thể để phát triển ngôn ngữ nói cho
10


trẻ mẫu giáo như: nói chuyện với các em, giao nhiệm vụ cho các em, đàm
thoại, kể chuyện, đọc truyện, thư từ, học thuộc lòng thơ ca. Những tư tưởng
này đến nay vẫn còn nguyên giá trị đối với việc giáo dục phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mầm non [10].
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trong nước
Vốn từ, khả năng hiểu từ, ngữ pháp… của trẻ ở các độ tuổi khác
nhau có các công trình nghiên cứu của Dương Diệu Hoa (1985), Nguyễn
Minh Huệ (1989), Hồ Minh Tâm (1989) v.v… Chẳng hạn Lưu Thị Lan
(1996) trong công trình nghiên cứu Những bước phát triển ngôn ngữ trẻ
em 1 – 6 tuổi [19] đã chỉ rõ các bước phát triển về ngữ âm của trẻ em Việt
Nam bắt đầu từ giai đoạn tiền ngôn ngữ (0 – 1 tuổi) giai đoạn ngôn ngữ (1
– 6 tuổi), về mặt ngữ âm có những bước tiến dài đặc biệt là giai đoạn 4 –
6 tuổi. Các bước phát triển về từ vựng được tác giả thống kê từng lứa tuổi
với số lượng từ tối thiểu và số lượng từ tối đa. Từ 18 tháng tuổi trở đi trẻ
có sự nhảy vọt về số lượng từ và yếu tố văn hóa, xã hội ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển vốn từ của trẻ. Các bước phát triển về ngữ pháp trong
ngôn ngữ của trẻ em Việt Nam được tác giả nghiên cứu rất cụ thể từng lứa
tuổi với loại câu đơn, câu phức, các loại câu phức như câu phức chính phụ,
câu phức đẳng lập. Câu phức chính phụ xuất hiện muộn và có số lượng ít
hơn.

Tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn Phương pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo đã đưa ra một số biện pháp hướng dẫn trẻ kể
chuyện nhằm phát triển lời nói độc thoại cho trẻ gồm: kể lại chuyện, kể
chuyện theo tri giác, kể chuyện theo trí nhớ và kể chuyện theo tưởng tượng.
Tác giả Lưu Thị Lan đề cập đến biện pháp phát triển ngôn ngữ đối
với trẻ 4 – 6 tuổi, theo tác giả để phát triển vốn từ cần tổ chức cho trẻ quan
sát sự vật hiện tượng và đàm thoại, cùng với trẻ phân tích sự vật hiện tượng
để giúp trẻ nhận thức mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng. Cho trẻ nghe
thơ, truyện, chơi một số trò chơi như đoán vật qua tiếng kêu, kể tên các
11


con vật em biết, trò chơi nối từ, nói từ tiếp theo, chơi đóng vai theo chủ
đề, kể chuyện theo tranh… [17]. Tác giả cũng đã nêu các biện pháp sửa
ngọng cho trẻ rất đơn giản chỉ cần luyện tập một số buổi là trẻ có thể nhận
thức được cách phát âm đúng, cần căn cứ vào thời gian ngọng để định hình
lại cách phát âm chuẩn đòi hỏi ngắn hay dài và sự có mặt của cha mẹ trẻ
trong các buổi tập là cần thiết để từ đó họ có thể hướng dẫn cho trẻ luyện
tập phát âm khi trẻ ở nhà.
Riêng vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi 5 – 6 tuổi
cũng có một số công trình như:
+ Công trình nghiên cứu của Nguyễn Xuân Thức về khả năng hiểu
từ của trẻ 5 – 6 tuổi.
+ Luận án Tiến sĩ giáo dục học của Nguyễn Thị Oanh (2000) Các
biện pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi.
+ Luận án Tiến sĩ của Hồ Lam Hồng (2002) về Một số đặc điểm tâm
lý trong hoạt động ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi qua hình thức kể
chuyện.
+ Luận văn Thạc sĩ Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo lớn kể chuyện
về sinh hoạt nhằm phát triển lời nói mạch lạc của Hoàng Thị Thu Hương;

Một số biện pháp dạy trẻ kể chuyện theo chủ đề nhằm phát triển lời nói
mạch lạc cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh của
Huỳnh Ái Hồng; Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ
5 – 6 tuổi thông qua kể chuyện sáng tạo của Hoàng Thị Hồng Mát (2002).
Các bài viết trong các tạp chí Nghiên cứu Giáo dục cũng quan tâm
nhiều đến ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi nhưng chủ yếu về vấn đề chuẩn bị
cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi học đọc, học viết ở lớp 1 như bài viết của Lê Thị
Ánh Tuyết; Chuẩn bị cho trẻ Mẫu giáo 5 tuổi học chữ của Nguyễn Phương
Nga; Thực trạng chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ 5 tuổi dân tộc thiểu số vào
học lớp 1 của Trương Thị Kim Oanh, Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện

12


tăng cường Tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi dân tộc thiểu số (K'Ho) ở
Lâm Đồng của Đào Kim Nhung…
Nhìn chung vấn đề ngôn ngữ trẻ em được các nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu ở nhiều mặt, nhiều lứa tuổi khác nhau. Có nghiên cứu về
cấu trúc đặc biệt của ngôn ngữ, có nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng tác
động đến quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ, một số nghiên cứu
khác lại nghiên cứu biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ… Tuy nhiên, ở
Việt Nam các công trình nghiên cứu mới tập trung nhiều vào lứa tuổi nhà
trẻ, ít đi sâu vào nghiên cứu ngôn ngữ của lứa tuổi 5 – 6 tuổi. Trong các
công trình nghiên cứu ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi chủ yếu đi sâu nghiên
cứu vào một mặt của sự phát triẻn ngôn ngữ như hiểu từ hoặc ngôn ngữ
mạch lạc… Trong ngôn ngữ mạch lạc thì lại chủ yếu đi vào nghiên cứu
biện pháp hình thành và phát triển ngôn ngữ mạch lạc.
Ngôn ngữ của trẻ 5 tuổi là một điều kiện hết sức quan trọng để trẻ
tiếp xúc với một trường mới lạ ở phổ thông, giúp trẻ lĩnh hội được những
kiến thức mang tính chất khoa học của các môn ở phổ thông…Vì vậy việc

nghiên cứu về vốn từ lứa tuổi 5 – 6 tuổi là rất cần thiết. Thông qua đó,
chúng ta có thể giúp trẻ có sự phát triển vốn từ một cách đầy đủ, đó cũng
là phương tiện cơ bản nhất, quan trọng nhất để trẻ tiếp thu tri thức không
chỉ môn Tiếng Việt mà còn là tất cả các môn học khác của chương trình
lớp 1.
1.2.

Các khái niệm cơ bản

1.2.1. Khái niệm “Biện pháp”
Theo từ điển Hoàng Phê thì “biện pháp” được hiểu là: Cách làm, cách
giải quyết một vấn đề cụ thể [26].
Theo đại từ điển tiếng việt của Nguyễn Như Ý thì: Biện pháp là cách
làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể: biện pháp đúng đắn,
chưa tìm được biện pháp thích hợp, dùng biện pháp tiến bộ hơn. [37]

13


Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi đồng quan điểm với
Từ điển Hoàng Phê. Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ
thể.
1.2.2. Khái niệm “Phát triển vốn từ”
1.2.2.1. Khái niệm “Vốn từ”
Vốn từ là tập hợp các từ trong một ngôn ngữ mà người đó biết tới vốn
từ thường xuyên tăng theo thời gian, và là công cụ cơ bản và hữu dụng trong
giao tiếp và thu nhận kiến thức.
Vốn từ tích cực và vốn từ thụ động:
- Vốn từ tích cực: là những từ ngữ trẻ hiểu và sử dụng được trong giao
tiếp một cách chủ động linh hoạt, tích cực.

- Vốn từ thụ động: là những từ trẻ mới lĩnh hội trẻ chưa sử dụng chúng
trong giao tiếp, trẻ chưa hiểu rõ nghĩa của từ nên không sử dụng được.
1.2.2.2. Khái niệm “Phát triển”
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự
tăng, giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện
tượng; đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục,
không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách
quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các
nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng
cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
Theo từ điển Hoàng Phê thì “phát triển” được hiểu là: biến đổi hoặc
làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến
phức tạp [26].
1.2.2.3. Khái niệm “Phát triển vốn từ”
Phát triển vốn từ được hiểu như một quá trình lâu dài của việc lĩnh hội
vốn từ mà con người đã lĩnh hội được trong lịch sử. Nó bao gồm hai mặt: tích
lũy số lượng (tăng dần số từ tích cực) và nâng cao chất lượng (lĩnh hội dần
14


dần nội dung xã hội tích luỹ trong từ, nó là sự phản ánh kết quả của nhận
thức) [30].
Tóm lại, dưới góc độ đề tài này chúng tôi xin đưa ra nhận định: Phát
triển vốn từ là giúp trẻ nắm được nhiều từ, hiểu ý nghĩa của từ và biết sử
dụng từ trong các tình huống giao tiếp.
1.2.3. Khái niệm “Hoạt động kể chuyện”
1.2.3.1. Khái niệm “Hoạt động”
Theo từ điển Hoàng Phê thì “hoạt động” được hiểu là: Tiến hành
những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất định

trong đời sống xã hội [26].
Theo chủ biên Nguyễn Quang Uẩn: Hoạt động là mối quan hệ tác động
qua lại giữa con người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía
thế giới và cả về phía con người (chủ thể) [35].
Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi đồng quan điểm với
cả hai cách định nghĩa trên. Như vậy: Hoạt động là sự tác động qua lại giữa
chủ thể và khách thể mà kết quả là khách thể được cải tạo còn chủ thể thì
được hoàn thiện. Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người
và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía con
người (chủ thể). Hay nói cách khác tâm lý của con người nói chung và của
trẻ nói riêng được hình thành trong hoạt động và ngay chính trong hoạt động
của mình.
1.2.3.2. Khái niệm “Kể chuyện”
Kể chuyện là kể lại một chuỗi sự việc có đầu có cuối, liên quan đến
một hay một số nhân vật. Mỗi câu chuyện cần nói lên được một điều có ý
nghĩa.
1.2.3.3. Khái niệm “Hoạt động kể chuyện”
Kể chuyện là sự truyền đạt các sự kiện bằng lời nói, hình ảnh và âm
thanh, thường là do ngẫu hứng. Nó được xem như một phương tiện giải trí,
giáo dục, bảo tồn văn hóa và có giá trị đạo đức. Yếu tố quan trọng của câu
15


chuyện và kể chuyện bao gồm ý tưởng, ngôn ngữvà cách thuyết phục người
nghe [26].
Kể chuyện là hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng ngôn
ngữ. Kể chuyện khởi đầu cho sự tích luỹ tri thức khoa học, kinh nghiệm sống.
Ngôn ngữ ngày càng phát triển, số lượng từ cơ bản tăng lên, đời sống vật chất
và tinh thần trở nên phong phú thì kể chuyện không dừng lại ở mức độ thông
tin mà còn mang trong mình chức năng giải trí hay cao hơn là chức năng nghệ

thuật [29].
Quá trình kể chuyện diễn ra với sự đóng góp của các nhu cầu được thể
hiện, bày tỏ nguyện vọng cũng như các thao tác tư duy, ngôn ngữ để tạo ra
một câu chuyện có nội dung, kết cấu hoàn chỉnh, mạch lạc. Trẻ là người chủ
động trong câu chuyện của mình. Sự chủ động thể hiện rõ rệt từ việc lựa chọn
nội dung, ý tưởng, ngôn ngữ, nhân vật, sự kiện…và sắp xếp chúng thế nào
cho hợp lý. Thông qua câu chuyện kể, tâm tư, tình cảm và sự trải nghiệm của
bản thân về những yếu tố được bộc lộ.
Kể chuyện là một loại “hoạt động lời nói”có sự giao thoa, đan kết giữa
yếu tố tâm lý và ngôn ngữ. Vì thế, kể chuyện được xem như là một hoạt động
phát triển trẻ một cách tích hợp và toàn diện các mặt nhận thức, ngôn ngữ,
tình cảm và tâm vận.
Tóm lại, theo cách hiểu của chúng tôi kể chuyện là một hoạt động,
đó là sự trình bày bằng miệng một cách cặn kẽ, liên kết một hiện tượng nào
đó.
1.3.

Những vấn đề lí luận về biện pháp phát triển vốn từ

1.3.1. Đặc điểm phát triển của trẻ MG 5 – 6 tuổi
1.3.1.1. Đặc điểm tâm – sinh lý có ảnh hưởng đến việc phát triển vốn từ
 Đặc điểm sinh lý của trẻ MG 5 – 6 tuổi
Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là hoàn chỉnh hóa về hình thái cũng
như chức năng của hệ thần kinh. Đồng thời phát triển với nó là phát triển của
hệ cơ nên hoạt động đi lại của trẻ đã làm thay đổi một số hoạt động sinh lý.
16


Đặc điểm ở lứa tuổi này là tốc độ tăng chiều cao và cân nặng giảm,
chiều cao tăng mỗi năm từ 5 – 8cm, cân nặng tăng 2kg/năm.

Tỷ lệ giữa đầu và chiều dài cơ thể đã giảm còn 1/6, lứa tuổi này có đặc
điểm là xương hóa chưa hoàn toàn, các cơ bàn tay phát triển mạnh. Tuy nhiên
sự phát triển của các cơ để thực hiện các chức năng vận động phát triển mạnh
hơn. Chính vì vậy trẻ rất hiếu động chương lực cơ gập lớn hơn cơ duỗi. Cho
nên trẻ không thể ngồi lâu ở một tư thế được, kích thước tim to, mạch máu
phát triển mạnh, thành mạch máu cũng dày hơn vì vậy huyết áp cũng tăng
dần lên theo độ tuổi, phổi phát triển mạnh làm cho nhịp thở sâu hơn, tần số
hô hấp giảm, dung tích sống tăng cụ thể ở trẻ 5 tuổi là: 1100cm3 ở cuối độ
tuổi này bắt đầu có sự thay thế răng sữa bằng răng trưởng thành.
 Đặc điểm tâm lý của trẻ MG 5 – 6 tuổi liên quan đến PTVT
Trẻ có ý thức hơn: Sự tập trung chú ý của trẻ đã bền, lâu hơn nhiều, trẻ
có thể tập trung lắng nghe, lĩnh hội một câu chuyện dài.
+ Tư duy: Khả năng nắm bắt nghĩa từ của trẻ gắn liền với sự phát triển nhận
thức tư duy của trẻ cùng với các hoạt động giao tiếp, đó là quá trình phát triển
liên tục và lâu dài. Ở độ tuổi này tư duy trẻ phát triển mạnh mẽ trẻ có thể thiết
lập nhanh chóng các mối quan hệ giữa các sự kiện, trẻ có thể phân tích tổng
hợp không chỉ dừng ở đồ vật, hình ảnh mà cả từ ngữ.
+ Tưởng tượng: Ở độ tuổi này trí tưởng tượng của trẻ rất phong phú, để hiểu
được nghĩa của từ trẻ có thể tưởng tượng các sự vật thật thông qua từ ngữ mà
trẻ được ghi nhận.
+ Tình cảm xã hội: Trẻ đã có ý thức rõ về ý nghĩa, tình cảm của mình, trách
nhiệm đối với hành vi của mình thông qua câu chuyện mà trẻ được nghe.
+ Xúc cảm tình cảm: Đời sống của trẻ còn rất dễ dao động, trẻ có thể bộc lộ
cảm xúc của mình qua các từ ngữ mà trẻ ghi nhận được.
 Hoàn thiện các cấu trúc tâm lý người
Những cấu trúc tâm lý đặc trưng của con người đã được hình thành
trong các giai đoạn trước tuổi, tiếp tục phát triển mạnh. Cùng với những tác
17



động, các chức năng tâm lý được hoàn thiện về mọi phương diện của hoạt
động tâm lý (nhận thức tình cảm, ý chí) để hình thành việc xây dựng những
cơ sở ban đầu của con người [31].
 Sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hằng ngày
Lứa tuổi mẫu giáo là thời kì bộc lộ tính nhạy cảm cao nhất đối với các
hiện tượng ngôn ngữ, điều đó khiến cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đạt
tốc độ khá nhanh và đến cuối tuổi mẫu giáo thì hầu hết trẻ em điều sử dụng
tương đối thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hằng ngày. Sự hoàn thiện
đó ở trẻ 5 – 6 tuổi theo các hướng sau:
+ Nắm vững ngữ âm ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ: do hoạt động giao
tiếp được mở rộng, tai âm vị được rèn luyện thường xuyên để tiếp nhận các
ngữ âm khi nghe người lớn nói. Mặt khác, các cơ quan phát âm đã trưởng
thành đến mức có thể phát ra những âm thanh tiếng mẹ đẻ tương đối chuẩn.
Trẻ biết điều chỉnh giọng nói và sử dụng ngữ điệu cho phù hợp với nội dung
và hoàn cảnh giao tiếp.
+ Phát triển vốn từ và cơ cấu ngữ pháp: Vốn từ trẻ tích lũy được khá phong
phú cả về số lượng và từ loại. Trẻ có vốn từ và có kĩ năng kết hợp các từ
trong câu theo quy tắc ngữ pháp để có thể diễn đạt được các mặt trong đời
sống. Khả năng ngôn ngữ của trẻ có quan hệ trực tiếp với điều kiện sống và
giáo dục. Ở đây có sự khác biệt về cá nhân thể hiện rõ hơn so với bất kì lĩnh
vực nào khác trong sự phát triển tâm lí của trẻ.
Sự lĩnh hội ngôn ngữ còn được quyết định bởi tính tích cực của bản
thân trẻ em đối với ngôn ngữ. Những trẻ năng giao tiếp có ham muốn tìm
hiểu các hiện tượng ngôn ngữ (tức là ngôn ngữ đã trở thành đối tượng của ý
thức) thì không những hiểu được từ ngữ và nắm vững ngữ pháp mà còn có
khả năng sáng tạo ra những từ ngữ mới, những cách nói so sánh ví von, giàu
hình ảnh. Trong khi sử dụng ngôn ngữ, trẻ đã bắt đầu tìm hiểu nghĩa của từ
và nguồn gốc của nó.

18



+ Sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc: ngôn ngữ mạch lạc thể hiện trình độ phát
triển tương đối cao về khả năng ngôn ngữ và tư duy. Trẻ thoát ly dần khỏi
ngôn ngữ tình huống sang ngôn ngữ ngữ cảnh (không dựa vào tình huống cụ
thể trước mắt). Một kiểu ngôn ngữ khác cũng đang phát triển trong độ tuổi
này đó là kiểu ngôn ngữ giải thích, có tính chặt chẽ và mạch lạc để giải thích
với bạn bè, người lớn những điều cần giải bày và đồng cảm. Kiểu ngôn ngữ
đó còn được gọi là kiểu ngôn ngữ mạch lạc. Ngôn ngữ mạch lạc có ý nghĩa
hết sức quan trọng đối với việc hình thành những mối quan hệ qua lại trong
nhóm trẻ với những người xung quanh, đặc biệt là đối với sự phát triển trí tuệ
của trẻ. Nhìn chung, trẻ trước khi bước vào tuổi học sinh đã có khả năng nắm
được ý nghĩa của từ vựng thông dụng, phát âm gần đúng phát âm của người
lớn, biết dùng ngữ điệu phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp đặc biệt là nắm được
hệ thống ngữ pháp bao gồm những quy luật ngôn ngữ tinh vi nhất về phương
diện cú pháp và về phương diện tu từ, diễn dạt mạch lạc. Tóm lại, trẻ đã thực
sự nắm vững tiếng mẹ đẻ.
Trong phong cách, trẻ 5 – 6 tuổi chủ yếu là nắm vững phong cách sinh
hoạt và ở một mức độ nào đó là phong cách nghệ thuật. Nói đúng hơn, nếu
đứa trẻ được dạy dỗ cẩn thận thì việc nói năng của trẻ tỏ ra có văn hóa, có
nghĩa là trong phong cách ngôn ngữ sinh hoạt có thêm màu sắc của phong
cách nghệ thuật. Điều đó cho thấy, cần phải có một cách dạy dỗ đúng đắn
giúp trẻ có một vốn ngôn ngữ để thích nghi với nhiệm vụ học tập ở trường
phổ thông đồng thời hình thành và rèn luyện văn hóa nói cho trẻ một điều
kiện cần thiết cho trẻ bước vào đời.
 Sự xác định ý thức bản ngã và tính chủ động trong hoạt động
tâm lý
Tiền đề của ý thức bản ngã là việc tách mình ra khỏi người khác đã
được hình thành từ cuối tuổi ấu nhi. Tuy nhiên, phải trải qua một quá trình
phát triển ý thức bản ngã của trẻ mới được xác định rõ ràng. Ý thức bản ngã

hay sự tự ý thức được thể hiện rõ nhất trong sự tự đánh giá về thành công và
19


thất bại của mình, về những ưu điểm và khuyết điểm của mình… Ở trẻ 5 – 6
tuổi, sự tự ý thức còn được biểu hiện rõ trong sự phát triển giới tính của trẻ.
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng, giúp trẻ điều khiển và điểu chỉnh hành
vi của mình cho phù hợp với những chuẩn mực, những qui tắc của xã hội.
Đồng thời còn cho phép trẻ thực hiện các hành động một cách chú tâm hơn,
nhờ đó các quá trình tâm lý mang tính chủ định rõ rệt.
Do sự xác định ý thức của bản ngã được rõ ràng hơn và các quá trình
tâm lí không chủ định chuyển dần sang quá trình tâm lý mang tính chủ định,
làm cho các hành động ý chí của trẻ ngày càng được bộc lộ rõ nét trong hoạt
động vui chơi và trong cuộc sống.
 Xuất hiện kiểu tư duy trực quan mới và những yếu tố của
kiểu tư duy logic
Trẻ 4 – 5 tuổi phát triển mạnh kiểu tư duy trực quan hình ảnh. Kiểu tư
duy này không đáp ứng được nhu cầu nhận thức đang phát triển mạnh ở trẻ
5 – 6 tuổi, đó là động lực để xuất hiện kiểu tư duy mới – tư duy trực quan sơ
đồ. Tư duy trực quan – sơ đồ giúp trẻ một cách có hiệu quả để lĩnh hội những
tri thức ở trình độ khái quát cao, từ đó mà hiểu được bản chất của sự vật. Kiểu
tư duy trực quan – sơ đồ phát triển cao sẽ dần trẻ đến ngưỡng cửa của tư duy
trừu tượng, sẽ cho phép trẻ hiểu những biểu diễn sơ đồ khái quát mà sau này
sự hình thành khái niệm sẽ được tiến hành chủ yếu dựa trên đó. Kiểu tư duy
logic được hình thành và phát triển mạnh ở tuổi học sinh nhưng những yếu
tố của nó đã có thể xuất hiện ở tuổi mẫu giáo, đặc biệt đối với trẻ 5 – 6 tuổi.
1.3.1.2. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ cho trẻ MG 5 – 6 tuổi
 Vốn từ xét về mặt số lượng
Từ 5 – 6 tuổi, vốn từ của trẻ bình quân đến 1.033 từ; tính từ và các loại
từ khác chiếm một tỉ lệ cao hơn. [30]

Tốc độ tăng vốn từ ở các độ khác nhau, chậm dần theo độ tuổi: cuối 5
tuổi so với đầu 5 tuổi vốn từ chỉ tăng 10.40%; cuối 6 so với đầu 6 tuổi vốn từ
cũng chỉ tăng 10.01%.
20


Chúng ta có thể nhận ra quy luật tăng số lượng từ của trẻ như sau:
- Số lượng từ của trẻ tăng theo thời gian.
- Sự tăng có tốc độ không đồng đều, có giai đoạn tăng nhanh, có giai
đoạn tăng chậm.
- Trong năm thứ 3 tốc độ tăng nhanh nhất.
- Từ 3 đến 6 tuổi tốc độ tăng vốn từ giảm dần.
 Vốn từ xét về mặt cơ cấu từ loại
Cơ cấu từ loại trong vốn từ của trẻ là một tiêu chí để đánh giá chất
lượng vốn từ. Tiếng Việt có 9 loại từ: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ,
phó từ, quan hệ từ, định từ, tình thái từ [15].
Số lượng từ loại càng nhiều bao nhiêu thì càng tạo điều kiện cho trẻ
diễn đạt thuận lợi bấy nhiêu. Các loại từ xuất hiện dần dần trong vốn từ của
trẻ. Ban đầu chủ yếu là danh từ, sau đó đến động từ và tính từ; các loại từ
khác xuất hiện muộn hơn.
Giai đoạn 5 – 6 tuổi cũng là giai đoạn hoàn thiện một bước cơ cấu từ
loại trong vốn từ của trẻ. Tỉ lệ danh từ, động từ giảm đi (chỉ còn khoảng 50%)
nhường chỗ cho tính từ và các từ loại khác tăng lên: tính từ đạt tới 15%, quan
hệ từ tăng lến đến 5.7%; còn lại là các loại từ khác.
 Khả năng hiểu nghĩa từ của trẻ MG
Theo Fedorenko (Nga), ở trẻ em có mức độ hiểu nghĩa khái quát của từ như
sau:
- Mức độ zêrô (mức độ không): Mỗi sự vật có tên gọi gắn với nó. Trẻ
hiểu được ý nghĩa gọi tên này: mẹ, bố, bàn, bát,… (nghĩa biểu danh).
- Mức độ 1: Ý nghĩa biểu niệm ở mức thấp, tên gọi chung của các sự

vật cùng loại: búp bê, bóng, cốc, nhà,…
- Mức độ 2: Khái quát hơn: quả (cam, táo, xoài); xe (đạp, máy, ôtô);
con (gà, chó, mèo);…

21


- Mức độ 3: Ở mức độ cao hơn mà trẻ 5 – 6 tuổi có thể nắm được:
phương tiện giao thông: ôtô, tàu thủy, xe máy,…; đồ vật: đồ chơi, đồ nấu bếp,
đồ dùng học tập, …
- Mức độ 4: Khái quát tối đa, gồm những khái niệm trừu tượng: số
lượng, chất lượng, hành động,… (học ở cấp phổ thông).
Đối với trẻ em tuổi mầm non, khi ở tuổi nhà trẻ, trẻ hiểu được nghĩa
biểu danh (mức độ zêrô và 1). Mức độ 2 và 3 chỉ dành cho trẻ mẫu giáo, đặc
biệt là mẫu giáo lớn (chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ cũng đã quan
tâm đến việc cung cấp vốn từ khái niệm cho trẻ mẫu giáo lớn).
 Vốn từ tích cực và thụ động
Trẻ mẫu giáo lĩnh hội vốn từ ngữ chỉ là bước đầu nên không phải tất
cả các từ chúng tiếp nhận và sử dụng được ngay. Có những từ ngữ tích cực,
trẻ hiểu và sử dụng trong giao tiếp được. Loại này có số lượng hạn chế. Loại
vốn từ thụ động bao gồm những từ trẻ mới lĩnh hội. Kinh nghiệm sống và tri
thức còn nghèo nàn nên trẻ chưa hiểu rõ nghĩa của từ nên không sử dụng
được.
- Từ ngữ tích cực: vốn từ bao gồm những từ người ta hiểu và sử dụng
trong giao tiếp được.
- Vốn từ thụ động: Hiểu mà không sử dụng được. Khi nghe người khác
nói, ta hiểu, nhiều khi đoán hết nghĩa của từ nào đó nhưng lại không sử dụng
vào giao tiếp được. Trẻ mẫu giáo có giai đoạn chỉ nghe hiểu mà không nói
được. Tích cực hóa vốn từ (chuyển từ thụ động sang từ tích cực) là một nội
dung quan trọng của giáo dục ngôn ngữ.

 Đặc trưng lĩnh hội vốn từ của trẻ MG
Ở tuổi mầm non, trẻ phải nắm được một vốn từ cần thiết đủ để cho
chúng giao tiếp được với bạn bè, người lớn, tiếp thu các tri thức ban đầu trong
trường mầm non, chuẩn bị học tập ở trường phổ thông, xem các chương trình
truyền hình, truyền thanh… Vì thế, giáo dục học mẫu giáo coi việc hình thành
vốn từ là một nhiệm vụ quan trọng trong nội dung giáo dục trẻ.
22


Phát triển vốn từ được hiểu như một quá trình lâu dài của việc lĩnh hội
vốn từ mà con người đã lĩnh hội được trong lịch sử. Nó bao gồm hai mặt: tích
lũy số lượng (tăng dần số từ tích cực) và nâng cao chất lượng (lĩnh hội dần
dần nội dung xã hội tích lũy trong từ, nó là sự phản ánh kết quả của nhận
thức).
Việc lĩnh hội vốn từ của trẻ mẫu giáo bao gồm các đặc trưng sau:
Thứ nhất: Nhờ có đặc điểm trực quan hành động và trực quan hình
tượng của tư duy nên trước hết trẻ nắm được các tên gọi của sự vật, hiện
tượng, thuộc tính, quan hệ mang tính chất biểu tượng trực quan và phù hợp
với hoạt động của chúng.
Thứ hai: Sự lĩnh hội nghĩa của từ diễn ra dần dần: Thoạt đầu, trẻ chỉ
đối chiếu từ với sự vật cụ thể (không có nghĩa khái quát); sự thâm nhập dần
của trẻ và hiện thực (khám phá ra những thuộc tính, dấu hiệu bản chất, khái
quát theo dấu hiệu nào đó),… Dần dần cùng với sự phát triển tư duy, trẻ mới
nắm được nội dung khái niệm trong từ việc nắm nghĩa từ còn biến đổi trong
suốt tuổi mẫu giáo. (Chẳng hạn: trẻ mẫu giáo lớn không coi cà chua, dưa
chuột là rau; khi mở rộng nghĩa của từ này trẻ lại đưa một số loại quả vào
khái niệm rau với lí do chúng được trồng dưới đất và ăn được).
Thứ ba: Vốn từ của trẻ mẫu giáo có khối lượng nhỏ hơn rất nhiều so
với số lượng vốn từ của người lớn. Vì khối lượng tri thức của chúng còn quá
hạn hẹp. Vì thế, mở rộng vốn từ phải dựa vào sự mở rộng nhận thức cho trẻ.

1.3.2. Nhiệm vụ phát triển vốn từ cho trẻ MG 5 – 6 tuổi trong chương
trình GDMN và Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi
Chương trình GDMN mới biên soạn trên cơ sở quy định của Luật giáo
dục, được Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo kí ban hành theo Thông tư số
17/2009/ Thông tư – Bộ Giáo Dục – Đào Tạo ngày 25/7/ 2009 đã kế thừa
những ưu việt của các Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ trước đây và được
phát triển trên quan điểm đáp ứng sự đa dạng của vùng miền, các đối tượng
trẻ, hướng đến sự phát triển toàn diện cho trẻ.
23


Chương trình GDMN đổi mới, được xây dựng theo hướng tích hợp sẽ
góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ toàn diện trong trường
mầm non hiện nay. Chương trình này được xây dựng dựa trên quan điểm giáo
dục tích hợp theo chủ đề, lấy trẻ làm trung tâm và phát huy tính tích cực tự
giác của trẻ. Theo quan điểm này, nội dung giáo dục nhận thức cho trẻ mầm
non được tích hợp theo các chủ đề, các đề tài cụ thể gắn liền với cuộc sống
thực của trẻ. Nội dung dạy trẻ được xây dựng theo các chủ điểm và thay các
giờ học riêng biệt của từng môn bằng “hoạt động chung”. Trong mỗi kế hoạch
giáo dục hằng ngày giáo viên kết hợp một cách linh hoạt và hợp lý các nội
dung, các hình thức dạy học phù hợp với khả năng của trẻ và điều kiện dạy
học cụ thể ở trường, lớp. Ngoài ra, nội dung giáo dục không chỉ được khai
thác trong hoạt động chung có mục đích học tập ở trên lớp mà còn được lồng
ghép một cách tự nhiên vào hoạt động góc, hoạt động ngoài trời, chế độ sinh
hoạt hằng ngày của trẻ ở trường mầm non. Nhờ vậy, việc phát triển trí tuệ
của trẻ trong đó có các thao tác tư duy cho trẻ nói chung và nâng cao khả
năng sử dụng vốn từ cho trẻ MG 5 – 6 tuổi nói riêng theo hướng đổi mới thực
sự trở nên tích cực hơn, thoải mái, thú vị hơn cho trẻ tránh được sự quá tải,
áp đặt.
Phát triển vốn từ cần kết hợp chặt chẽ với hoạt động nhận thức tích cực

của trẻ: Từ chứa khái niệm. Vì thế việc phát triển vốn từ gắn chặt với quá
trình phát triển tư duy, kết quả của hoạt động nhận thức. Nội dung phát triển
vốn từ của trẻ đã được thể hiện trong hoạt động làm quen với văn học thông
qua hoạt động kể chuyện [21].
Trong chương trình GDMN mới: Nội dung phát triển vốn từ cho trẻ
MG 5 – 6 tuổi được thể hiện trong hoạt động làm quen với văn học thông qua
hoạt động kể chuyện: Hiểu nghĩa từ khái quát; Sử dụng các từ chỉ sự vật, hoạt
động, đặc điểm,… phù hợp với ngữ cảnh. Kể có thay đổi một vài tình tiết
như thay tên nhân vật, thay đổi kết thúc, thêm bớt sự kiện… trong nội dung
truyện [3].
24


Nội dung phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi [30]:
- Dạy trẻ nói được họ tên những người gần gũi, nói đúng địa chỉ gia đình
và trường mầm non.
- Dạy trẻ nói đúng tên gọi, nói những đặc điểm giống và khác nhau của
đồ dùng, đồ chơi trong gia đình, lớp học. Nói đúng được tên gọi, màu sắc,
hình dạng, tính chất, công dụng… của cây, con, rau, hoa, quả gần gũi của
một số ngành nghề, phương tiện giao thông. Sử dụng được từ nói đến đặc
điểm đặc trưng của các mùa, của các hiện tượng tự nhiên và xã hội gần gũi.
- Dạy trẻ nói đúng, sử dụng chính xác những từ chỉ hành động trong
cuộc sống hằng ngày với những mức độ, sắc thái khác nhau như: trườn, lăn,
lê, sắp xếp, dọn dẹp, băm, thái, cưa, gọt…
- Dạy trẻ nói đúng và sử dụng chính xác những từ ngữ tính chất của vật
về màu sắc, từ khác nhau để chỉ kích thước với cấp độ khác nhau như: cao,
cao hơn, cao nhất, cao lênh khênh, cao lêu đêu, thấp, lùn, bé, bé tí, bé xíu, bé
tí tẹo… Những từ chỉ phẩm chất, những từ mang tính chất so sánh như: bé
như cái kẹo, bé như con kiến, trơn tuồn tuột, trơn như đổ mỡ, rắn như đá, nhẹ
như bấc, nặng như chì… Những từ chỉ trạng thái như: nóng như lửa, nóng

bầm bập, lạnh cóng, lạnh buốt, lạnh thấu xương, nhanh như điện, chậm như
rùa, chậm như sên…
- Dạy trẻ phân biệt và sử dụng chính xác các từ chỉ không gian, thời gian
như: nhanh, chậm, chóng, sớm, muộn, gần, xa…
- Dạy trẻ sử dụng các quan hệ từ: thì, mà, là, nhưng, vì, bởi vì, thế mà…
để diễn đạt các mối quan hệ, giải thích nguyên nhân, kết quả của sự việc.
- Dạy trẻ sử dụng những từ mang nghĩa trừu tượng, tượng hình, tượng
thanh.
- Dạy trẻ sử dụng các biện pháp tư từ, đặc biệt là so sánh và nhân hóa.
So sánh ở mức độ đơn giản giữa vật này với vật kia (cái thước này dài hơn
cái thước kia). Dần dần, dạy trẻ so sánh ví von trong mối quan hệ từ với các

25


×