LỜI CÁM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của quý thầy cô, bạn bè, người thân.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân
thành tới Ban Giám Hiệu, các giáo viên cùng các cháu Trường Mầm Non Nam Lý đã
hợp tác và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Ths.Phạm Thị Yến, người đã “truyền
lửa” cho tôi trên con đường nghiên cứu khoa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám Hiệu, Khoa Sư phạm Tiểu học - Mầm non
Trường Đại học Quảng Bình đã động viên, khích lệ tôi không ngừng nổ lực phấn đấu
hoàn thành công việc của một sinh viên.
Cuối cùng, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến bố mẹ, ông bà và
những người thân trong gia đình đã tạo mọi điều kiện tốt nhất cũng như đặt sự kỳ vọng
và tôi.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất
định. Kính mong nhận được ý kiến đóng góp của Hội đồng thẩm định để khóa luận
ngày càng hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Đồng Hới, tháng 05/ 2015
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Hiền
KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
TT CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
1 GD Giáo dục
2 KNS Kĩ năng sống
3 GDKN Giáo dục kĩ năng
4 GDKNS Giáo dục kĩ năng sống
5 GDMN Giáo dục mầm non
6 HĐ Hoạt động
7 KPKH Khám phá khoa học
8 MTXQ Môi trường xung quanh
9 ĐC Đối chứng
10 TN Thử nghiệm
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, làm
nền tảng ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Chính trẻ em hôm nay sẽ là
những nhân tố quan trọng, quyết định đến sự phồn thịnh và văn minh của một quốc gia
sau này. Do đó, việc giáo dục kĩ năng sống (GDKNS) cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là
vô cùng quan trọng.
Xã hội hiện đại luôn vận động và phát triển không ngừng, song song với sự
phát triển đó cuộc sống con người luôn nãy sinh nhiều vấn đề phức tạp, những thách
thức…đòi hỏi mỗi người phải có năng lực để ứng phó và vượt qua. Nếu không có năng
lực, kinh nghiệm và hành động theo cảm tính thì rất dể gặp rủi ro.
Nhằm giúp mỗi cá nhân có thể quyết định, hành động và ứng xử một cách có
hiệu quả, thích nghi được với mọi hoàn cảnh, tránh được những hậu quả xấu, thì việc
tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm…cho mỗi con
người là vô cùng quan trọng và cấp thiết.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, việc GDKNS đã được đưa vào mọi cấp
học từ mầm non, tiểu học, trung học, trung học phổ thông đến đại học. Tuy nhiên,
được đông đảo mọi người quan tâm nhất vẫn là việc GDKNS cho trẻ ở lứa tuổi mầm
non. Bởi việc hình thành kĩ năng sống (KNS) cho trẻ bắt đầu ở giai đoạn 7-8 năm đầu
tiên của cuộc đời con người.
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn biết ngủ, biết học hành là ngoan
Bởi vậy, các em luôn nhận được sự quan tâm, chăm sóc, bảo vệ chu đáo của bố
mẹ, ông bà và mọi người xung quanh và ít khi được va chạm, cọ xát với thực tế. Trong
khi đó, ít ai biết rằng chính sự bao bọc, chở che, quan tâm quá mức đó đã làm cho trẻ
thiếu hiểu biết về thực tế của cuộc sống, thiếu những kĩ năng sống cơ bản, không biết
tự bảo vệ mình, chăm sóc bản thân, từ những việc đơn giản như: chải tóc, đánh răng,
mặc quần áo trẻ cũng hoàn toàn ỉ lại và phụ thuộc vào bố mẹ, cô giáo và những
người xung quanh, gặp những tình huống hết sức đơn giản trẻ củng không tự mình xử
lý được.
Giáo dục kĩ năng sống giúp trẻ được trang bị kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm,
để không bị bở ngỡ khi gia nhập vào xã hội và từ đó giúp trẻ sống thân thiện với mọi
người, đồng thời trẻ có khả năng xử lý các tình huống, hoàn cảnh bất cập trong cuộc
sống, tạo điều kiện giúp trẻ phát triển cân đối và hài hòa hơn.
Trong chương trình giáo dục mầm non (GDMN), nội dung GDKNS đối với lứa
tuổi mẫu giáo, đặc biệt là trẻ 5-6 tuổi, đã được đưa vào theo hướng tích hợp, lồng ghép
các chủ đề, nhằm hướng đến hình thành ở trẻ một số kĩ năng như: Kĩ năng tự phục vụ,
kĩ năng ứng xử, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc nhóm thông qua quá trình này trẻ
được trải nghiệm, khám phá, tiếp cận với thế giới xung quanh theo phương châm “Học
mà chơi, chơi mà học”, góp phần nâng cao hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh,
trên cơ sở đó hình thành cho trẻ ý thức bảo vệ môi trường xung quanh (MTXQ) chính
là cuộc sống của trẻ, ở đó trẻ sống, vui chơi, học tập và lao động. Chính qua hoạt động
này ta có thể giáo dục cho trẻ những KNS một cách khoa học và có hệ thống.
Tuy nhiên,
việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ ở các trường mầm non hiện nay
vẫn chưa được thực sự chú trọng. Nội dung GDKNS chưa đầy đủ, nặng về kiến thức lý
thuyết, chỉ tập trung vào các hoạt động ngoài giờ học như: ăn, vệ sinh…chưa thực sự
chú ý tích hợp vào xây dựng một hoạt động mang tính đặc thù giáo dục kĩ năng sống,
2
đặc biệt là HĐ KPMTXQ (Hoạt động khám phá môi trường xung quanh). Mặt khác,
điều kiện giáo dục kĩ năng sống cho trẻ còn hạn chế, do đó việc tổ chức giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ thông qua HĐ KPMTXQ để góp phần giúp trẻ hình thành được
những kĩ năng sống là việc làm hết sức cần thiết. Xuất phát từ những lý do trên, chúng
tôi chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo
5 - 6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh” làm
hướng nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một số biện pháp nhằm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
thông qua hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Qúa trình giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non
thông qua hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp nhằm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi ở trường mầm non.
4. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm
non, nếu giáo viên sử dụng các biện pháp một cách linh hoạt sáng tạo nhằm tổ chức
các hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh một cách có hiệu quả thì
sẽ phát triển được kĩ năng sống cho trẻ, đáp ứng mục tiêu giáo dục hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các nhiệm vụ sau:
- Xây dựng cơ sở lý luận của việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng của việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh ở trường
mầm non.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học về môi
trường xung quanh ở trường mầm non và thử nghiệm biện pháp phù hợp nhằm nâng
cao kĩ năng sống cho trẻ.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về khách thể nghiên cứu
3
Nghiên cứu trên 60 trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi và 20 giáo viên ở trường Mầm non
Nam Lý, Đồng Hới, Quảng Bình.
6.2. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu việc giáo dục kĩ năng sống của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi và biểu hiện
của các kĩ năng đó thông qua hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh
ở Trường Mầm non Nam Lý, Đồng Hới, Quảng Bình.
6.3. Giới hạn về thời gian nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 12/ 2014 – 05/ 2015.
7. Phương pháp nghiên cứu khoa học
Để nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng phối hợp các nhóm phương pháp sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, phân hóa lý thuyết về vấn đề giáo
dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học về
môi trường xung quanh, để làm cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Sử dụng phương pháp quan sát
- Quan sát biểu hiện bên ngoài của các kĩ năng sống khi trẻ tham gia vào các
hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh.
- Dự giờ, quan sát và đánh giá các kĩ năng mà giáo viên Mầm non cho trẻ
thực hiện.
7.2.2. Phương pháp đàm thoại
- Trao đổi với giáo viên về các hoạt động nhằm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
mẫu giáo trong hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh.
- Trò chuyện với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi qua các hoạt động hàng ngày để tìm hiểu
mức độ giáo dục kĩ năng sống cho trẻ trong các hoạt động giáo dục nói chung và trong
hoạt động khám phá khoa học nói riêng.
7.2.3. Phương pháp điều tra anket
- Nhằm thu thập các thông tin về thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho trẻ trong
hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh ở trường Mầm non, từ đó
đánh giá thực trạng và làm cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu, lựa chọn các biện pháp
để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
7.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
4
- Dự giờ, trao đổi với các giáo viên nhằm thu thập những kinh nghiệm quý báu
của các nhà chuyên môn về các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ để đưa ra kết
luận chính xác và khoa học, rút ra bài học cho bản thân.
7.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
- Nghiên cứu giáo án và giờ dạy của giáo viên nhằm tìm hiểu việc tổ chức giáo
dục kĩ năng sống cho trẻ ở các trường mầm non hiện nay.
- Nghiên cứu các sản phẩm của trẻ (các bài tập, các hạt động khác nhau) nhằm
biết được mức độ hình thành kĩ năng sống của trẻ.
7.2.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Bước đầu thử nghiệm các biện pháp đã lựa chọn, nhằm đánh giá hiệu quả thực
tiễn của các biện pháp đó đối với việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
thông qua hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
- Chúng tôi sử dụng phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học để kiểm
tra độ tin cậy của đề tài.
8. Những đóng góp của đề tài
- Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận về việc giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh.
- Xác định được thực trạng của việc tổ chức giáo dục nhằm hình thành kĩ năng
sống cho trẻ.
- Nghiên cứu và lựa chọn các biện pháp nhằm giáo dục các kĩ năng sống
cho trẻ.
9. Cấu trúc của một khóa luận
Khóa luận gồm có 3 phần:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi thông
qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh
Chương 2: Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt
động khám phá môi trường xung quanh
5
Chương 3: Xây dựng các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi
thông qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh và bước đầu thử nghiệm sư
phạm
Phần 3: Kết luận và kiến nghị
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG
KHÁM PHÁ MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Ở nhiều nước trên thế giới, việc GDKNS được thực hiện bằng sự kết hợp giữa giáo
dục nhà trường và các tổ chức xã hội. Trong nhà trường, GDKNS được coi là nhiệm vụ
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.
- Ở các nước châu Âu:
Tiêu biểu là chương trình giáo dục kĩ năng sống ở Nga:
Ở Nga việc GDKNS cho trẻ được thực hiện thông qua: các trò chơi đóng vai,
hoạt động thực tiễn, hoạt động sáng tạo, lời nói, … nhằm hình thành cho trẻ những kĩ
năng cơ bản như: Kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng tự học, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ
năng giao tiếp ứng xử và tạo lập mối quan hệ…
Vấn đề giáo dục KNS là vấn đề mới trong đào tạo giáo viên mầm non ở Nga,
cho nên việc GDKNS cho trẻ vẫn chưa được chú trọng quan tâm, việc tổ chức các hoạt
động để giáo dục KNS cho trẻ chưa được thường xuyên và còn mang tính chất loa qua,
cách tổ chức các tiết học còn mang tính chất lý thuyết. Phần giáo dục trẻ kĩ năng sống
để ứng xử trong các tình huống, các mối quan hệ, các hoạt động cũng chưa được chú
trọng.
6
- Ở châu Úc: Chương trình GDKNS cho trẻ với hàng loạt các hoạt động mang
tính trải nghiệm và các phương pháp thực hành, giúp học sinh khám phá và phát triển
các kĩ năng: Giao tiếp, tôn trọng, yêu thương, trách nhiệm, hợp tác…
Mục đích của chương trình là: Góp phần giúp cho học sinh nhận biết, hình
thành các giá trị sống căn bản, phổ quát trong mối liên hệ giữa hoài bão cá nhân và ý
tưởng chuẩn mực xã hội. Từ đó, các em có thể đào sâu, xây dựng những phẩm chất,
đức tính tốt của bản thân với việc lựa chọn và phát triển các KNS tích cực, theo những
giá trị cốt lõi, để làm kim chỉ nam cho mọi ứng xử xã hội.
- Ở các nước châu Á:
Singapore: Được đánh giá là một nước có nền kinh tế năng độc bậc nhất của
Châu Á và thế giới. Hàng loạt chương trình giáo dục được xây dựng và tiến hành
giảng dạy ở các trường đại học tổng hợp, đại học bách khoa của các nước này đã được
tiến hành mạnh mẽ, linh hoạt, phù hợp với nhiều đối tượng học sinh. Các bộ môn về
KNS đóng vai trò trung tâm trong chương trình học tập ở các cấp học, với khẩu hiệu
“Sống để học tập, vui chơi, giải trí và học tập để sống”. Các hoạt động giáo dục trong
nhà trường được kết hợp nhuần nhuyễn với các hoạt động cộng đồng. Tuy nhiên, đối
với bậc học mầm non, họ vẫn chưa tìm ra những phương pháp hữu hiệu nhất giúp trẻ
nắm được các KNS. Ngoài ra, họ vẫn còn đang lúng túng có nên đưa GDKNS là một
môn học bắt buộc ở tất cả các cấp học, ngành học không? Vấn đề này vẫn còn đang
bàn cãi.
1.1.2. Ở Việt Nam
Thuật ngữ KNS được người Việt Nam biết đến bắt đầu từ chương trình của
UNICEF (1996) “Giáo dục kĩ năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng chống
HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường”. Quan niệm về KNS được
giới thiệu trong chương trình này chỉ bao gồm những kĩ năng cốt lõi như: Kĩ năng tự
nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng
kiên định, kĩ năng đạt mục tiêu…nhằm vào các chủ đề giáo dục sức khỏe do các
chuyên gia Úc tập huấn. Tham gia chương trình này đầu tiên gồm có ngành giáo dục
và Hội Chữ thập đỏ.
Sang giai đoạn 2, chương trình được mang tên: “Giáo dục sống khỏe mạnh và giáo
dục kĩ năng sống”. Ngoài ngành giáo dục, đối tác tham gia còn có hai tổ chức xã hội chính
trị là Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
7
Nam. Đại diện của các tổ chức này cũng được tập huấn về kĩ năng sống với nội dung như
trên. Trên cơ sở đó quan niệm về kĩ năng sống cơ bản đối với từng nhóm đối tượng được
vận dụng đa dạng hơn.
- Tình hình GDKNS trong hệ thống giáo dục quốc dân:
Theo chuyên viên tâm lý Huỳnh Văn Sơn, cố vấn Trung tâm chăm sóc tinh thần
ý tưởng Việt : “Hiện nay, thuật ngữ KNS được sử dụng phổ biến nhưng có phần bị lạm
dụng khi chính những người huấn luyện hay tổ chức cũng chưa hiểu gì về nó”.
Thực tế, trong hệ thống giáo dục quốc dân, việc GDKNS cho trẻ cũng đang
được quan tâm. Tuy nhiên, trong nhà trường chủ yếu học sinh chỉ được dạy kĩ năng
học tập và chính trị, còn việc GDKNS chưa được quan tâm nhiều. Nhận thức được tầm
quan trọng của các KNS là điều kiện cần thiết để tiến hành bất cứ một hoạt động nào
đó trong xã hội. Tổng hợp từ các nghiên cứu của các nước và thực tế Việt Nam, đã
triển khai GDKNS cho trẻ với các nội dung:
- Giáo dục kĩ năng tư duy sáng tạo
- Kĩ năng giao tiếp có hiệu quả
- Kĩ năng giải quyết vấn đề
- Kĩ năng hợp tác
- Kĩ năng chia sẻ
Các nhà giáo dục từ trước đến nay đã khẳng định: Kĩ năng sống là những kĩ
năng cần có cho hành vi lành mạnh, tích cực cho phép mỗi cá nhân đối mặt với những
thách thức của cuộc sống hàng ngày. Nếu con người có các kĩ năng sống thì sẻ có khả
năng là chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với người khác và với xã hội, khả
năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Do đó, cần thiết phải
GDKNS cho học sinh.
- Tình hình nghiên cứu khoa học về GDKNS cho trẻ lứa tuổi mầm non ở
trong nước:
Việc GDKNS cho trẻ ở các trường mầm non cũng đang được quan tâm, tiêu
biểu có các công trình nghiên cứu như:
- Đề tài “Xây dựng nội dung GDKNS cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi trong trường
mầm non” (Trung tâm nghiên cứu GDMN - Viện KHGD, 1998 - 2000).
- Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho trẻ Mầm non tại trường Mầm non Sao
Mai, Đông Anh, Hà Nội ( Trần Lệ Thùy, năm 2012)
8
- Th.S Mai Hiền Lê đã nghiên cứu “Kĩ năng sống của trẻ lớp mẫu giáo lớn ở
trường mầm non Thực Hành, TP. Hồ Chí Minh” vào năm 2010, nhằm khảo sát thực
trạng kĩ năng sống của trẻ lớp mẫu giáo lớn và xây dựng một số biện pháp tác động sư
phạm, nhằm hình thành và hoàn thiện một số kĩ năng sống phù hợp với trẻ mẫu giáo lớn.
Kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống rất được xã hội quan tâm. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu giáo dục kĩ năng sống cho trẻ trong hoạt động KPKH về MTXQ vẫn
còn đang bỏ ngõ, chưa có nhà nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về nó. Do đó, tôi quyết
định đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh”.
1.2. Những vấn đề chung về giáo dục kĩ năng sống
1.2.1. Các khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Khái niệm “Kĩ năng”
Kĩ năng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu tâm lý học và giáo dục học quan
tâm. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về kĩ năng. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu
nhiều tài liệu khác nhau chúng tôi quy về hai quan điểm chính sau:
+ Quan điểm thứ nhất
Quan điểm thứ nhất xem xét kĩ năng từ gốc độ kỹ thuật của hành động, của thao
tác mà ít quan tâm đến kết quả của hành động.
- V.A. Kruchetxki cho rằng: “Kĩ năng là sự thực hiện một hành động hay một hoạt
động nào đó nhờ sử dụng những kĩ thuật, những phương thức đúng đắn”.
- A.G.Covaliop: “Kĩ năng là phương thức thực hiện hành động thích hợp với
mục đích và điều kiện hành động”. Ở đây ông không đề cập đến kết quả của hành
động. Theo ông kết quả hành động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng
hơn cả là năng lực của con người chứ không đơn giản là cứ nắm vững cách thức hành
động thì đem lại kết quả tương ứng.
- PGS Trần Trọng Thủy cho rằng: “Kĩ năng là mặt kỹ thuật của hành động, con
người nắm được hành động tức là kỹ thuật hành động có kĩ năng”.
- PGS.TS Hà Nhật Thăng cho rằng: “Kĩ năng là kỹ thuật của hành động thể
hiện các thao tác của hành động”.
Như vậy, theo quan điểm này kĩ năng là phương tiện thực hiện hành động phù
hợp với mục đích và điều kiện hành động mà con người đã nắm vững. Theo các tác giả
trên, người có kĩ năng hoạt động nào đó là người nắm được các tri thức về hoạt động
9
đó và thực hiện hành động theo đúng yêu cầu của nó mà không cần tính đến kết quả
của hành động.
+ Quan điểm thứ 2:
Quan điểm xem xét kĩ năng từ gốc độ không đơn thuần chỉ là mặt kỹ thuật của
hành động mà còn là biểu hiện của năng lực của chủ thể hành động và nhấn mạnh đến
kết quả của hành động.
- Các tác giả K.K. Platonop và G.G.Golubev cho rằng: “Kĩ năng là năng lực của
con người thực hiện công việc có kết quả là một chất lượng cần thiết trong những điều
kiện mới và trong những khoảng thời gian tương ứng”.
- Theo TS. Vũ Dũng: “Kĩ năng là năng lực vận dụng có kết quả những tri thức
về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ
tương ứng”.
- Các nhà Tâm lý học Việt Nam như PGS.TS Ngô Công Hoàn, PGS.TS Nguyễn
Thị Ánh Tuyết, GS Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành cho rằng kĩ năng là một
mặt năng lực của con người thực hiện một công việc có hiệu quả.
Như vậy, hai quan điểm này tuy về hình thức diễn đạt có vẻ khác nhau nhưng
thực chất chúng không hoàn toàn mâu thuẫn hay loại trừ lẫn nhau. Dù theo quan điểm
nào thì khi nói đến kĩ năng chúng ta đều phải quán triệt một số điểm sau:
- Mọi kĩ năng đều dựa trên cơ sở tri thức, muốn hành động, muốn thao tác trước
hết phải có kiến thức về nó dù cho tri thức có thể ẩn chứa ở nhiều dạng khác nhau.
- Nói kĩ năng của con người là nói tới hành động có mục đích, tức khi hành
động, thao tác con người luôn hình dung kết quả đạt tới.
- Để có kĩ năng con người cũng phải biết cách thực hiện hành động trong những
điều kiện cụ thể và hành động theo quy trình với sự tập luyện nhất định.
- Kĩ năng liên quan mật thiết đến năng lực của con người. Nó là biểu hiện cụ
thể của năng lực.
Từ phân tích trên kĩ năng có thể hiểu như sau:
Kĩ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động, công việc nào đó trên cơ
sở nắm vững phương thức thực hiện và vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có phù
hợp với những điều kiện. Như vậy, kĩ năng không chỉ đơn thuần là mặt kỹ thuật hành
động mà nó còn là biểu hiện của năng lực cá nhân.
1.2.1.2. Khái niệm “Kĩ năng sống”
10
* Quan niệm về KNS
- Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), KNS là khả năng để có hành vi thích ứng
(adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các
nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.
- Theo Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), KNS là cách tiếp cận giúp thay
đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu
kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng.
- Theo UNESCO, KNS gắn với 4 trụ cột của GD, đó là:
+ Học để biết, gồm các KN tư duy như: Giải quyết vấn đề, tư duy phê phán, ra
quyết định, nhận thức được hậu quả,…
+ Học làm người gồm các KN cá nhân như: Ứng phó với căng thẳng, cảm xúc,
tự nhận thức, tự tin,…
+ Học để sống với người khác, gồm các KN xã hội như; Giao tiếp, thương
lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông…
+ Học để làm, gồm KN thực hiện công việc và các nhiệm vụ như KN đặt mục
tiêu, đảm nhận trách nhiệm,…
* Bản chất của KNS
Bản chất của KNS là kĩ năng tự quản bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá
nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả.
Kĩ năng sống là:
- Khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với
những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của
cuộc sống.
Như vậy, có nhiều quan niệm khác nhau về KNS. Trong nội hàm kết luận này,
trên cơ sở tiếp thu, kế thừa quan điểm của các tác giả trên, chúng tôi tiếp nhận khái
niệm kĩ năng sống như sau:
Kĩ năng sống là tập hợp các kĩ năng mà con người sử dụng để liên lạc và giao
tiếp với những cá nhân khác xung quanh họ, được hình thành và liên tục phát triển
trong môi trường sống trên cơ sở các giá trị và quy định xã hội nhất định.
Nói cách khác đi, kĩ năng sống là cách một cá thể “sống” giữa các cá thể khác:
Cách bạn hành xử, cách bạn nói năng, thậm chí là cách bạn cảm nhận và nhìn nhận về
một sự vật hay hiện tượng diễn ra trong cuộc sống …
11
1.2.1.3. Khái niệm “Giáo dục kĩ năng sống”
Giáo dục “Kĩ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội
hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kĩ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có
thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ biết
xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống .
Một cá nhân nếu có đầy đủ kiến thức trong cuộc sống nhưng lại chưa có kĩ năng
cuộc sống (Bao gồm rất nhiều kĩ năng) và biết sử dụng linh hoạt kĩ năng này thì không
đảm bảo cá nhân đó có thể đưa ra các quyết định hợp lý, giao tiếp có hiệu quả và có
mối quan hệ tốt với mọi người. Kĩ năng sống chính là năng lực tâm lý xã hội để đáp
ứng và đối phó những yêu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
Kĩ năng sống của trẻ bao gồm rất nhiều kĩ năng: Kĩ năng giao tiếp ứng xử, kĩ năng
vệ sinh, kĩ năng thích nghi với môi trường sống, kĩ năng hợp tác chia sẻ…
1.2.2. Phân loại kĩ năng sống
* Theo UNESCO, WHO và UNICEF, có thể xem KNS gồm các kĩ năng cốt lõi sau
:
- Kĩ năng giải quyết vấn đề.
- Kĩ năng suy nghĩ/tư duy phân tích có phê phán.
- Kĩ năng giao tiếp hiệu quả.
- Kĩ năng ra quyết định.
- Kĩ năng tư duy sáng tạo.
- Kĩ năng giao tiếp ứng xử cá nhân.
- Kĩ năng tự nhận thức và tự tin của bản thân, xác định giá trị.
- Kĩ năng thể hiện sự cảm thông.
- Kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc.
* Trong giáo dục ở Anh, KNS được chia thành 6 nhóm chính là:
- Hợp tác nhóm.
- Tự quản.
- Tham gia hiệu quả.
- Suy nghĩ/tư duy bình luận, phê phán.
- Suy nghĩ sáng tạo.
- Nêu vấn đề và giải quyết vấn đề.
* Ở Việt Nam, KNS được chia thành 3 nhóm chính là:
12
- Nhóm các KN nhận biết và sống với chính mình: Tự nhận thức, xác định giá
trị, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin,
- Nhóm các KN nhận biết và sống với người khác: Giao tiếp có hiệu quả, giải
quyết mâu thuẫn, thương lượng, từ chối, bày tỏ sự cảm thông, hợp tác,
- Nhóm các KN ra quyết định một cách có hiệu quả: Tìm kiếm và xử lí thông
tin, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề,
Kĩ năng sống thay đổi theo nền văn hoá và hoàn cảnh xã hội. Vì vậy, trong quá
trình dạy kĩ năng sống, cần xem xét các yếu tố văn hoá và xã hội có ảnh hưởng đến
việc ra quyết định hay lựa chọn hành động. Trong GDKN ở Việt Nam đã đưa ra một
số kĩ năng sống cốt lõi như sau:
- Kĩ năng tự nhận thức
- Tự trọng
- Thể hiện cảm thông
- Có trách nhiệm
- Ứng phó với sự căng thẳng
- Kiểm soát cảm xúc
- Giao tiếp hiệu quả
- Quan hệ của cá nhân với người khác
- Suy nghĩ sáng tạo
- Ra quyết định
- Giải quyết vấn đề
1.2.3. Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non
1.2.3.1. Ý nghĩa của việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non
Kĩ năng sống là cách ứng xử tích cực, cần thiết để có cuộc sống an toàn, khỏe
mạnh và hiệu quả. Giáo dục kĩ năng sống nhằm giúp trẻ nâng cao nhận thức, trang bị
thái độ sống và hành vi tích cực, lành mạnh trong mọi hành động.
Kĩ năng sống cần thiết cho mọi người, đặc biệt là đối với trẻ em. Nó giúp trẻ thể
hiện kiến thức, thái độ và các giá trị, hành vi lành mạnh nhằm giảm thiểu các nguy cơ
có hại cho sức khỏe và cải thiện cuộc sống của mình.
Thông qua việc GDKNS trẻ biết mình là ai, mình muốn gì, có mục đích gì trong
cuộc sống, biết dung hòa giữa cái tôi, cái chúng ta, có những chọn lựa và quyết định
đúng trước những biến cố do cuộc sống đưa đến. Để có năng lực tâm lý xã hội này, trẻ
13
được dạy các kĩ năng như: Ý thức về bản thân, thấu cảm với người khác, suy nghĩ sáng
tạo và có phán đoán, truyền thông và giao tiếp có hiệu quả, giải quyết vấn đề, lấy
quyết định, ứng phó với cảm xúc và stress
Phương pháp giáo dục là đặt trẻ trước những tình huống khó để trẻ giải quyết
theo nhóm thông qua thảo luận, trò chơi, sắm vai, vẽ tranh hay hành động cụ thể. Qua
đó, trẻ học bằng hành và tự quyết định với sự góp ý của nhóm bạn.
1.2.3.2. Mục tiêu giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non
Mục tiêu của giáo dục kĩ năng sống là rèn luyện cách tư duy tích cực, hình thành
thói quen tốt thông qua các hoạt động và bài tập trải nghiệm. Giáo dục kĩ năng sống, giúp
người học có khả năng làm chủ bản thân, ứng xử phù hợp với xung quanh và có khả năng
ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Mục tiêu giáo dục KNS cho trẻ MN là nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc
sống, biết được những điều nên làm, không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết
cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ,
đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và có cuộc sống hài hòa trong
tương lai.
Các nhóm KNS có thể dạy cho trẻ em tuổi mầm non:
- Nhóm kĩ năng chăm sóc bản thân
- Nhóm kĩ năng quản lý cảm xúc
- Nhóm kĩ năng giao tiếp
- Nhóm kĩ năng đảm nhận trách nhiệm
- Nhóm kĩ năng lãnh đạo
1.2.3.3. Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non
Nội dung giáo dục KNS cho trẻ trong chương trình GDMN:
Đơn giản; gần gũi; thiết thực với cuộc sống; tạo cơ hội cho trẻ vận dụng kiến
thức, kĩ năng đã học vào giải quyết các vấn đề của thực tiễn gần gũi với đời sống của
trẻ; tạo hứng thú, sáng tạo và tính tích cực hơn trong các hoạt động cho trẻ.
Trong chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra một số KNS cần giáo dục cho
trẻ như sau:
- Kĩ năng tự phục vụ
- Kĩ năng tuân thủ các quy tắc xã hội
- Kĩ năng tự bảo vệ mình
14
- Kĩ năng ứng xử phù hợp với những người gần gũi xung quanh
- Kĩ năng hợp tác
Kĩ năng sống là một yếu tố quan trọng tác động rất lớn đến hành vi và ý thức
của con người. Vì vậy, việc đẩy mạnh giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non sẽ đóng
vai trò nền tảng trong việc mang lại cho các cháu rất nhiều lợi ích cả về mặt sức khỏe,
giáo dục lẫn văn hóa xã hội. Có kĩ năng sống sẽ giúp các trẻ sớm có một cơ thể cường
tráng, lành mạnh về trí tuệ cũng như thể lực, sớm có ý thức và khả năng thích nghi với
cuộc sống, làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh cho
chính mình cũng như cho cộng đồng.
Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ có thể chú ý đến những nội dung sau:
- Sự hợp tác, tự kiểm tra, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và
giao tiếp.
- Nhận biết các ưu khuyết điểm của bản thân.
- Nhận biết những hoàn cảnh không an toàn, cách giữ an toàn cho mình nơi công
cộng (trong sân trường, công viên, siêu thị, ngoài phố, khi gặp người lạ,…)
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu hình thành
một số kĩ năng sau:
+ Kĩ năng tự phục vụ
+ Kĩ năng tự bảo vệ bản thân
1.2.3.4. Phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non
Giáo dục kĩ năng sống không phải là nói cho trẻ biết thế nào là đúng, thế nào là
sai, cũng không phải là truyền cho trẻ những lời hay ý đẹp mà sáo rỗng. Mà phương
pháp GDKNS cho trẻ mầm non cần phải tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm, tìm
tòi, khám phá môi trường xung quanh dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, đáp
ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ theo phương châm “học mà chơi, chơi mà học”, chú
trọng đổi mới phương pháp giáo dục nhằm kích thích và tạo cơ hội cho trẻ tích cực
khám phá, trải nghiệm và sáng tạo ở các khu vực hoạt động một cách vui vẻ. Cần giúp
trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau. Quyết định phải
tự xuất phát từ nhận thức của trẻ.
* Phương pháp tác động não
Đây là một phương pháp giúp trẻ trong một thời gian ngắn có thể nãy sinh
nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề gì đó.
15
+ Giáo viên đưa ra câu hỏi hoặc vấn đề cần tìm hiểu trước lớp hoặc một nhóm
+ Khích lệ trẻ phát biểu và đưa ra càng nhiều ý kiến càng tốt
+ Liệt kê các ý kiến lên bảng
+ Phân loại ý kiến
+ Tổng hợp các ý kiến
* Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp này nhằm giúp trẻ tham gia một cách chủ động. Tạo cơ hội để trẻ
có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm để giải quyết một vấn đề. Nhờ việc thảo luận
nhóm mà sự hiểu biết của trẻ trở nên sâu sắc và bền vững hơn. Trẻ sẻ nhớ nhanh và lâu
hơn do được giao lưu với các thành viên trong nhóm, không khí thảo luận trong nhóm
sẻ khiến trẻ tự tin, thoải mái hơn và học được cách lắng nghe hoặc trình bày ý kiến của
bản thân một cách tốt hơn.
* Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho trẻ thực hành làm thử một số cách ứng xử
nào đó, trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giúp trẻ suy nghĩ sâu sắc
về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà trẻ quan sát được. Đồng
thời tạo hứng thú cho trẻ, từ đó dẫn đến thay đổi thái độ và hành vi của mình trước một
tình huống nào đó.
+ Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao nhiệm vụ…
+ Các nhóm thảo luận, luyện tập chuẩn bị đóng vai
+ Các nhóm diễn
+ Cả lớp nhận xét, thảo luận.
1.2.3.5. Hình thức giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non
* Thông qua chế độ sinh hoạt hằng ngày
Trong trường mầm non, việc GDKNS cho trẻ được thực hiện thông qua chế độ
sinh hoạt hằng ngày của trẻ như: đón trẻ, thể dục sáng, giờ hoạt động chung, hoạt động
vui chơi, đi dạo, ăn trưa, ngủ trưa, hoạt động chiều trả trẻ…những hoạt động nối tiếp
nhau và được lặp lại hằng ngày. Thông qua hoạt động hằng ngày cô giáo thực hiện
nhiều yêu cầu giáo dục kĩ năng sống cho trẻ, dạy trẻ biết quan tâm, tự tin, tự ý thức,
tôn trọng mọi người xung quanh, giáo dục tinh thần tự lực, tự giác, ý thức kỷ luật, trật
tự trong sinh hoạt, hành vi văn minh, giữ gìn vệ sinh, giáo dục tình thương, quan hệ
16
đoàn kết thân ái với bạn bè, biết yêu mến và tôn trọng người lớn, tinh thần chăm sóc
và giữ gìn của công cũng như của riêng mình.
* Thông qua hoạt động vui chơi
Phương pháp giáo dục mầm non chủ yếu là thông qua các hoạt động vui chơi
cho trẻ. Vui chơi là hoạt động chủ đạo trong các trường lớp mầm non, qua vui chơi
giúp trẻ phát triển, trẻ em tiếp thu rất tốt khi vui chơi. Trẻ em học hỏi, tiếp thu hiểu
biết và các kĩ năng căn bản qua các cuộc chơi và các kinh nghiệm đơn giản hằng ngày.
Việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ không chỉ giúp hình thành khả năng vui đùa
mà còn đặt nền tảng khá vững chắc để phát triển những kĩ năng sống.
Các trò chơi đều có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội kiến thức như: qua trò chơi phân vai
theo chủ đề, khi chúng ta quan sát một trò chơi rất đơn giản mà trẻ em có thể thực hiện như
trò chơi bán hàng, trẻ đã lĩnh hội được những giá trị nhất định khi phân vai cho chính mình.Ví
dụ: Với trò chơi bé đóng vai làm một bác sĩ, một bác sĩ vẻ mặt nghiêm trang, mời bệnh nhân
vào, để ống nghe lên tai, tay cầm ống nghe ấn vào lưng vào ngực bệnh nhân, nói rằng cháu bị
cảm rồi ghi đơn thuốc và đưa ra những lời dặn dò tỏ vẻ rất thuần thục. Các trò chơi với đất
nặn lại giúp cho trẻ phát huy trí tưởng tượng cũng như kĩ năng khéo léo của bàn tay, hay với
các trò chơi vận động, giúp trẻ phát triển thể lực, biết phối hợp sự vận động, tăng cường khả
năng phản xạ, sự nhanh nhẹn. Chính những trò chơi này đã dạy cho trẻ những kĩ năng sống
rất cần thiết và sự tưởng tượng rất phong phú.
* Thông qua hoạt động học
Việc giáo dục kĩ năng sống thông qua hoạt động học tập, được thực hiện thông
qua việc phát triển nhận thức của trẻ, nhằm trau dồi cho trẻ những tri thức cần thiết về
cuộc sống xung quanh, nhờ đó trẻ biết gắn bó với quê hương, biết yêu quý người lao
động, có ý thức bảo vệ thiên nhiên, có những hành vi văn minh, làm giàu vốn tri thức
về cuộc sống của trẻ, thông qua các hình tượng nghệ thuật, giáo dục tình cảm về đất
nước, con người, thiên nhiên, nhờ đó trẻ có thêm những tri thức và những kinh nghiệm
về cuộc sống, phân biệt được các điều tốt và điều xấu… thông qua các hoạt động học
tập trẻ trở nên có ý thức kỷ luật, kĩ năng, biết chủ động tự lực vượt qua những khó
khăn để hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Có rất nhiều hình thức để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ. Tuy nhiên, trong phạm
vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ nghiên cứu hình thành kĩ năng sống cho trẻ
trong hoạt động chủ đích của khám phá môi trường xung quanh.
17
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng GDKNS
Để đảm bảo chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng GDKNS nói riêng cần
phải xem xét các yếu tố sau:
* Yếu tố chủ quan
- Đặc điểm nhân cách trẻ: Trẻ 5-6 tuổi đã hình thành nhân cách, cho nên trẻ có
khả năng khám phá và hiểu được khả năng của mình, hiểu được thái độ của những
người xung quanh, có phản xạ vui, buồn về thành công và thất bại của mình. Tuy
nhiên, kĩ năng, kiến thức của trẻ chỉ mới ở mức độ đơn giản.
Trong giai đoạn cuối tuổi mẫu giáo, trẻ bắt đầu biết hành động theo mục đích,
biết lập kế hoạch để thực hiện, tuy nhiên trẻ chưa biết đánh giá kết quả.
Tư duy lôgic cũng xuất hiện ở độ tuổi này, trẻ có khả năng lĩnh hội một số khái
niệm khoa học đơn giản, vì vậy khi dạy trẻ thì người lớn cần kết hợp với lời giải thích.
- Sự hình thành ý thức và tự ý thức: Ở lứa tuổi này trẻ đã tự ý thức được về bản
thân, về những ưu, khuyết điểm của mình mà không cần sự đánh giá của người lớn,
trẻ tự điều chỉnh hành vi của mình phu hợp với những chuẩn mực, quy tắc của xã hội.
- Đặc điểm nhận thức của trẻ 5-6 tuổi: Nhận thức của trẻ còn mang nặng cảm
tính và tính trực quan hành động nên trẻ chỉ tập trung, chú ý, ghi nhớ và tái tạo những
sự vật hiện tượng mới lạ, hấp dẫn ngộ nghĩnh… Vì vậy, trong giáo dục trẻ cần có
những đồ dùng trực quan đẹp mắt, những tình huống cụ thể…có như vậy những kĩ
năng, kiến thức mới ăn sâu vào tâm trí trẻ.
Trẻ có khả năng tổng hợp, phân tích và khái quát hóa những dấu hiệu bên
ngoài, khả năng vận dụng những điều đã biết vào thực tế cuộc sống được nâng lên sâu
và rộng hơn.
* Yếu tố khách quan
- Qúa trình và môi trường học tập: Môi trường học tập cần phải lành mạnh, an
toàn và có khả năng bảo vệ. Tiếp cận KNS là cách tiếp cận dựa trên cá nhân và khả
năng hành động của người đó. Để cách tiếp cận đó hiệu quả thì cần phải coi trọng môi
trường giáo dục không chỉ trong nhà trường mà còn ở gia đình và trong cộng đồng.
Cần phải kết hợp đào tạo KNS với các điều kiện bổ sung như: chính sách phát triển
một môi trường tâm lý xã hội thuận lợi và gắn với các dịch vụ của cộng đồng.
18
- Gia đình: Gia đình là người đặt nền móng cho mọi sự phát triển của trẻ, chính
vì vậy chúng ta cần phải tạo mọi điều kiện cho trẻ được tham gia vào các hoạt động
cùng mọi người xung quanh trẻ, và phải tạo mọi điều kiện để trẻ có thể trải nghiệm.
- Nhà trường: Điều kiện giáo dục tốt, thì hiệu quả mới cao. Do vậy, nhà trường
cần phải cung cấp đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết cho quá trình giáo dục
trẻ. Như chúng ta biết, trung tâm của mọi việc giáo dục là sự tương tác giữa người dạy
và người học, điều đó có nghĩa là chất lượng được tạo ra trong quá trình này, để việc
GDKNS cho trẻ có hiệu quả thì người giáo viên cần phải có năng lực, hiểu biết và
phải thường xuyên thay đổi cách dạy, phong cách học, các phương pháp khác nhau để
thu hút sự tham gia của trẻ vào các hoạt động do cô giáo tổ chức.
Bên cạnh đó nhà trường cần chủ động phối hợp với gia đình trẻ, để có sự giáo
dục thống nhất.
- Xã hội: Sự phát triển của trẻ cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự phát triển
của xã hội, xã hội có phát triển thì mới tạo điều kiện cho con người phát triển, các
hoạt động trong xã hội, hay những mối quan hệ với cộng đồng, với mọi người xung
quanh…cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của trẻ. Do đó, chúng ta cần phải tạo
điều kiện cho trẻ được tham gia vào các hoạt động của xã hội và thể hiện khả năng
của mình, qua đó trẻ có thêm nhiều kiến thức và kĩ năng hơn để tham gia hiệu quả vào
các hoạt động của xã hội.
1.3. Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động khám phá khoa
học về môi trường xung quanh
1.3.1. Nguyên tắc GDKNS cho trẻ thông qua hoạt động KPKH về MTXQ
* Đối với trẻ mầm non khi GDKNS cho trẻ cần:
- GDKNS phải xuất phát từ tình cảm
- GDKNS không được rập khuôn mà phải hình thành kĩ năng trong các tình
huống cụ thể
- Thay đổi trạng thái của các em từ bị động sang chủ động.
- Gắn liền kĩ năng với tình huống thực hành.
- Đưa ra gợi ý nhưng để trẻ được lựa chọn các giải pháp khác nhau.
- Gắn liền các nhóm kĩ năng cá nhân và kĩ năng xã hội.
- Luôn đặt cá nhân trẻ trong cộng đồng khi xử lý tình huống.
- Củng cố duy trì các kĩ năng thông qua suy nghĩ và hành vi.
19
1.3.2. Nội dung GDKNS cho trẻ thông qua hoạt động KPKH về MTXQ
Đối với trẻ mầm non, kĩ năng sống phải giúp trẻ nhận thức được bản thân, tự
tin, tự lực, biết làm một số việc đơn giản, biết thể hiện tình cảm, sự chia sẽ, hợp tác,
kiên trì vượt khó, ứng xử phù hợp với gia đình, cộng đồng, bạn bè và môi trường.
Việc GDKNS cho trẻ thông qua hoạt động KPKH về MTXQ ở trường mầm
non, bao gồm một số nội dung chính sau:
TT NỘI DUNG
1 Em yêu trường lớp em
2 Lớp học của em
3 Khám phá bản thân
4 Nhận thức bản thân
5 Giọng nói trong giao tiếp
6 Cách chào hỏi người lớn
7 Cách chào hỏi bạn bè
8 Vệ sinh thân thể
9 Tư thế, dáng điệu
10 Tính ngăn nắp
11 Tính chính xác
12 Chấp nhận và học từ lỗi lầm
13 Vượt qua nỗi sợ hãi
14 Sự chú ý
15 Sự quan tâm
16 Tự thay áo quần
17 Tự mang giày, dép
18 Sắp xếp đồ dùng cá nhân ngăn nắp
19 Kĩ năng khéo léo của đôi bàn tay
20 Kĩ năng tự chải tóc
Nội dung GDKNS được thể hiện trong chương trình ở tất cả các chủ đề, tổ chức
thông qua các hoạt động giáo dục, đặc biệt là hoạt động KPKH về MTXQ, qua chăm
sóc bảo vệ sức khỏe của trẻ và luôn gắn liền với đời sống của trẻ trong trường mầm
non, ở gia đình và xã hội. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi
20
chỉ tập nghiên cứu nhằm giáo dục cho trẻ có những kĩ năng tự bảo vệ bản thân và kĩ
năng tự phục vụ.
1.3.3. Cơ hội GDKNS cho trẻ thông qua hoạt động KPKH về MTXQ
Hoạt động khám phá môi trường xung quanh là một trong những hoạt động
mang tính đặc thù của trẻ được tổ chức ở trường mầm non. Với nhiều chủ đề, chủ
điểm phong phú, đa dạng khác nhau như: Gia đình của bé, quê hương - thủ đô Hà Nội,
tết và mùa xuân… hoạt động khám phá môi trường xung quanh được coi là phù hợp
nhất để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
Trong trường mầm non hoạt động khám phá môi trường xung quanh gồm 2 nội
dung cơ bản là phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội, những nội dung này đặc biệt lôi
cuốn sự tham gia tích cực nhất của trẻ. Vì vậy, muốn hiểu được giá trị của các KNS thì
phải thông qua trực tiếp tiếp xúc, quan sát, tri giác và trải nghiệm với xã hội. Bởi lẽ xã
hội là một khung cảnh sống với những điều kiện cho con người tồn tại và phát triển.
Nhu cầu sống của con người nói chung và trẻ em nói riêng thật là phong phú, mà sự
đáp ứng những nhu cầu đó lại ở trong xã hội. Như vậy trẻ em đã tiếp nhận được ở
trong xã hội vô vàn điều quý giá mà không có gì có thể thay thế được, đến mức người
ta coi xã hội đồng nghĩa với sự sống của trẻ em.
Xã hội là không gian với những điều kiện sống cho mọi người, trong đó có trẻ em là
một bộ phận cần được bảo vệ, che chở và chăm sóc nhiều nhất. Nếu không có KNS thì
những sinh thể nhỏ nhoi này sẽ bị đe dọa trước tiên và nhiều nhất.
Chính vì vậy, GDKNS có ý nghĩa một mặt là để bảo vệ trẻ em, mặt khác coi trẻ em
như một lực lượng cùng với người lớn để giải quyết và khắc phục các tình huống của xã
hội. Bởi “trẻ em hôm nay - thế giới ngày mai” hôm nay còn là những đứa trẻ nhưng mai
đây là những người lớn kế tục sự nghiệp của ông cha.
Việc GDKNS cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động khám phá môi trường xung
quanh sẻ khơi dậy ở trẻ sự say mê, hứng thú với môi trường xung quanh, trẻ sẽ tích
cực tìm hiểu và tìm ra cách thức để xử lý các tình huống chứa đựng trong đó.
Đa số các hoạt động KPMTXQ có mức độ tích hợp cao, tức là mục tiêu chính
của các nội dung KPMTXQ trùng khớp với nội dung GDKNS. Với hình thức khác
nhau của hoạt động trẻ được khám phá và tìm hiểu về xã hội, trên cơ sở đó, biết được
ích lợi của các kĩ năng sống đối với cuộc sống con người. Đồng thời bước đầu cũng có
thể nhận biết rằng: Kĩ năng là làm một cái gì đó, có được nhờ học tập, trải nghiệm và
21
đó cũng là khả năng vận dụng các tri thức khoa học thu thập được vào thực tiễn để có
thể thực hiện tốt một việc gì đó…
Cũng thông qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh trẻ có thể nhận
thấy rằng: Bằng sự nổ lực và khả năng tìm tòi, học hỏi của mình, trẻ có thể cùng người
lớn góp phần làm đẹp cuộc sống, bảo vệ môi trường xung quanh.
Như vậy, hoạt động KPMTXQ là phương tiện hữu hiệu nhất để GDKNS cho trẻ
5-6 tuổi ở trường mầm non.
1.4. Đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ 5 - 6 tuổi
Từ 0-6 tuổi là giai đoạn có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình phát triển
chung của trẻ em. L.N.Tônxtôi đã nói về tầm quan trọng của giai đoạn này như sau:
“Tất cả những cái gì mà đứa trẻ đã có, sau này trở thành người lớn đều thu nhận được
trong thời ấu thơ. Trong quãng đời còn lại những cái mà nó thu nhận được chỉ đáng
một phần trăm những cái đó mà thôi”.
Nhiều công trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non
và tâm lý học sư phạm đã khẳng định việc dạy học và nâng cao chất lượng việc dạy
học cần phải được xây dựng trên những cơ sở đặc điểm phát triển tâm - sinh lý của trẻ
em. Bên cạnh đó, trẻ thời kì này có đặc điểm là rất dể uốn nắn và có mức độ phát triển
nhanh, chính vì vậy việc giáo dục tạo ra cho trẻ thói quen sống có kĩ năng, có ý thức
đạo đức sẽ rất thuận lợi trong thời kì này.
Sự phát triển tâm sinh lý của trẻ được chia làm 2 phần:
1.4.1. Về quá trình nhận thức trẻ
* Sự phát triển cảm giác, tri giác
Ở tuổi này sự phát triển về cảm giác và tri giác của trẻ phát triển mạnh mẽ.
- Đặc điểm chuẩn lĩnh hội của trẻ mẫu giáo: Lúc đầu trẻ lĩnh hội các biến dạng
cơ bản của mỗi loại thuộc tính, sau đó trẻ học phân loại các biến dạng của chuẩn.
- Sự phát triển hành động tri giác của trẻ mẫu giáo: Dần chuyển hành động định
hướng bên ngoài thành hành động tri giác và tăng khả năng định hướng có mục đích,
tính kế hoạch, có điều khiển trong quá trình tri giác.
* Đặc điểm phát triển trí nhớ
- Các hình thức ghi nhớ và nhớ lại có chủ định bắt đầu xuất hiện ở trẻ mẫu giáo
nhỡ và phát triển mạnh mẽ ở mẫu giáo lớn, do hoạt động của trẻ ngày càng phức tạp
22
và do yêu cầu của người lớn đối với trẻ ngày càng cao. Loại ghi nhớ có chủ định chủ
yếu đối với trẻ là ghi nhớ có máy móc.
* Đặc điểm phát triển tư duy
Ở trẻ lớp mẫu giáo lớn, loại tư duy chủ yếu là tư duy trực quan hình ảnh, khi
giải quyết vấn đề đặt ra, trẻ hay suy ngĩ dựa vào tư duy trực quan hình ảnh. Trẻ giải
quyết các vấn đề dựa vào các hình ảnh cụ thể vẫn dể dàng hơn, khi bài toán đó được
giao dưới hình thức các con số.
* Đặc điểm phát triển tưởng tượng
Trí tưởng tượng của trẻ mẫu giáo lớn được phát triển mạnh mẽ. Tuổi mẫu giáo
là giai đoạn phát cảm về sự phát triển của trí tưởng tượng. Trẻ rất hay tưởng tượng,
hình ảnh tưởng tượng của trẻ bay bổng, rực rỡ, nhiều màu sắc xúc cảm hay về phạm vi
hiện thực.
- Tưởng tượng của trẻ vẫn chủ yếu mang tính tái tạo, không chủ định. Tưởng
tượng tái tạo của trẻ mang tính có chủ định và tích cực hơn. Tưởng tượng có chủ đích
dần dần được hình thành khi trẻ tự xây dựng ý tưởng, lập kế hoạch và thực hiện ý
tưởng ấy, trẻ có khả năng tưởng tượng thầm trong óc không cần chổ dựa trực quan ở
bên ngoài. Tưởng tượng sáng tạo dần dần được phát triển.
1.4.2. Nhân cách học sinh Mầm non
* Đặc điểm nhận thức của trẻ mầm non
Trẻ có nhiều thông tin về các sự vật, hiện tượng nào đó, nhưng chưa có sự hiểu
biết đầy đủ về sự vật, hiện tượng đó.
Trẻ thường giành nhiều thời gian và chú ý hơn tới các hoạt động mà trẻ yêu
thích. Thích chơi theo nhóm và trao đổi với nhóm.
Trẻ có thể nắm bắt các khái niệm trừu tượng, nhưng trẻ vẫn cần các sự việc có
thật để giải thích các khái niệm đó.
* Đặc điểm về sự phát triển tình cảm của trẻ mầm non
Trẻ mầm non rất dể xúc cảm và rất nhạy cảm, xúc cảm của trẻ nãy sinh nhanh
chóng và mất đi cũng dể dàng, do đó tình cảm của trẻ chưa ổn định và không bền
vững, mọi hành động của trẻ đều bị chi phối bởi tình cảm.
Tình cảm đạo đức và cảm xúc thẩm mỹ được nãy sinh, phát triển mạnh và luôn
luôn gắn quyện với nhau, trẻ bắt đầu biết rung động trước cái đẹp và yêu thích cái đẹp,
hứng thú tham gia vào các hoạt động nghệ thuật như: múa, hát
23
Trẻ biết nhận biết và thể hiện cảm xúc, tình cảm với con người.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận của việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo
nói chung và trẻ 5-6 tuổi nói riêng, chúng tôi nhận thấy rằng. Việc giáo dục kĩ năng
sống cho trẻ là hết sức cần thiết, do vậy mỗi chúng ta cần có cái nhìn khách quan và
tổng thể về đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ, về mục tiêu, nội dung, phương
pháp, hình thức giáo dục…và các yếu tố khách quan như: gia đình, xã hội… để việc tổ
chức giáo dục kĩ năng sống cho trẻ đạt kết quả cao hơn, giúp trẻ có kiến thức, kĩ năng
để tham gia vào các hoạt động của xã hội một cách tích cực và có hiệu quả hơn.
Chương 2
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KPKH VỀ MTXQ
2.1. Vài nét về khách thể và địa bàn nghiên cứu
Tiến hành điều tra thực trạng tổ chức các hoạt động khám phá khoa học nhằm hình
thành kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường Mầm Non Nam Lý. Trường Mầm
Non Nam Lý thuộc Phường Nam Lý, là một Phường trung tâm nằm ở phía Tây của Thành
Phố Đồng Hới, có diện tích gần 3.900ha và dân số có trên 14000 người.
Trường Mầm Non Nam Lý có tổng số cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên là
62 người ( biên chế - 46 người: hợp đồng -16 người). Về trình độ đào tạo: Đại học: 44;
Cao đẳng 3; trung cấp: 15; Hiện tại trong số có trình độ trung cấp có 2 giáo viên đang
tham gia học các lớp đại học từ xa, giáo viên được sắp xếp, bố trí phù hợp với năng
lực nên đã phát huy tốt ở mỗi vị trí được đảm nhiệm; Ban giám hiệu gồm: 3 người;
giáo viên: 39 người; nhân viên: 01 người.
Trường có 15 phòng học được đóng ở 3 điểm. Trong đó số phòng học kiên cố:
08 phòng; phòng học bán kiên cố: 05 phòng; Phòng học mượn: 02 phòng; số phòng
học xây mới: 0; số phòng chức năng hiện có:04 (cả hai điểm) nên không gian để tổ
chức các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ tương đối thuận lợi.
Về công tác phát triển số lượng: Nhà trường luôn chú trọng đến công tác phát triển
số lượng. Học sinh đến lớp hầu hết trong độ tuổi giáo dục mầm non, ở trung tâm nên tỷ lệ
con em cán bộ công nhân viên chức nhà nước đông, phụ huynh quan tâm đến sự trưởng
thành và phát triển của trẻ em cả về thể lực lẫn học tập.