Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Những nhân tố đe dọa đến an ninh trên lĩnh vực tôn giáo tiềm ẩn trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.44 KB, 52 trang )

1. Lời mở đầu
Tín ngưỡng, tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hoá, đạo đức, tâm
linh đã ra đời và tồn tại lâu dài trong lịch sử của xã hội loài người; đã ăn sâu
vào đời sống của một bộ phận nhân dân trong nhiều quốc gia, dân tộc, trở
thành một bộ phận của nền văn hoá các quốc gia, dân tộc khác nhau và có
mối liên hệ quốc tế đa chiều, đa dạng...Trải qua những biến cố lịch sử, cùng
với những biến động sâu sắc của các lĩnh vực trong đời sống xã hội, tôn giáo
vẫn tồn tại trong các quốc gia, các dân tộc với những hình thức phong phú
và luôn tác động đến đời sống con người trên nhiều phương diện, trong đó
có khía cạnh an ninh, quốc phòng.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Ngoài 6 tôn giáo lớn
được Nhà nước thừa nhận như Công giáo, Phật giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao
Đài, Hoà Hảo (với số lượng tín đồ chiếm gần 1/4 dân số trong cả nước), đa
phần người Việt Nam đều theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và cùng với
nhiều phong tục, lễ hội khác. Sự đan xen, hoà đồng nhiều tín ngưỡng, tôn
giáo là một trong những nét đặc trưng của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo Việt
Nam. Thấu hiểu sâu sắc nhu cầu đó, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân; thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương-giáo và giữa các tôn giáo; khắc
phục thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo,
chống hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc,
gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn
giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc.
Thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong những năm
qua cho thấy, các tôn giáo ở nước ta được hoạt động tự do trong khuôn khổ
pháp luật, được Nhà nước tạo điều kiện đáp ứng những nhu cầu tôn giáo
chính đáng như: tự do sinh hoạt tôn giáo, bảo hộ nơi thờ tự; có trường đào
tạo chức sắc tôn giáo, được đưa đi đào tạo ở nước ngoài; có kinh sách, ấn



phẩm tôn giáo; được giao lưu quốc tế; các tín đồ hoàn toàn tự do sinh hoạt
tín ngưỡng tại gia đình và nơi thờ tự hợp pháp... Ngoài việc các tổ chức, cá
nhân các tôn giáo được tạo điều kiện sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
khuôn khổ pháp luật, các tôn giáo ở Việt Nam còn được giao lưu quốc tế mà
không bị cản trở. Hiện nay cả nước có 22.195 cơ sở thờ tự các loại, trong đó
có nhiều cơ sở được xây dựng mới và trùng tu rất khang trang. Những ngày
lễ lớn của các tôn giáo được tổ chức trọng thể ở mọi miền đất nước... đã thu
hút hàng triệu tín đồ; có lễ hội diễn ra với sự tham gia của hàng trăm nghìn
người mà vẫn được tổ chức chu đáo, an toàn.
Tuy nhiên, tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay đã và
đang xuất hiện nhiều vấn đề mới nổi cộm mà căn nguyên của nó là sự chống
phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động nhằm chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo Việt Nam. Những năm gần đây, nhiều
hiện tượng mê tín dị đoan cũng như hoạt động truyền đạo trái pháp luật có
xu hướng gia tăng, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, biên
giới. Điều đáng lo ngại là một số tôn giáo lạ, tà đạo, tạp giáo đã nhen nhóm
phát triển nhanh như tà đạo “Vàng Chứ” trong dân tộc Mông, tà đạo “Thìn
Hùng” trong dân tộc Dao ở Tây Bắc, tà đạo “Tin lành Đề-ga” ở Tây Nguyên
và một số giáo phái khác ở Tây Nam Bộ... Tình trạng các tôn giáo lạ đang
thâm nhập và phát triển ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã làm nảy
sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Nguy hiểm hơn, một số phần tử xấu đội
lốt tôn giáo đã gieo rắc vào nhận thức của đồng bào những điều sai trái. Họ
lừa mị, tuyên truyền xuyên tạc bóp mép chính sách tôn giáo, dân tộc của
Đảng, Nhà nước ta, hòng làm cho đồng bào bỏ những phong tục, tín ngưỡng
truyền thống, bỏ việc thờ cúng ông bà, tổ tiên để theo đạo mới. Họ xúi giục
đồng bào bỏ cả bản làng, nhà cửa, ruộng nương để đến “vùng đất hứa”, tạo
ra làn sóng di cư tự do lớn, làm cho việc sản xuất bị bê trễ, cuộc sống yên
bình của người dân bị xáo trộn nghiêm trọng. Không chỉ gây hậu quả lớn về
kinh tế - xã hội (KT-XH), trong lĩnh vực QP-AN cũng xuất hiện những biểu

hiện bất ổn, tiềm ẩn nguy cơ đe dạo an ninh cộng đồng và an ninh quốc gia


trên nhiều khía cạnh. Những năm gần đây,vấn đề không bình thường là một
số tổ chức Tin lành trá hình, ví như cái gọi là tổ chức Tin lành Đề ga...không
được pháp luật thừa nhận và cho phép hoạt động. Thế nhưng chúng vẫn lén
lút hoạt động, phát triển mạnh ở một số địa bàn cư trú. Sự phát triển của đạo
Tin lành này và một số tà đạo khác đã tạo ra những bất ổn trong nội bộ nhân
dân, sự chia rẽ, mất đoàn kết giữa những người, dòng tộc theo tín ngưỡng
truyền thống và những người, dòng tộc bỏ tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống
theo đạo "Tin lành"... Từ thực tế điều tra và những chứng cứ thu được của
các cơ quan chức năng cho thấy, một số tổ chức phản động đội lốt tôn giáo
đã thâm nhập sâu vào các địa bàn miền núi, biên giới, lấy cớ truyền đạo,
ngấm ngầm tuyên truyền, tán phát tài liệu phản động, xuyên tạc đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung và chính sách dân tộc, tôn giáo
nói riêng. Chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, xúi giục, kích động, lôi kéo
đồng bào theo đạo mới gây bạo loạn chính trị, làm mất ổn định trong vùng,
chia rẽ khối đoàn kết cộng đồng các dân tộc, tôn giáo. Mặt khác, tổ chức
"Tin lành Đề ga" cấu kết với các tổ chức phản động trong và ngoài nước tổ
chức móc lối, nuôi dưỡng lực lượng ngầm, lôi kéo một số đồng bào dân tộc
thiểu số và tàn quân FULRO vượt biên trái phép sang Cam-pu-chia lập ra
những trại tị nạn để tập hợp lực lượng chống đối, chờ thời cơ đưa trở lại Việt
Nam để chống phá Nhà nước ta.
Tất cả những yếu tố trên mang tính chất tiềm ẩn đe dọa đến an ninh trên
lĩnh vực tôn giáo trong tình hình hiện nay, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ
lưỡng, từ đó mới đề ra được các biện pháp giải quyết trước mắt và lâu dài
vấn đề tôn giáo, góp phần thực hiện đúng đắn chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, đảm bảo AN-QP.
Từ tình hình trên, tác giả lấy tên đề tài là “Các nhân tố đe dọa đến an
ninh trên lĩnh vực tôn giáo tiềm ẩn trong tình hình hiện nay và đề xuất cho

công tác quản lý Nhà nước” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


Những năm gần đây, đã có nhiều công trình khoa học liên quan đến đề
tài, nhưng tác giả chưa thấy có công trình khoa học nào nghiên cứu vấn đề:
“Nhân tố đe dọa đến an ninh trên lĩnh vực tôn giáo tiềm ẩn trong tình hình
hiện nay”. Chính vì vậy thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước là
những tư liệu quan trọng để tác giả hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Luận văn góp phần làm rõ những nhân tố đe dọa đến an
ninh trên lĩnh vực tôn giáo tiềm ẩn trong tình hình hiện nay, từ đó đề xuất
các giải pháp để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo nhằm giữ vững ổn định chính
trị, trật tự an toàn xã hội ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội của người Việt Nam.
+ Nghiên cứu những nhân tố đe dọa đến an ninh trên lĩnh vực tôn giáo
trong tình hình hiện nay.
+ Đề xuất các giải pháp để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo nhằm giữ vững
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Những nhân tố đe dọa đến an
ninh trên lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam trong tình hình hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
+ Về không gian: Trên đất nước Việt Nam XHCN
+ Về thời gian: Từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Lịch sử và lôgic, kết
hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, đồng thời coi
trọng công tác điều tra khảo sát thực tiễn.

6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn


- Góp phần làm rõ, sâu sắc hơn nữa tôn giáo người Việt Nam cũng như
những nhân tố đe dọa đến an ninh trên lĩnh vực tôn giáo trong trong điều
kiện hiện nay
- Đề xuất những giải pháp, định hướng trong công tác đảm bảo an ninh
trên lĩnh vựctôn giáo.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và nghiên
cứu về lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng của các trường và các ban ngành của
từng địa phương. Đồng thời luận văn còn có thể góp phần vào cơ sở lý luận
cho việc giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trong thực tiễn của mỗi địa
phương hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương 7 tiết


Chương 1 Tình hình tôn giáo ở Việt Nam
1.1. Nhận thức chung về tôn giáo
1.1.1. Một số vấn đề chung về tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan,
theo quan niệm hoang đường, ảo tưởng phù hợp với tâm lí, hành vi của con
người. Tôn giáo bao gồm hệ thống hoàn chỉnh các quan niệm, ý thức tín
ngưỡng, thể hiện tập trung ở lòng tin, tình cảm tôn giáo, hành vi và hoạt
động tôn giáo. Tôn giáo là hình thức tín ngưỡng có giáo lý, giáo luật, lễ nghi
và giáo hội, được tổ chức chặt chẽ.
Trong đời sống xã hội, tôn giáo là một cộng đồng xã hội, với các yếu tố:
Hệ thống giáo lí tôn giáo, nghi lễ tôn giáo, tổ chức tôn giáo với đội ngũ giáo
sĩ và tín đồ, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tôn giáo.

Cần phân biệt tôn giáo với mê tín dị đoan: Mê tín dị đoan là những hiện
tượng (ý thức, hành vi) cuồng vọng của con người đến mức mê muội, trái
với lẽ phải và hành vi đạo đức, văn hoá cộng đồng, gây hậu quả tiêu cực trực
tiếp đến đời sống vật chất tinh thần của cá nhân, cộng đồng xã hội. Đây là
một hiện tượng xã hội tiêu cực, phải kiên quyết bài trừ, nhằm lành mạnh hoá
đời sống tinh thần xã hội.
1.1.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo không tự sinh ra mà nó được phát sinh dựa trên các yếu tố
kinh tế - xã hội, nhận thức và tâm lí.
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ lực
lượng sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối, lệ thuộc và bất lực
trước tự nhiên. Vì vậy họ đã gán cho tự nhiên những lực lượng siêu tự nhiên
có sức mạnh, quyền lực to lớn, quyết định đến cuộc sống và họ phải tôn thờ.
Khi xã hội có giai cấp đối kháng, nạn áp bức, bóc lột, bất công của giai
cấp thống trị đối với nhân dân lao động là nguồn gốc nảy sinh tôn giáo.
V.I.Lênin đã viết: "Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh


chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế
giới bên kia". Hiện nay, con người vẫn chưa hoàn toàn làm chủ tự nhiên và
xã hội ; các cuộc xung đột giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thiên tai, bệnh tật,...
vẫn còn diễn ra, nên vẫn còn nguồn gốc để tôn giáo tồn tại.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. Tôn giáo bắt nguồn từ sự nhận
thức hạn hẹp, mơ hồ về tự nhiên, xã hội có liên quan đến đời sống, số phận
của con người. Con người đã gán cho nó những sức mạnh siêu nhiên, tạo ra
các biểu tượng tôn giáo. Mặt khác, trong quá trình biện chứng của nhận
thức, con người nảy sinh những yếu tố suy diễn, tưởng tưởng xa lạ với hiện
thực khách quan, hình thành nên các biểu tượng tôn giáo.
- Nguồn gốc tâm lí của tôn giáo. Tình cảm, cảm xúc, tâm trạng lo âu, sợ
hãi, buồn chán, tuyệt vọng đã dẫn con người đến sự khuất phục, không làm

chủ được bản thân là cơ sở tâm lí để hình thành tôn giáo. Mặt khác, lòng biết
ơn, sự tôn kính đối với những người có công khai phá tự nhiên và chống lại
các thế lực áp bức trong tình cảm, tâm lí con người cũng là cơ sở để tôn giáo
nảy sinh.
1.1.3. Tính chất của tôn giáo
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tôn giáo có tính lịch sử, tính
quần chúng, tính chính trị.
Tính lịch sử của tôn giáo: Tôn giáo ra đời, tồn tại và biến đổi phản ánh
và phụ thuộc vào sự vận động, phát triển của tồn tại xã hội. Tôn giáo còn tồn
tại rất lâu dài, nhưng sẽ mất đi khi con người làm chủ hoàn toàn tự nhiên, xã
hội và tư duy.
Tính quần chúng của tôn giáo: Tôn giáo phản ánh khát vọng của quần
chúng bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái (dù đó là hư ảo). Tôn
giáo đã trở thành nhu cầu tinh thần, đức tin, lối sống của một bộ phận dân
cư. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân tin theo các tôn
giáo.


Tính chính trị của tôn giáo: Xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp.
Giai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo làm công cụ hỗ trợ để thống trị áp bức
bóc lột và mê hoặc quần chúng. Những cuộc chiến tranh tôn giáo đã và đang
xảy ra, thực chất vẫn là xuất phát từ lợi ích của những lực lượng xã hội khác
nhau lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình.
1.1.4. Tình hình tôn giáo trên thế giới
Theo Từ điển Bách khoa Tôn giáo thế giới năm 2001, hiện nay trên thế
giới có tới 10.000 tôn giáo khác nhau, trong đó khoảng 150 tôn giáo có hơn
1 triệu tín đồ. Những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay gồm có: Kitô giáo
(bao gồm Công giáo, Tin Lành, Anh giáo hay Chính thống giáo) có khoảng 2
tỉ tín đồ, chiếm 33% dân số thế giới; Hồi giáo: 1,3 tỉ tín đồ, chiếm 22% dân
số thế giới; Ấn Độ giáo: 900 triệu tín đồ, chiếm 15% dân số thế giới và Phật

giáo: 360 triệu, chiếm 6% dân số thế giới. Như vậy, chỉ tính các tôn giáo lớn
đã có 4,2 tỉ người tin theo, chiếm 76% dân số thế giới.
Trong những năm gần đây hoạt động của các tôn giáo khá sôi động,
diễn ra theo nhiều xu hướng. Các tôn giáo đều có xu hướng mở rộng ảnh
hưởng ra toàn cầu ; các tôn giáo cũng có xu hướng dân tộc hoá, bình dân
hoá, mềm hoá các giới luật lễ nghi để thích nghi, tồn tại, phát triển trong
từng quốc gia dân tộc; các tôn giáo cũng tăng các hoạt động giao lưu, thực
hiện thêm các chức năng phi tôn giáo theo hướng thế tục hoá, tích cực tham
gia các hoạt động xã hội để mở rộng ảnh hưởng làm cho sinh hoạt tôn giáo
đa dạng, sôi động và không kém phần phức tạp.
Đáng chú ý là gần đây, xu hướng đa thần giáo phát triển song song với
xu hướng nhất thần giáo, tuyệt đối hoá, thần bí hoá giáo chủ đang nổi lên ;
đồng thời, nhiều “hiện tượng tôn giáo lạ” ra đời, trong đó có không ít tổ
chức tôn giáo là một trong những tác nhân gây xung đột tôn giáo, xung đột
dân tộc gay gắt trên thế giới hiện nay. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động tiếp tục lợi dụng tôn giáo để chống phá, can thiệp vào các quốc gia dân
tộc độc lập.


Tình hình, xu hướng hoạt động của các tôn giáo thế giới có tác động,
ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam. Một mặt, việc mở
rộng giao lưu giữa các tổ chức tôn giáo Việt Nam với các tổ chức tôn giáo
thế giới đã giúp cho việc tăng cường trao đổi thông tin, góp phần xây dựng
tinh thần hợp tác hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau vì lợi ích của các giáo hội và
đất nước; góp phần đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc, vu
cáo của các thế lực thù địch với Việt Nam; góp phần đào tạo chức sắc tôn
giáo Việt Nam. Mặt khác, các thế lực thù địch cũng lợi dụng sự mở rộng
giao lưu đó để tuyên truyền, kích động đồng bào tôn giáo trong và ngoài
nước chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.1.5. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tôn

giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Giải quyết vấn đề tôn giáo là một quá trình lâu dài gắn với quá trình
phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ nhằm nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, cần thực
hiện các vấn đề có tính nguyên tắc sau :
Một là: giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định, chỉ có thể giải phóng quần chúng khỏi ảnh hưởng tiêu cực
của tôn giáo bằng cách từng bước giải quyết nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc
xã hội của tôn giáo. Đó phải là kết quả của sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới một cách toàn diện. Theo đó, giải quyết vấn đề tôn giáo
phải sử dụng tổng hợp các giải pháp trên tất cả các lĩnh vực nhằm xác lập
được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói, dốt nát.
Tuyệt đối không được sử dụng mệnh lệnh hành chính cưỡng chế để tuyên
chiến, xoá bỏ tôn giáo.
Hai là: tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của công dân, kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan. Trong chủ nghĩa xã
hội, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, còn tồn tại


lâu dài. Bởi vậy, phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và quyền tự
do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân. Nội dung cơ bản của quyền tự
do tín ngưỡng là: Bất kì ai cũng được tự do theo tôn giáo mà mình lựa chọn,
tự do không theo tôn giáo, tự do chuyển đạo hoặc bỏ đạo. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa bảo đảm cho mọi công dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo
đều được bình đẳng trước pháp luật. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt
động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Mọi tổ chức và cá nhân đều
phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và quyền tự do không tín
ngưỡng tôn giáo của công dân. Tôn trọng gắn liền với không ngừng tạo điều
kiện cho quần chúng tiến bộ mọi mặt, bài trừ mê tín dị đoan, bảo đảm cho

tín đồ, chức sắc tôn giáo hoạt động theo đúng pháp luật.
Ba là: quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo có tính lịch sử, nên vai trò, ảnh hưởng của từng tôn giáo đối với
đời sống xã hội cũng thay đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội. Bởi vậy,
khi xem xét, đánh giá, giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo cần
phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể, tránh giáo điều, máy móc, rập
khuôn cứng nhắc. Những hoạt động tôn giáo đúng pháp luật được tôn trọng,
hoạt động ích nước lợi dân được khuyến khích, hoạt động trái pháp luật, đi
ngược lại lợi ích dân tộc bị xử lí theo pháp luật.
Bốn là: phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai mặt chính trị và tư tưởng
trong giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong xã hội, sinh hoạt tôn giáo tồn tại hai
loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các
giai cấp bóc lột và thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại cách mạng với lợi ích
của nhân dân lao động, đó là mặt chính trị của tôn giáo. Mâu thuẫn không
đối kháng giữa những người có tín ngưỡng khác nhau hoặc giữa người có tín
ngưỡng và không có tín ngưỡng, đó là mặt tư tưởng của tôn giáo.
Cho nên, một mặt phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân,
mặt khác phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của các
thế lực lợi dụng tôn giáo. Việc phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng
trong giải quyết vấn đề tôn giáo nhằm: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân


tộc, đoàn kết quần chúng nhân dân, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo;
Phát huy tinh thần yêu nước của những chức sắc tiến bộ trong các tôn giáo;
Kiên quyết vạch trần và xử lí kịp thời theo pháp luật những phần tử lợi dụng
tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng.
1.2. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của
Đảng, Nhà nước ta hiện nay
1.2.1. Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng tôn giáo. Đến nay Nhà

nước ta công nhận tư cách pháp nhân cho 12 tôn giáo và cấp đăng ký hoạt
động cho 32 tổ chức tôn giáo (tôn giáo gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin lành,
Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam,
Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ ân Hiếu nghĩa, Giáo hội Phật đường Nam tông
Minh sư đạo, Minh lý đạo – tam tông miếu và đạo Bà hải. Chức sắc các tôn
giáo: Phật giáo 48.498, Công giáo 3.394, Tin lành 132, Cao Đài 14.261, Hòa
Hảo 1.956, Hồi giáo 699. Cơ sở thờ tự: Phật giáo 16.984, Công giáo 5.546,
Tin lành 320, Cao Đài 1.290, Hòa Hảo 39, Hồi giáo 79. Cơ sở đào tạo: Phật
giáo Học viện Phật giáo 4; Công giáo Đại chủng viện 6); khoảng 25% dân số
là tín đồ theo các tôn giáo. Số lượng tín đồ 6 tôn giáo lớn: Phật giáo 10 triệu;
Công giáo 5,9 triệu; Cao Đài 2,4 triệu; Phật giáo Hòa Hảo 1,3 triệu, Tin lành
gần 1 triệu; Hồi giáo trên 7 vạn.
Đại đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, chủ yếu là nông dân cư
trú trên địa bàn cả nước, một bộ phận tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số
theo các tôn giáo cư trú ở các địa bàn Tây Bắc (100 ngàn), Tây Nguyên (400
ngàn), Tây Nam Bộ (1,3 triệu).
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đa số chức sắc và tín đồ các tôn
giáo tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
hành đạo trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Phát huy tinh thần yêu
nước, đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Từ thực tiễn công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo, ta có thể
nhận thấy tôn giáo ở Việt Nam có một số đặc điểm chính cần chú ý như sau:
-Một là, Việt Nam là một quóc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau đang tồn tại.
Đó là do điều kiện địa lý nước ta thuận lợi cho việc giao lưu của nhiều
luồng tư tưởng, văn hoá khu vực và thế giới, lại chịu ảnh hưởng của hai nền
văn minh lớn của thế giới là Trung Hoa và Ấn Độ.

Nước ta có nhiều dân tộc cư trú (54 dân tộc) ở nhiều khu vực khác
nhau, với điều kiện tự nhiên, khí hậu, lối sống, phong tục, tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau. Hơn nữa, bản tính người Việt luôn cởi mở, khoan dung nên
cùng một lúc họ có thể tiếp nhận nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác
nhau. Từ những hình thức tôn giáotín ngưỡng sơ khai đến hiện đại, từ tôn
giáo phương Đong cổ đại đến phương Tây cận, hiện đại, tất cả đã và đang
cùng tồn tại bên cạnh tín ngưỡng dân gian, bản địa của nhiều dân tộc, bộ tộc
khác nhau.
-Hai là, Tính đan xen, hoà đồng, khoan dung của tín ngưỡng, tôn giáo
Việt Nam. Điều đó được biểu hiện:
Trên điện thờ của một số tôn giáo có sự hiện diện của một số vị thần,
thánh, tiên, phật… của nhiều tôn giáo.
Đối với người Việt Nam, rất khó xác định tiêu chuẩn tôn giáo của họ.
Người ta không chỉ thờ phụng ở đình, chùa, am, miếu, ma còn khấn vái “tứ
phương”, kể cả những gốc cây, mô đất, khúc sông …
Về phía giáo sĩ: ở Việt Nam có nhiều tăng ni, phật tử thông thạo giáo lý
Phật giáo, đồng thời cũng triết thuyết Khổng Mạnh và nghiên cứu cả đạo
giáo.
Giáo lý cùa các tôn giáo lớn ở Việt Nam có không ít những điều khác
biệt và trong lịch sử đã xuất hiện những mâu thuẩn nhất định, nhưng nhìn
chung, chưa có sự đối đầu dẫn đến chiến tranh tôn giáo.


Tín ngưỡng tôn giáo VN là hòa đồng, đan xen, hỗ trợ lẫn nhau.Truyền
thống “Tam giáo đồng nguyên”, “Ngũ chi hợp nhất” được kết tinh trong đạo
Cao đài. Những tôn giáo độc thần như : Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo du
nhập vào nước ta cũng như tôn giáo nội sinh như : Cao Đài, Hòa Hảo ít
nhiều đều có tính đan xen, hòa đồng dung hợp với nhau với tín ngưỡng bản
địa.
-Ba là, yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưõng, tôn giáo ở Việt Nam.

Lịch sử Việt Nam là lỉch sử chống ngoại xâm, người phụ nữ có vai trò
quan trọng trong xã hội không chỉ vì họ gánh vác công việc nặng nề thay
chồng nuôi con ở hậu phương mà còn xông pha trận mạc.
Ở nước ta, dù mẫu quyền được thay thế bởi phụ quyền từ lâu, nhưng tàn
dư chế độ này còn kéo dài dai dẵng đến tận ngày nay. Hơn nữa, ở một xứ sở
thuộc nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước, vốn coi trọng yếu tố âmđất-mẹ, người mẹ biểu tượng cho ước muốn phong đăng, phồn thực; hình
tượng của sự sinh sôi, nãy nở, sự trường tôn của giống nòi, sự bao dung của
lòng đất. Vì vậy, một trong những đặc điểm đáng quan tâm trong tín ngưỡng,
tôn giáo Việt Nam là truyền thống tôn thờ yếu tố nữ.
-Bốn là, thần thánh hoá những người có công với gia đình, làng, nước.
Con người Việt Nam vốn có yêu nước, trọng tình “uống nước, nhớ
nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” nên tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam
cũng thấm đượm tinh thần ấy. Từ xưa, ở Việt Nam đã hình thành 3 cộng
đồng gắn bó với nhau là gia đình, làng xóm và quốc gia.
Gia đình là tế bào của xã hội, dù nghèo hay giàu, song nhà nào cũng có
bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ-những người đã khuất.
Làng xóm có cơ cấu, thiết chế rất chặt chẽ. Mỗ làg có phong tục, lối
sống riêng. Trong phạm vi làng xã từ lâu đã hình thành tục thờ cúng thần địa
phương và việc thờ cúng này trở nên phổ biến ở nhiều tộc người.


Những người có công với gia đình, làng xóm, đất nước đều được người
Việt Nam tôn vinh, sùng kính.
-Năm là, tín đồ các tôn giáo Việt Nam hầu hết là nông dân lao động.
Nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm tỷ lệ rất lớn, nên tín đồ
hầu hết là nông dân. Nhìn chung, tín đồ các tôn giáo Việt Nam hiểu giáo lý
không sâu sắc nhưng lại chăm chỉ thực hiện những nghi lễ tôn giáo và sinh
hoạt cộng đồng tín ngưõng một cách nhiệt tâm.
- Sáu là, Một số tôn giáo bị các thế lực thù địch phản động trong và
ngoài nước lợi dụng vì mục đích chính trị.

Tôn giáo nào cũng có 2 mặt: nhân thức tư tưởng và chính trị. Chín vì
vậy, tuy mức độ có khác nhau, nhưng giai đoạn lịch sử nào thì các giai cấp
thống trị, bóc lột vẫn chú ý sử dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo.
Các thế lực trong và ngoài nước đang âm mưu sử dụng ngọn cờ nhân
quyền gắn với tôn giáo hong xóm xoá bỏ CNXH ở nước ta. Vì vậy, một mặt
phải đáp ứng đúng như cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân, mặt khác
phải luôn cảnh giác với âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
- Bảy là, hoạt động tôn giáo trong những năm gần đây có biểu hiện
mang tính chất thị trường.
Những năm qua, nhờ có công cuộc đổi mới mà đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân được nâng cao nhưng cũng kéo theo nhưng hoạt động của
các tôn giáo sôi nổi hơn trước, việc xây mới, sửa chũa cơ sở thờ tự diễn ra
khó kiểm soát. Hiện tượng “buôn thần, ban thánh” có dấu hiệu bùng phát
làm tiêu tốn tiền bạc, thời gian, sức khoẻ của nhân dân.
Hiện nay đã xuất hiện một số chức sắc, tín đồ các tôn giáo có biểu hiện
suy thoái đạo đức, lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền mê tín-dị đoan, kiếm
tiền bất chính.
1.2.2. Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay


Để giải quyết tốt các vấn đề về dân tộc, tự do tín ngưỡng tôn giáo,
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta rất chú trọng thực hiện tốt chính sách đại
đoàn kết dân tộc. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 3/ 9/
1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu rõ: “Thực dân và phong kiến thi hành các chính sách chia rẽ
đồng bào các dân tộc, đồng bào Lương và Giáo, để dễ thống trị. Tôi đề nghị
Chính phủ ta tuyên bố: tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”[1]. Quan
điểm trên đồng thời đã được quán triệt, cụ thể hóa thông qua các chủ trương,
chính sách của Đảng và hệ thống Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Các

kỳ Đại hội IX, X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đều đã khẳng định:
“Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là thực hiện tốt chính sách các dân
tộc, tôn giáo bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển; chăm
lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ
gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của các dân
tộc. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm... Vấn đề dân tộc, tôn giáo và đoàn
kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng nước nhà”
Trước xu hướng phát triển đa dạng và phức tạp của tín ngưỡng, tôn giáo
hiện nay, Nghị quyết Đại hội X của Đảng tiếp tục xác định rõ: Tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại
cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đồng bào các tôn
giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
đúng pháp luật. Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo.
Qua đó khẳng định Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hơn thế, còn tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho các tôn giáo, đồng bào có đạo hoạt động theo đúng pháp luật Nhà nước,


như Pháp lệnh về tôn giáo qui định: đồng bào các tôn giáo là công dân của
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, có quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm
bình đẳng trước pháp luật như mọi công dân khác trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam. Với quan điểm, chính sách tôn giáo đúng đắn, cởi mở của
Đảng đã làm cho tuyệt đại đồng bào có đạo và đa số chức sắc tôn giáo không
chỉ đồng tình, ủng hộ mà còn phấn khởi, hăng hái, tích cực tham gia vào
công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước; tự giác chấp

hành nghiêm các qui định của pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính
sách, chương trình phát triển kinh tế-xã hội (KTXH), nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần, tăng cường sức mạnh quốc phòng- an ninh (QP, AN), góp
phần cùng toàn dân giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam XHCN.
Qua nghiên cứu các văn bản, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và thực tiễn
việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo, ta có thể đưa ra một số quan điểm
chính về vấn đề tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta như sau:
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong công cuộc đổi mới hiện nay,
Đảng ta khẳng định: tôn giáo còn tồn tại lâu dài, còn là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; tôn giáo có những giá trị văn hoá, đạo đức
tích cực phù hợp với xã hội mới; đồng bào tôn giáo là một bộ phận quan
trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Công tác tôn giáo vừa quan tâm giải quyết hợp lí nhu cầu tín ngưỡng
của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo
chống phá cách mạng.
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng
sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Động viên đồng bào nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo
vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc thông qua thực hiện tốt các chính sách


kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần
của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị
do Đảng lãnh đạo, trong đó, các tổ chức quần chúng có vai trò quan trọng
trong công tác quản lý Nhà nước đối với các tôn giáo.

Về chính sách tôn giáo, Đảng ta khẳng định: “Đồng bào các tôn giáo là
bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không
theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp
luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo
và không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của
các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo
sống “tốt đời, đẹp đạo”, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật
và được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của đồng bào các tôn giáo. Tăng
cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo. Đấu tranh
ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm quyền tự
do tôn giáo của nhân dân”.
1.3. Đảm bảo an ninh trên lĩnh vực tôn giáo
1.3.1. Đảm bảo ANQG
1.3.2. Đảm bảo an ninh trên lĩnh vực tôn giáo
Đảm bảo an ninh trên lĩnh vực tôn giáo là một bộ phận của công tác
đảm bảo ANQG, chịu sự tác động của công tác đảm bảo ANQG. Theo đó,
đảm bảo an ninh tôn giáo là đảm bảo chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng
và Nhà nước đối với nhân dân nhưng đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh
với các đối tượng, thế lực lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng.
Thực hiện đoàn kết, bình đẳng giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các tôn


giáo, giữa cộng đồng dân cư theo tôn giáo với những người không theo tôn
giáo, đảm bảo tốt đời đẹp đạo, phụng sự Tổ quốc.


Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐẢM BẢO AN NINH TRÊN

LĨNH VỰC TÔN GIÁO
2.1. Những mối đe dọa đến an ninh trên lĩnh vực tôn giáo tiềm ẩn
trong tình hình hiện nay
2.1.1. Những yếu tố nội tại của tôn giáo
Tôn giáo bao gồm hệ thống hoàn chỉnh các quan niệm, ý thức tín
ngưỡng, thể hiện tập trung ở lòng tin, tình cảm tôn giáo, hành vi và hoạt
động tôn giáo. Như vậy, tôn giáo là hình thái ý thức xã hội dựa trên thế giới
quan duy tâm, là trái ngược với thế giới quan duy vật biện chứng của của
CNXH.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, đã chỉ ra rằng, tôn giáo chỉ mất đi khi những cơ
sở kinh tế-xã hội, thậm chí là cả cơ sở tâm lý, nhận thức cho sự tồn tại của
nó không còn nữa. Nghĩa là khi nào những cơ sở cho sự tồn tại của tôn giáo
"không còn gì để phản ánh nữa, như Ph. Ăngghen đã chỉ ra, thì khi ấy tôn
giáo sẽ mất đi. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mối
quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thế giới tự nhiên
còn nhiều điều chưa thể đạt đến sự hợp lý, đặc biệt mặt trái của cơ chế thị
trường, như tội phạm, sự phân hóa giàu nghèo, những rủi ro, bệnh tật, môi
trường sinh thái bị hủy hoại,... vẫn còn là cơ sở khách quan cho tôn giáo tồn
tại và phát triển trên những phạm vi nhất định. Do đó, tôn giáo vẫn còn tồn
tại, khó có thể đoán định được "tuổi thọ” của tôn giáo, song chắc chắn rằng
tôn giáo vẫn là một thực thể tồn tại trong chủ nghĩa xã hội4.
Như vậy, với cách nhìn mới, Đảng ta khẳng định tôn giáo còn tồn tại
lâu dài, không thể đơn giản cho rằng tôn giáo sẽ mất đi một sớm một chiều
khi con người đã khám phá, chinh phục được thiên nhiên, khi đời sống vật
chất ngày một tăng, tức là đã giải quyết được nguồn gốc tự nhiên. Đây là
một nhận định mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc của Đảng, phản
ánh đúng tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại và phát triển của tín
ngưỡng, tôn giáo.
Không dừng lại ở việc thừa nhận sự tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta còn khẳng định những điểm "tương

đồng" giữa lý tưởng của tôn giáo với mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết 25 chỉ rõ: "Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với mục
tiêu chung"5. Đây là một luận điểm mới có giá trị lý luận và thực tiễn sâu


sắc, thể hiện sự vận dụng nhuần nhuyễn nét đặc sặc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về việc khai thác, phát huy những giá trị tốt đẹp trong văn hoá, đạo
đức của các tôn giáo với mục tiêu của công cuộc xây dựng xã hội mới ở
nước ta. Một mặt, quan điểm này làm thất bại những âm mưu tuyên truyền
xuyên tạc của các thế lực thù địch về chủ nghĩa cộng sản vô thần chống tôn
giáo, vi phạm nhân quyền, dân chủ, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo. Mặt khác, hạn chế mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của các tôn giáo
tạo cơ sở cho sự đồng thuận xã hội. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh" chính là điểm tương đồng, là mạch kết nối,
nơi gặp gỡ giữa giá trị nhân bản trong tôn giáo với giá trị nhân văn của chủ
nghĩa xã hội, có tác dụng huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc
trong công cuộc đổi mới đất nước. Tín ngưỡng hay không tín ngưỡng là
quyền tự do lựa chọn của mỗi công dân. Phấn đấu cho sự phồn vinh của Tổ
quốc và hạnh phúc của nhân dân là lý tưởng thiêng liêng chung cho mọi
người, là mục tiêu mà công cuộc xây dựng xã hội mới của chúng ta đang
hướng tới, đồng thời cũng chính là ước vọng mà các tôn giáo theo đuổi. Đó
chính là mẫu số chung để gắn kết đồng bào các tôn giáo với toàn thể nhân
dân trong khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Mục đích cao cả của Phật Thích ca và
Chúa Giêsu đều giống nhau: Thích ca và Giêsu đều muốn mọi người có cơm
ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng" 6. Còn: "Chúng ta kháng
chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng đất
làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Như thế những việc Chính
phủ và nhân dân ta làm, đều hợp với tinh thần Phúc âm" 7. Kế thừa tư tưởng

ấy, Đảng ta xác định rõ nhiệm vụ: "Giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức
bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc, làm cho các tôn giáo gắn bó với dân
tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc"8.
Mỗi tôn giáo đều có những hạt nhân triết học hợp lý, có giá trị nhân văn
sâu sắc, như đức "từ bi" của Phật giáo, lòng "nhân nghĩa" của đạo Cao Đài
và Phật giáo Hòa Hảo, tư tưởng "bác ái" của đạo Kitô, truyền thống uống
nước nhớ nguồn, lòng tự hào, tự tôn dân tộc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Đó chính là chân giá trị mà nhân loại cũng như dân tộc ta luôn hướng tới. Hồ
Chủ tịch đã đúc kết một cách sâu sắc những giá trị đạo đức của các tôn giáo
lớn. Người viết: "Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy:
Đạo đức là từ bi. Khổng tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” 9. Đại đa số đồng
bào tôn giáo ở nước ta đều có tinh thần yêu nước, đồng hành cùng dân tộc
trong quá trình chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước, tham gia vào
xây dựng và giữ gìn bản sắc dân tộc, đó là chủ nghĩa yêu nước, dân tộc và
quốc gia có chủ quyền.


Để phát huy được những điểm tương đồng ấy đòi hỏi phải kết hợp một
cách biện chứng giữa lợi ích chung của sự phát triển đất nước với lợi ích cụ
thể của đồng bào có đạo trên cả hai mặt đời sống vật chất và đời sống tinh
thần, trong đó có nhu cầu về đời sống tâm linh tôn giáo. Đây chính là động
lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước trong đồng bào các tôn giáo nhằm
thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội và phương châm, định hướng hành đạo
gắn bó với dân tộc, tuân thủ pháp luật của các tôn giáo. Phát huy những
điểm tương đồng, hướng về mục tiêu chung của công cuộc đổi mới đất nước
có tác dụng huy động sức mạnh tiềm năng của đồng bào các tôn giáo, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giúp đồng bào các tôn giáo đấu tranh
chống các thế lực lợi dụng tôn giáo gây mất đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn
giáo.

2.1.2. Hoạt động tôn giáo trái pháp luật
2.1.2.1. Đất đai, cơ sở thờ tự
Theo thống kê của Ban tôn giáo tỉnh, hiện nay trên toàn tỉnh có 22.195
cơ sở thờ tự các loại, trong đó có nhiều cơ sở được xây dựng mới và trùng tu
rất khang trang. Nơi thờ tự là một trong những điều kiện đảm bảo cho sinh
hoạt tín ngưỡng của tín đồ. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách đối với nơi
thờ tự của các tôn giáo còn một số vấn đề bất cập và một số vấn đề mới đặt
ra phải giải quyết - cả về nội dung chính sách và công tác hướng dẫn quản
lý. Do nhiều năm không được tu bổ sửa chữa, xây dựng nơi thờ tự nên
những năm gần đây đã xuất hiện nhu cầu bức xúc về xây, sửa và tâm lý tranh
thủ việc Nhà nước “đổi mới” để làm nhanh, làm với quy mô lớn.
Hiện tượng xây, sửa nơi thờ tự không xin phép hoặc có xin phép nhưng
thực hiện sai phép còn diễn ra ở nhiều nơi. Trong việc xây dựng, tu sửa nơi
thờ tự của các tôn giáo có hiện tượng khá phổ biến là làm không đúng giấy
phép đã cấp. Tình hình đó một mặt do ý thức chấp hành pháp luật của Giáo
hội chưa tốt; mặt khác, các ngành chức năng giải quyết đất đai chậm và để
kéo dài, thủ tục rườm rà, phức tạp. Không ít trường hợp từ khâu cấp đất đến
duyệt thiết kế, cấp giấy phép xây dựng nhanh nhất là 6 tháng còn lâu nhất là
3 - 4 năm, vì phải qua nhiều cửa. Công tác quản lý việc tu bổ, sửa chữa, xây
mới cơ sở tôn giáo còn nhiều sơ hở, lỏng lẻo và có lúc chưa kiên quyết.


Chưa phân cấp quản lý rõ ràng, chưa đảm bảo nguyên tắc phối hợp đồng bộ
giữa các cấp, các ngành để dẫn đến vi phạm pháp luật, đặt chính quyền các
cấp vào việc đã rồi... Không ít trường hợp cấp cơ sở giải quyết vượt thẩm
quyền, hoặc trái chức năng. Ngành xây dựng sau khi duyệt bản vẽ thiết kế,
cấp giấy phép xây dựng đã thiếu kiểm tra, giám sát việc thi công công trình.
Sau khi giải quyết xong tổ chức FULRO và cấm đạo Tin lành hoạt
động, chính quyền địa phương đã tiếp quản một số cơ sở thờ tự của đạo Tin
lành. Một số cơ sở thờ tự được sử dụng vào mục đích công cộng, một số thì

giữ nguyên hiện trạng. Do Nhà nước đã buông lỏng quản lý nên đã để cho
nhân dân tháo dỡ hoàn toàn 30 cơ sở thờ tự của Tin lành hệ phái “Hội Liên
hiệp Phúc âm và truyền giáo”. Hiện nay, Nhà nước đang làm thủ tục để công
nhận tư cách pháp nhân cho hệ phái này. Sau khi được công nhận tư cách
pháp nhân, họ sẽ đòi lại những cơ sở thờ tự. Đây là vấn đề khó khăn cho
chính quyền.
2.1.2.2. Về quản lý các hội đoàn và dòng tu Công giáo
Quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, đồng thời cũng là lực lượng có
thể phủ định lịch sử. Trong quá trình thực hiện mục tiêu chính trị của mình,
bất kỳ một giai cấp, một tầng lớp hoặc một tổ chức xã hội nào cũng đều
quan tâm tới việc lôi kéo quần chúng làm lực lượng hậu thuẫn. Cuộc đấu
tranh để giành giật quần chúng giữa lực lượng cách mạng và phản cách
mạng được coi là một bộ phận quan trọng; có tính chiến lược, quyết định tới
việc hoàn thành các mục tiêu của mỗi bên trong đấu tranh. Thực tiễn cuộc
đấu tranh chống các thế lực phản động lợi dụng Giáo hội Công giáo cho
thấy: để tập hợp lực lượng, củng cố thế lực cho Giáo hội, bọn phản động
trong Giáo hội luôn tìm mọi thủ đoạn để đoàn ngũ hóa giáo dân, cột chặt
giáo dân vào tổ chức của mình bằng các tổ chức do Giáo hội lập ra. Thông
qua các tổ chức đó hoặc thông qua các hoạt động tôn giáo dưới nhiều hình
thức khác nhau, đặc biệt là mua chuộc bằng vật chất, vỗ về, an ủi với những
người gặp hoàn cảnh éo le, trắc trở trong cuộc sống mà tiêm nhiễm tư tưởng
chống cộng cho họ. Hiện nay, trong hoạt động giành giật quần chúng với ta,





×