1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài, nhà tư tưởng lỗi lạc, người thầy
kính yêu của Đảng và dân tộc ta, người cha thân yêu của lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam, luôn chăm lo xây dựng, giáo dục và rèn luyện Công an
nhân dân trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt. Người để lại cho toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, trong đó có lực lượng Công an nhân dân tư tưởng và
những lời dạy quý báu. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân đã trở
thành di sản tinh thần thiêng liêng, là nền tảng lý luận, là kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của lực lượng Công an nhân dân, góp phần quan trọng làm
nên những chiến công to lớn, thành tích xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Ngay từ khi chính quyền cách mạng mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xác định rõ bản chất cách mạng của Công an nhân dân: “Công an nhân
dân hoàn toàn khác Công an đế quốc. Công an đế quốc là nanh vuốt của đế
quốc để hà hiếp áp bức đa số nhân dân... Công an nhân dân phải là kiểu
mẫu, phải là người chuyên trách thi hành chính sách, phương châm của
Đảng, Chính phủ cho tốt. Công an nhân dân phải thực sự phục vụ nhân
dân”. Người nhấn mạnh: “Mỗi người công an phải là một chiến sĩ... Tôi
mong rằng toàn thể Công an sẽ cố gắng thi đua để lập công trong cuộc
thắng lợi chung”. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu
tranh giải phóng miền Nam, về yêu cầu, nhiệm vụ công tác công an trước
Đảng, Tổ quốc và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đối với nhân
dân, đối với Đảng, với cách mạng xã hội chủ nghĩa, trách nhiệm của công
an rất lớn, rất nặng nề”, “nhiệm vụ công an thì nhiều, nhưng nói tóm tắt là
bảo vệ sự nghiệp xã hội chủ nghĩa... Đó là nhiệm vụ nặng nề, gian khổ đồng
thời cũng rất vẻ vang”. Trong bài nói tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ
10, tháng 1 năm 1956, Người nhấn mạnh: “Nhân dân ta có hai lực lượng.
Một là quân đội, để đánh giặc ngoại xâm, để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn hòa
bình. Một lực lượng nữa là Công an, để chống kẻ địch trong nước, chống
bọn phá hoại. Có lúc chiến tranh, có lúc hòa bình. Lúc chiến tranh thì quân
đội đánh giặc, lúc hòa bình thì tập luyện. Còn Công an thì phải đánh địch
thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hòa bình lại càng nhiều việc”. Có
thể khẳng định rằng, vai trò của Công an nhân dân được chủ tịch Hồ Chí
2
Minh xác định rất lớn đối với đất nước, hơn hết Người đã xây dựng tư tưởng
cho lực lượng Công an một cách sáng tạo, như tăng thêm sức mạnh, sinh khí
cho lực lượng khi tham gia bảo vệ Tổ quốc. Để xứng đáng là một lực lượng
vũ trang của đất nước, Công an nhân dân phải ý thức được sâu sắc vai trò,
trách nhiêm, nghĩa vụ của mình đối với dất nước, với đồng bào. Ngày nay,
lực lượng Công an nhân dân đã phát huy được truyền thống quý báu của dân
tộc, đã phần nào tiếp thu được tư tưởng Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức
của Người, xứng đáng là lực lượng bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, một bộ phận
không nhỏ nằm trong lực lượng Công an nhân dân chưa tiếp thu được tư
tưởng của Hồ Chí Minh và không hiểu được vai trò, trách nhiệm của mình
đối với nhân dân làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Không
những vậy, một số người làm tổn hại đến lực lượng Công an, bằng những
hành động khác nhau của họ.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
là việc quan trọng trong bối cảnh hiện nay bởi lẽ nó sẽ góp phần hoàn thiện
lực lượng vũ trang bảo vệ cho Tổ quốc. Vì vậy, nhằm làm sáng tỏ thêm
những quan điểm của Người về vấn đề này và thực trạng vận dụng vào thực
tiễn hiện nay, tác giả mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh
về Công an nhân dân”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân
dân.
- Nghiên cứu, làm rõ thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
Công an nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
4. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
+ Phương pháp logic - lịch sử
+ Phương pháp thống kê - so sánh
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp
+ Phương pháp chuyên gia
3
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
chia làm hai chương:
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CÔNG AN NHÂN DÂN
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU, VẬN DỤNG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG AN NHÂN DÂN VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
4
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CÔNG AN NHÂN DÂN
1.1 Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
1.1.1 Cơ sở lý luận
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiến dâng cả cuộc đời và sự nghiệp của mình
cho dân tộc và nhân loại. Con người, cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của
Người là một chỉnh thể thống nhất, ở đó có mối liên hệ hữu cơ không thể tách
rời giữa tư tưởng và hành động, giữa lý luận và thực tiễn, trong suy nghĩ và
cách ứng xử của Người. Cả cuộc đời Người hành động để cứu dân, cứu nước,
cho nước nhà được độc lập, đồng bào ta được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành, mọi người tiến bộ, sống nhân ái, hạnh phúc - đó
là lẽ sống của Người. Mục đích học tập, nghiên cứu lý luận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là để phục vụ cho hoạt động cách mạng, để tổ chức hoạt động thực
tiễn. Vì vậy, các bài nói, bài viết của Người đều rất mộc mạc, giản dị, gần gũi
với mọi tầng lớp nhân dân. Với trí tuệ thiên tài, học vấn uyên bác và kinh
nghiệm vốn sống phong phú, nhưng để cho nhân dân dễ hiểu và làm theo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn cách nói, cách viết mà ở bên trong, ở đằng sau
những câu, những chữ ấy chứa đựng những tư tưởng rộng lớn, những triết lý
sâu sa, lý luận gắn liền và hoà quyện với thực tiễn.
Mục đích học tập, nghiên cứu lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là để
phục vụ cho hoạt động cách mạng, để tổ chức hoạt động thực tiễn. Vì vậy, các
bài nói, bài viết của Người đều rất mộc mạc, giản dị, gần gũi với mọi tầng lớp
nhân dân. Với trí tuệ thiên tài, học vấn uyên bác và kinh nghiệm vốn sống
phong phú, nhưng để cho nhân dân dễ hiểu và làm theo, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chọn cách nói, cách viết mà ở bên trong, ở đằng sau những câu, những
chữ ấy chứa đựng những tư tưởng rộng lớn, những triết lý sâu sa, lý luận gắn
liền và hoà quyện với thực tiễn. Khi đề cập tới lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh
trình bày các vấn đề lý luận không trừu tượng mà rất thực tiễn, lý luận thấm
sâu vào thực tiễn, biến thành tư tưởng để chỉ đạo hành động cách mạng bằng
năng lực tư duy khoa học độc lập, sáng tạo, linh hoạt và vô cùng sâu sắc.
Người nắm chắc cái thực chất của lý luận, dùng tinh thần của lý luận để soi
sáng thực tiễn; không nói câu chữ, câu nệ sách vở, hay gò bó bằng các khái
niệm, phạm trù phức tạp khó hiểu. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lý
luận phải đem ra thực hành, thực hành phải nhằm theo lý luận”; “Lý luận
cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đich để bắn”.
5
Người luôn sử dụng lý luận là kim chỉ nam cho hành động, nên trong từng
câu, từng chữ của Người, lý luận luôn bám sát thực tiễn, phân tích thực tiễn
với sự am hiểu sâu sắc và làm chủ lý luận, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và
thực tiễn, thực tiễn với lý luận ở trình độ trí tuệ cao, đầy tính sáng tạo. Chủ
tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh: trong hoạt động thực tiễn, bất cứ
làm việc gì muốn thành công phải có lý luận dẫn đường, công tác lý luận tư
tưởng luôn có vai trò quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng. Người cho rằng: “Cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ, phải
giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”; “Đảng mà không có chủ nghĩa,
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Đồng thời,
Người chỉ rõ: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng
ta trong công việc thực tế”; và “Không có lý luận thì lúng túng như người
nhằm mắt mà đi”. Người căn dặn: phải kiên quyết chữa các bệnh kém lý luận,
coi khinh lý luận “chỉ có thực hành mà không có lý luận cũng như có một mắt
sáng, một mắt mù”; “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế, lý luận mà
không áp dụng vào thực tế là lý luận suông”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một nguyên tắc nhất quán trong học tập,
nghiên cứu, vận dụng lý luận, đó là lý luận gắn liền với thực tiễn và tổng kết
thực tiễn để phát triển lý luận. Theo Người, lý luận luôn gắn bó hữu cơ không
thể tách rời thực tiễn, lý luận bắt nguồn từ sự khái quát thực tiễn. Khái quát
hoá thực tiễn là hợp điểm giữa lý luận và thực tiễn, giữa nhận thức và hành
động là sự chuyển hoá giữa lý luận và thực tiễn. Tổng kết thực tiễn, khái quát
lý luận, nguyên tắc ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện một cách triệt
để, được kết tinh trong con người, trong cuộc sống, trong suy nghĩ, hành động
và trở thành nét đặc sắc trong tư tưởng của Người. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn căn dặn, nhắc nhở cán bộ, đảng viên: Lý luận phải liên hệ với thực
tiễn, học phải đi đôi với hành, phải kiên quyết chống tình trạng lý luận suông
và thực hành mù quáng; học tập, nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lê-nin là
phải nắm vững tinh thần và phương pháp của nó để ứng xử với mọi người và
xử trí mọi công việc; dùng lý luận là kim chỉ nam cho hành động, chứ không
phải thuộc lòng câu chữ, cũng không máy móc giáo điều, mà phải vận dụng lý
luận vào thực tiễn một cách sáng tạo, phù hợp, hiệu quả. Người phê phán:
“Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra
thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách”. Để nắm vững bản chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng đúng đắn sáng tạo vào
6
điều kiện, tình hình cụ thể của cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn,
Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và hệ
thống các học thuyết nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa Mác-Lênin; trong đó
mỗi luận điểm cần phải được nghiên cứu nghiêm túc với thái độ khách quan
gắn với quá trình phát triển, điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể, phạm vi,
nhiệm vụ, mục đích nó phải giải quyết; đồng thời, phải gắn với nghiên cứu,
quán triệt cương lĩnh chính trị, đường lối chính sách của Đảng, kiên quyết đấu
tranh không khoan nhượng với mọi âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế
lực thù địch, bảo vệ sự trong sáng của học thuyết Mác-Lênin, đường lối, quan
điểm của Đảng; kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu lý luận và khảo sát, tổng kết
thực tiễn để không ngừng bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải có động cơ, thái độ, trách nhiệm học tập
đúng đắn là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự đoàn
thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Lý luận phải gắn liền với
hành động. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự giác học tập, nghiên
cứu, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực công tác; nâng cao giác ngộ cách
mạng, có lập trường tư tưởng, bản lĩnh vững vàng, kiên định, nói phải đi đôi
với làm, đổi mới cách nghĩ, cách làm, nói và làm theo nghị quyết, kiên định
những vấn đề quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng. Lý luận gắn liền với
thực tiễn theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đòi hỏi mỗi cán bộ,
đảng viên phải thường xuyên tự giác tu dưỡng, rèn luyện giữ gìn và nâng cao
đạo đức cách mạng. Chính Người và cả cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người là tấm gương sáng ngời, vĩ đại nhất về đạo đức cách mạng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên phải có đức và
tài, trong đó đức là gốc. Những chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ,
đảng viên đã được Người nhiều lần chỉ rõ: tuyệt đối trung thành với Đảng;
trung với nước, hiếu với dân; ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của
Đảng; quyết tâm suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng; hoàn cảnh nào,
người đảng viên, cán bộ cũng phải đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của
nhân dân lên trên hết, trước hết; kiên quyết dũng cảm, chiến thắng chủ nghĩa
cá nhân… Để tự tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng và lối sống theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, một mặt đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác, kiên
trì và bền bỉ phấn đấu “cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong”. Mặt khác, các cấp ủy, tổ chức đảng trước hết là từng chi bộ phải
tăng cường giáo dục, rèn luyện và thông qua quản lý, kiểm tra giúp cho cán
7
bộ, đảng viên không ngừng rèn luyện trau dồi đạo đức cách mạng và lối sống
trong sạch lành mạnh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận gắn liền với thực tiễn giúp cho chúng
ta nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ biện chứng tác động qua
lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt động thực
tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động lực
của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý để không rơi vào chủ nghĩa giáo điều,
kinh viện và chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh
sách vở, thói lý luận suông.
1.1.2 Cơ sở thực tiễn
Công an là lực lượng trọng yếu tuyệt đối tin cậy của Đảng, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, được nhân dân hết lòng
thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ, lực lượng Công an nhân dân đã vượt qua
muôn vàn khó khăn, thử thách; đoàn kết, tận tụy trong công tác; dũng cảm,
mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, góp phần đánh thắng mọi âm mưu, hoạt
động chống phá tinh vi, xảo quyệt, thâm độc của các thế lực thù địch, phản
động và các loại tội phạm, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự,
an toàn xã hội trong mọi tình huống, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân giao phó.
Lịch sử 70 năm Công an nhân dân khẳng định sự lãnh đạo sáng suốt,
đúng đắn của Đảng trong việc vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự
và xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Ở mỗi giai đoạn cách mạng, căn cứ tình hình, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm
vụ chính trị của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự của đất
nước, Đảng ta luôn đề ra các chủ trương, định hướng xây dựng lực lượng
Công an nhân dân. Các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác xây
dựng lực lượng Công an nhân dân liên tục được bổ sung, phát triển phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ công tác bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và được khẳng định qua các kỳ
Đại hội của Đảng.
Lý luận gắn liền với thực tiễn theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
còn đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự giác tu dưỡng, rèn
luyện giữ gìn và nâng cao đạo đức cách mạng. Chính Người và cả cuộc đời
8
hoạt động cách mạng của Người là tấm gương sáng ngời, vĩ đại nhất về đạo
đức cách mạng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên phải có
đức và tài, trong đó đức là gốc. Những chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán
bộ, đảng viên đã được Người nhiều lần chỉ rõ: tuyệt đối trung thành với Đảng;
trung với nước, hiếu với dân; ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của
Đảng; quyết tâm suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng; hoàn cảnh nào,
người đảng viên, cán bộ cũng phải đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của
nhân dân lên trên hết, trước hết; kiên quyết dũng cảm, chiến thắng chủ nghĩa
cá nhân…
Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng chỉ đạo, ra sức học tập, làm theo lời dạy
của Bác Hồ, hơn lúc nào hết, lực lượng công an nhân dân nguyện tiếp tục phát
huy truyền thống anh hùng vẻ vang, nêu cao tinh thần đoàn kết, thường xuyên
tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, hun đúc bản lĩnh chính trị
vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ
quốc và nhân dân, chấp hành nghiêm kỷ luật, tận tụy với công việc, nêu cao
tinh thần phục vụ nhân dân; phối hợp chặt chẽ với Quân đội nhân dân, với các
bộ, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội và dựa vào nhân dân,
xây dựng lực lượng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm vững chắc an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, góp phần tích cực vào việc thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng đối ngoại của đất
nước để mãi mãi xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
1.1.3 Khái niệm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết,
hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Các nội dung trong tư tưởng Hồ
Chí Minh được hình thành và phát triển gắn với các thời kì hoạt động của Hồ
Chí Minh trong phong trào cách mạng Việt Nam và quốc tế vào đầu và giữa
thế kỷ 20.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính
thống của Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, được
9
chính thức đưa ra từ Đại hội VII của Đảng. Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt
Nam cùng các quan điểm chính thống ở Việt Nam hiện nay đều thống nhất
đánh giá Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa
Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và coi tư tưởng Hồ Chí Minh
đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam và
của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy Chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động và thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tăng cường tuyên
truyền thúc đẩy việc học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở tất cả các
tầng lớp trong xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân là một bộ phận cấu thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về an ninh, trật tự. Đó được xem là các hệ thống các
quan điểm cơ bản về xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững
mạnh, xây dựng tư cách người Công an cách mạng; là sự vận dụng sáng tạo,
phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng, tổ chức và sử dụng
bạo lực cách mạng; kế thừa và phát huy kinh nghiệm xây dựng và tổ chức lực
lượng bảo vệ, xây dựng của đất nước dân tộc Việt Nam, xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng do Đảng lãnh đạo; tiếp thu tri thức, kinh nghiệm xây
dựng và tổ chức lực lượng giành và giữ chính quyền của các cuộc cách mạng
tiến bộ trên thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân là một chỉnh thể thống
nhất, sâu sắc và toàn diện về yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng đấu tranh, phương
châm hành động, biện pháp công tác, mục tiêu phấn đấu, cống hiến, tu dưỡng,
rèn luyện, chuẩn mực đạo đức, lối sống của cán bộ, chiến sĩ công an, đến nay
vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Học tập và thực hiện Sáu
điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân đã trở thành phong trào thi đua rộng lớn,
liên tục trong Công an nhân dân suốt 70 năm qua, luôn là nội dung trọng tâm
công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị, tư tưởng của lực lượng công an
nhân dân trong các giai đoạn cách mạng trước đây, cũng như trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tích cực và chủ động hội
nhập quốc tế ngày nay.
Bên cạnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân cũng là sự
phản ánh thực tiễn đa dạng, phong phú của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc, bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong
suốt hơn nửa thế kỷ qua kể từ khi Đảng của giai cấp công nhân trở thành
10
Đảng cầm quyền năm 1945. Hiện thực đó quy định chức năng và nhiệm vụ
của các công cụ chuyên chính của giai cấp công nhân là bảo vệ Nhà nước
mới, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động như là tất yếu khách quan, là một quy luật của tiến trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, gay go nhất và dữ
dội nhất cả về quy mô, tính chất và phương pháp.
1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân
1.2.1 Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy Công an
Bộ máy tổ chức Công an nhân dân là một thành tố trong bộ máy chính
quyền nhà nước và là một cơ quan trọng yếu của Chính phủ. Chính vì vậy,
mục đích hoạt động cao nhất của Công an nhân dân, đảm bảo cuộc sống bình
yên, hạnh phúc của nhân dân và giữ vững nền trật tự an ninh đất nước. Hồ Chí
Minh từng nói: “Công an phải nhận rõ nhiệm vụ là bảo vệ và phục vụ nhân
dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân dân”; “Làm công an không phải
làm cách mạng, làm công an là để giữ trật tự an ninh cho nhân dân”. Do đó,
tất yếu Đảng phải chăm lo xây dựng tổ chức và bộ máy Công an, xây dựng hệ
thống các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm, tác phong, lề lối công tác của
người cán bộ chiến sĩ công an sát dân, gắn với địa bàn cơ sở và phải thực sự
trở thành “người công bộc” của khu dân cư. Bên cạnh đó,bộ máy Công an vừa
là lực lượng chuyên chính tin cậy của Đảng, là vũ khí sắc bén của Nhà nước
và nhân dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm bảo vệ nền
an ninh, trật tự của đất nước, nhưng đồng thời cũng là một tổ chức chính trị
mang tính nhân văn sâu sắc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, thự hành dân
chủ cho nhân dân. Hồ Chí Minh nhất quán kiên trì và nhiều lần nêu rõ quan
điểm: “Công an là bạn dân”, vì nhân dân mà phục vụ. Do đó, Công an phải
luôn gần gũi, giúp đỡ nhân dân trong mọi công việc, trong cả đời sống sinh
hoạt hàng ngày ở địa bàn cơ sở. Tuy nhiên, do tính chất đa dạng, phức tạp
trong hoạt động nghiệp vụ chuyên môn của của công tác công an, cho nên Hồ
Chí Minh yêu cầu phải xây dựng bộ máy tổ chức của công an phải rất tốt, rất
chắc chắn, nhưng lại phải giản đơn, thiết thực và mang tính dân chủ cao. Và
để làm tốt được điều đó, quan điểm xây dựng bộ máy Công an nhân dân của
chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện như:
Thứ nhất, xây dựng tổ chức bộ máy Công an phải gắn bó với nhân dân,
lấy dân làm gốc và phục vụ nhân dân.
11
Ngay từ những năm đầu thành lập Công an nhân dân, Bác căn dặn:
Công an nhân dân hoàn toàn khác Công an đế quốc, Công an đế quốc là nanh
vuốt của đế quốc để hà hiếp áp bức nhân dân. Về tư cách người Công an cách
mệnh, Bác nhấn mạnh: “ Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”, đồng
thời người nhắc nhở: “Cần thường xuyên làm cho anh chị em Công an nhận
rõ Công an của ta là Công an nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ và dựa vào
nhân dân mà làm việc”. Trong thư gửi Hội nghị Công an toàn quốc vào tháng
1/1950, Bác đã cân dặn: “ Xây dựng bộ máy công an nhân dân. Tức là công
an phải có tinh thần phục vụ nhân dân, là bạn dân. Đồng thời phải dựa vào
các đoàn thể mà tổ chức và giáo dục nhân dân trong công việc phòng gian
trừ gian, để nhân dân thiết thực giúp đỡ công an.
– Cách tổ chức công an phải giản đơn, thiết thực, tránh cái tệ quá hình
thức, giấy má.
– Lề lối làm việc phải dân chủ. Cấp trên phải thường kiểm tra cấp
dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên. Giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến,
giúp nhau tiến bộ. Tự phê bình và phê bình nhau theo tinh thần thân ái và lập
trường cách mệnh.
– Phải hoan nghênh nhân dân phê bình công an, để đi đến hiểu công
an, yêu công an, và giúp đỡ công an”.
Như vậy, chúng ta thấy được, Bác đã tâm niện được Công an của ta là
Công an của nhân dân, suốt đời phấn đấu phục vụ nhân dân. Trong quan hệ
với nhân dân cần phải tôn trọng, có tác phong, thái độ lịch sự kính trên
nhường dưới, yêu trẻ, tôn trọng phụ nữ. Từ trong sinh hoạt, hay đối tượng
quan hệ mà có thái đội ứng xử phù hợp với nhân dân. Ngoài ra, Người củng
bày tỏ quan điểm với các chiến sĩ Công an nhân dân phải có thái độ làm việc
dân chủ, có kỷ cương kỷ luật tốt, phục tùng mệnh lệnh của cấp trên. Không
những vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cao công tác phê bình và tự phê bình
đối với lực lượng Công an nhân dân. Bác căn dặn trong 10 lần phê bình cũng
có lần đúng, có lần không đúng; đúng thì nhận, không đúng thì Công an phải
giải thích. Người chỉ rõ: “Phải hoan nghênh nhân dân phê bình Công an, để
đi đến chổ hiểu Công an, yêu Công an và giúp đỡ Công an”. Trong quan
niệm của Bác, chính quyền của nhà nước ta là của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, do đó làm Công tác Công an đều phải làm đầy tớ cho dân, vì chính
quyền do nhân dân làm chủ.
12
Bên cạnh đó, Công an nhân dân chiến đấu bảo vệ hạnh phúc của nhân
dân, “lấy dân làm gốc” để phục vụ nhân dân, và đây chính là sợi dây suyên
suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo Người, để thực sự “lấy dân làm gốc”,
chúng ta cần:
Một là, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân
Hai là, làm tốt công tác dân vận
Ba là, nâng cao trách nhiệm của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng
Trong điều kiện hiện nay, phát huy quyền làm chủ của nhân dân được coi là
một biểu hiện tập trung của tư tưởng “lấy dân làm gốc”, là một yếu tố bảo
đảm sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam, của Công an nhân dân Việt Nam.
Chính quyền thuộc về tay nhân dân, nhân dân được xem là gốc của một đất
nước.
Công an nhân dân chiến đấu bảo vệ hạnh phúc, ấm no của nhân dân,
nên cần phải dựa vào lực lượng nhân dân để chống lại kẻ thù, các tổ chức
phản động trong và ngoài nước, phải tổ chức nhân dân “thàn mạng lưới Công
an nhân dân”. Nếu xa rời nhân dân thì dù tài giỏi đến mấy cũng không thể
hoàn thành tốt được nhiệm vụ. Bác nhắc nhở: “Mỗi Công an viên đóng chổ
nào thì dạy cho dân quân, tự vệ nơi đó cách điều tra, xét giấy, phong gian…
Dạy cho dân ở nơi đó giữ bí mật”. Công an phải ra sức phát động, tuyên
truyền quần chúng than gia phong trào bảo vệ an ninh, trật tự, giáo dục quần
chúng nâng cao tinh thần làm chủ đất nước, tránh bị tác động, lôi kéo của kẻ
xấu, của các thế lực thù địch chống phá nhà nước ta, tích cực chống gián điệp
biệt kích. Muốn đạt được kết quả đó, thì Công an phải cố gắng vượt mọi khó
khắn, làm tròn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang của Công an cách mạng,
xứng đáng lòng tin cậy của nhân dân, của Đảng và Chính phủ giao phó.
Thứ hai, xây dựng bộ máy Công an nhân dân luôn gắn liền với xây
dựng và hình thành phong cách, lề lối công tác khoa học, tính chính quy, tinh
nhuệ của lực lượng Công an nhân dân.
Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định tới kết quả thực
hiện nhiệm vụ chính trị. Phong cách tư duy khoa học của lực lượng Công an
thể hiện trong công tác chỉ đạo, tổ chức diều hành công việc, trong hoạt động
chuyên môn nghiệp vụ và cả trong tác phong sinh hoạt hàng ngày của của đội
ngũ cán bộ chiến sĩ.
Phong cách của Công an nhân dân là sự kết hợp nhuần nhuyễn tính
cách mạng và tính khoa học, thống nhất từ tư duy đến hành động, từ lý luận
13
đến thực tiễn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Công an cách mạng là một vũ khí cách
mạng sắc bén của chuyên chính vô sản”. Nhấn mạnh tính chất chuyên chính
của Công an là nhấn mạnh yếu tố cách mạng, bản chất giai cấp, bản lĩnh chính
trị, tinh thần giác ngộ và ý chí chiến đấu cao của lực lượng Công an nhân dân.
Tuy nhiên, tính cách mạng chuyên chính của lực lượng Công an luôn đi dôi,
gắn liền với tính dân chủ, tính nhân dân rất sâu sắc. Hồ Chí Minh nhiều lần
chỉ rõ: “Dân chủ và chuyên chính đi đôi với nhau. Muốn dân chủ thực sự
phải chuyên chính thực sự vì không chuyên chính thực sự bọn thù địch sẽ làm
hại dân chủ của nhân dân…dân chủ và chuyên chính thật sự quan hệ mật thiết
với nhau”.
Trong xây dựng bộ máy Công an, chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng gắn liền với công tác tổ chức với xây dựng nhân tố con người và lề lối,
tác phong làm việc dân chủ trong Công an nhân dân. Người đòi hỏi mỗi tổ
chức, cán bộ Công an phải luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng,
trước dân, đề cao tính kỷ luật và có thái độ dứt khoát, không ba phải nể nang,
bao che; phải thường xuyên tự mình đấu tranh tư tưởng giữa tư tưởng cộng
sản và tư tưởng cá nhân, phải nêu cao đạo dức cách mạng, tu dưỡng tư tưởng,
rèn luyện tác phong, công tác khoa học, gương mẫu học tập. Trong bài nói
chuyện tại Hội nghị Công an toàn quốc, ngày 15/1/1950, Bác chỉ rõ: “Lề lối
làm việc phải dân chủ. Cấp trên phải thường kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới
phải phê bình cấp trên. Giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến, giúp nhau tiến
bộ. Tự phê bình và phê bình theo tinh thần thân ái và lập trường cách mệnh”.
Trong khi nói chuyện tại trường Công an Trung ương, ngày 28/1/1958, Bác
căn dặn cán bộ chiến sĩ Công an: “Phải đề cao tổ chức,đề cao kỷ luật, chống
chủ nghĩa ba phải; phải trái, phải dứt khoát, phải rõ ràng, không được nể
nang”.
Ngoài ra, mỗi cán bộ chiến sĩ Công an khi thực hành lề lối, tác phong
làm việc phải thực sự dân chủ, nhất là trong nội bộ công an là phải luôn luôn
phê bình và tự phê bình, kiểm thảo tất cả công việc. Phê bình phải dựa trên
công tác cách mạng, phê bình để tiến bộ, không phải để xoi mói, gây mất
đoàn kết nội bộ. Phê bình phải thường xuyên như rửa mặt hằng ngày, “kiểm
thảo ở đây không phải là xong, là đủ mà còn phải tiếp tục luôn luôn phê bình,
tự phê bình, kiểm thảo trong mọi công việc”. Mặt khác phải ra sức khuyến
khích cho nhân dân phê bình công an, để đi đến hiểu công an, yêu công an, và
giúp đỡ công an, đừng sợ nhân dân hiểu lầm công an. Người đã căn dặn về lề
14
lối làm việc của lực lượng Công an, “công tác phải tích cực, phải khẩn trương,
phải bền bỉ”.
Theo Người, lực lượng Công an nhân dân phải được tổ chức chặt chẽ từ
trên xuống dưới. Người luôn chú ý đến việc củng cố, tăng cường cho tổ chức
bộ máy cơ sở, tránh tình trạng trên to dưới bé. Người quan niệm, hầu hết các
hoạt động của kẻ thù, của các thế lực đen tối và tội phạm; các hoạt động vi
phạm pháp luật đều diễn ra ở cơ sở. Kinh nghiệm, sáng kiến và cả lý luận đấu
tranh bảo vệ an ninh trật tự cũng nảy nở và được đúc kết trong các hoạt động
thực tiễn được tiến hành tại các địa bàn chiến lược này. Vì vậy, để phát huy
vai trò tổ chức bộ máy của lực lượng Công an nhân dân nhằm phục vụ cuộc
đấu tranh một cách hiệu quả thì phải quan tâm xây dựng và củng cố thật tốt.
Cùng với đó, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chủ trương ưu tiên việc tăng
cường bộ máy ở vùng sâu, vùng xa, nơi biên giới, hải đảo. Cán bộ, chiến sĩ
làm công tác ở địa bàn này phải hết sức chú ý tổ chức giáo dục cho nhân dân,
làm cho dân tin, dân phục cán bộ thì dân chúng sẽ hết sức giúp đỡ cán bộ,
chiến sĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Muốn làm thế, “phải nắm vững chính sách
đối với đồng bào thiểu số, đó là điều rất cần thiết”.
Thứ ba, xây dựng bộ máy Công an nhân dân phải thường xuyên kiện
toàn tổ chức, và lề lối làm việc.
Tổ chức của bộ máy không phải là bất biến, cứng nhắc; để đảm bảo có
một sức sống tốt, hoàn thiện thì cần phải thường xuyên kiện toàn đáp ứng mọi
yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong quá trình vận động không ngừng. Ở từng thời
kỳ khác nhau, mà nhiệm vụ chính trị sẽ khác nhau, tổ chức của Công an cũng
phải thay đổi, kiện toàn để đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ chính trị của thời kỳ
mới. Trong quá trình đất nước ngày càng đổi mới, thì nhiệm cụ của Đảng và
Chính phủ rất nặng nề, yêu cầu nhiệm vụ của Công an ngày càng cao, và phức
tạp. Vì vậy, không ngừng hiệu quả cao trong hoạt động, đòi hỏi tổ chức bộ
máy Công an phải thường xuyên thay đổi, kiện toàn đáp ứng yêu cầu của cách
mạng
1.2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về tư cách người Công an
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho lực lượng CAND sự
quan tâm đặc biệt, chăm lo xây dựng lực lượng CAND tuyệt đối trung thành
với sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì nhân dân phục vụ. Bác đã dùng nhiều
cách so sánh khác nhau để nhấn mạnh vai trò của cán bộ, công tác của cán bộ.
Bác xem cán bố là dây chuyên của bộ máy, nếu dây chuyền hoạt động không
15
tốt, thì tất yếu bộ máy cũng hoạt động không tốt, động cơ, mục đích cũng bị tê
liệt theo. Người khẳng định: “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do
cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”. Điều này chứng tỏ rằng
Bác rất coi trọng sự quản lý, ý thức tốt của mỗi cá nhân, đó là công tác đào
tạo cán bộ, và chính cán bộ là một phần của sự nghiệp cách mạng. Người
cũng xác định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng”. Muốn xây dựng tốt con đường XHCN, thì
trong đó một phần lực lượng CAND là những con người trong xã hội chủ
nghĩa. Đó là những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”, vừa có đức, vừa có
tài, trước hết phải có đức bởi vì đức là cái gốc.
Không những vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh còn đòi hỏi người cán bộ
công an phải là những “người kiểu mẫu”, hội tụ đủ các yếu tố đức, tài của
người cán bộ cách mạng, là phải có phẩm chất chính trị cao, bản lĩnh vững
vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân
phải là người gương mẫu về đạo đức, có lối sống lành mạnh, có đủ năng lực
để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có tinh thần kiên định, vững vang, kiên
quyết tấn công kẻ thù, đấu tranh chống các thế lực thù địch, không lùi bước
trước những khó khăn gian khổ. Đó là tất cả những gì chủ tịch Hồ Chí Minh
muốn đối với Công an nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
cán bộ trong lượng CAND, nổi bật lên Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân
dân về Tư cách người Công an cách mệnh mà lực lượng này cần phải thường
xuyên tu dưỡng, khắc sâu ghi nhớ và rèn luyện. Đó là:
“Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính
Đối với cộng sự, phải thân ái, giúp đỡ
Đối với chính phủ, phải tuyệt đối trung thành
Đối với nhân dân, phải kính trọng lễ phép
Đối với công việc, phải tận tụy
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”.
Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân được viết trong thư gửi Công
an khu VII, năm 1948. Và đồng thời cũng thể hiện tưởng của người mang tính
diện, mang tính nhất quán và chứa đựng triết lý một cách nhân sinh sâu sắc về
tư cách, về đạo đức, về lối sống, tác phong công tác và ý thức trách nhiệm
chính trị của lực lượng Công an nhân dân và mỗi cán bộ chiến sĩ.
Những lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh thật sâu sắc, cụ thể đối với
cán bộ, chiến sĩ CAND nói riêng cũng như đối với cán bộ, đảng viên, quần
16
chúng nhân dân. Những lời dạy đó được xem là những di sản tinh thần quý
báu của toàn dân tộc và đặc biệt là đối với CAND. Đến nay, trải qua 60 năm
nhưng nó vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi, nhất là trong bối cảnh Việt
Nam đang chủ động hội nhập quốc tế, vị thế của Việt Nam ngày càng có vai
trò ở khu vực và quốc tế.
Chính vì vậy, lời dạy của Bác Hồ đã góp phần quan trọng trong việc tác
động vào ý thức của cán bộ, của Công an nhân dân và quần chúng nhân dân.
Và điều đó được thể hiện nổi bật qua những nội dung sau đây:
Một là, mỗi cán bộ Công an phải coi trọng hàng đầu việc xây dựng, giữ
gìn, rèn luyện đạo đức Cách mạng. Điều này thể hiện qua tư cách “Đối với tự
mình, phải cần, kiệm, liêm chính”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ đối với
mỗi cán bộ chiến sĩ Công an: “cần, kiệm, liêm, chính” ở đây không phải là
một khẩu hiệu đạo đức mà là một tiêu chuẩn chính trị, là vấn đề quan trọng
hàng đầu và hằng ngày phải chú ý quan tâm, rèn luyện. Việc xem xét tư cách
người Công an cách mạng phải đặt trong mối quan hệ biệ chứng giữa công
việc chuyên môn và việc rèn luyện đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư.
Trong tác phẩm “Đường kếch mệnh” và Di chúc thiêng liêng trước lúc
về cõi vĩnh hằng, Bác đã cân dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiêm, liêm, chính, chí
công, vô tư”. Bác đã cho chúng ta thấy rằng, đây là yêu cầu trước hết, là ưu
tiên, là quan trọng nhất trong tư cách người cán bộ Công an. Đạo đức là thước
đo cho nhân cách, là phẩm chất căn bản mang tính đặc trưng của người cán bộ
công an nói chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng phẩm chất quan trọng đầu
tiên của đạo đức của người chiến sĩ Công an nhân dân trước hết là cần, kiệm,
liêm, chính và Người đặt điều dạy này đầu tiên, mang tính bao trùm toàn bộ
tư cách người cán bộ Công an cách mạng.
Trong tác phẩm Đời sống mới (3/1947), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không
giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm,Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt
của dân”. Bác đã nêu tóm tắt lại các từ cần, kiệm, liêm, chính như sau: Cần
tức là cần cù, siêng năng, cố gắng; Kiệm tức là tiết kiệm, không hoang phí
bừa bãi; Liêm là trong sạch, không tham lam; Chính nghĩa là không tà, nghĩa
là thẳng thắn, đứng đắn. Người chỉ rõ:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
17
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người.”
Như vậy, Bác đã chỉ rõ Cần, Kiêm, Liêm, Chính là “nền tảng của đời sống
mới, của thi đua ái quốc”. Trong trời đất, nếu thiếu đi một mùa thì sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến tự nhiên. Con người cũng vậy, nếu thiếu đi một đức thì ảnh
hưởng lớn đến phẩm chất của một cá nhân, không còn hoàn thiện được mình
nữa.
Cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản để tạo nên phẩm chất đạo
đức của mỗi chiến sĩ Công an. Đây được xem là lời dạy của Bác và được đặt
ở vị trí đầu tiên, vì trong hoạt động của mỗi con người có ba mối quan hệ: đối
với tự mình, đối với người, đối với công việc.
Ở đây, “Cần” trước hết là thái độ đối với công việc, không nề hà việc
lớn, việc bé, bất kỳ công tác gì cũng phải siêng năng, tăng năng suất lao động.
Cần hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa trung bình và thái độ làm việc cầm chừng,
lề mề chậm chạp, hành chính quan liêu.
Yêu cầu cơ bản của “Cần” là phải được năng suất lao động ngày càng
cao, hiệu của lớn. Đối với cán bộ chiến sĩ Công an nhân dân phải thấy hết
vinh dự và trách nhiệm của mình, phải nhiệt tình, say mê với công việc được
giao, từ đó làm việc với tinh thần tự chủ và tự giác cao; không ngại khó khăn,
không sợ gian khổ, sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc và
ngành cần đến. Trong Bài nói tại lớp nghiên cứu khóa I và lớp bổ túc khóa VI
– Trường Công an Trung ương (tháng 12/1958), Bác chỉ rõ: “Công an đánh
địch bên ngoài đã khó, đánh địch bên trong người còn khó khăn hơn. Vì vậy
phải nâng cao kỷ luật, tính tổ chức, chống ba phải, nể nang. Công tác phải đi
sâu và thiết thực. Làm việc phải điều tra, nghiên cứu, không tự kiêu, tự đại.
Phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân thì khuyết điểm mới có thể khắc phục
được và ưu điểm mới có thể phát huy được. Phải đi đường lối quần chúng thì
dân mới tin yêu, giúp Công an và Công an mới thành công được. Phải đoàn
kết nội bộ, đoàn kết với nhân dân và với các nghành khác thì công việc mới
thắng lợi.”. Vì vậy, toàn thể cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân phải cố gắng
vượt mọi khó khăn, làm tròn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang của Công
an cách mạng, xứng đáng lòng tin của nhân dân, của Đảng và Chính phủ.
18
“Kiệm” là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, là điều kiện tận
dụng tốt, đúng mục đích, hợp lý, có hiệu quả những thành quả lao động của
con người. Tiết kiệm là đức tính cơ bản của người lao động, tiết kiệm là biểu
hiện của thái độ coi trọng thành quả lao động. Ngoài ra, “Kiệm” mang nhiều
nội dung mới, ý tưởng mới, nhưng điều quan trọng nhất là theo chủ tịch Hồ
Chí Minh là mỗi người cán bộ Công an phải nêu cao ý thức trách nhiệm đối
với công việc được giao, tiết kiệm thời gian, tiền bạc của Đảng, Chính phủ,
của ngành, của nhân dân; đậc biệt phải hết sức tránh thói rườm rà, làm việc
kiểu hành chính bàn giấy vừa lãng phí thời giờ của nhân dân vừa lãng phí của
cải của ngành và xã hội. Tiết kiệm luôn luôn đi đôi với chống tham ô,lãng phí,
xa hoa, tiêu xài vung tay quá trán.
Đặc biệt, Bác dạy rằng “cần” luôn luôn lải đi đôi với “kiệm” như đôi
chân của một con người mới phát huy được hiệu quả của lao động, của năng
lực, và hai phẩm chất đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Người đã từng
nói, “nếu cần mà không kiệm thì như nước đổ vào thùng không đáy, như gió
vào nhà trống. Vì vậy, cần và kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của một
con người. Kiệm tức là không lãng phí thì giờ, của cải của mình và của nhân
dân”. Mỗi chúng ta không biết tiết kiệm mà cứ tiêu xài hoang phí thì tiền dù
có nhiều đến đâu cũng hết, cũng thất bại. Và đặc biệt hơn, đỗi với mỗi cán bộ
chiến sĩ Công an nhân dân mà không biết tiết kiệm hay không có phẩm chất
“Kiệm” thì làm việc đến đâu cũng không có hiệu quả, gây tổn nhất cho đất
nước.
“Liêm” đối với người Công an được Hồ Chí Minh đề ra rất cao. Liêm
khiết, trong sạch, ham học hỏi, cầu tiến bộ. Tuyệt đối không tham lam, lạm
dụng của công, không tham lam quyền lực, danh vọng, địa vị, tiền tài. Người
chỉ rõ: “Trộm cắp tiền bạc của nhân dân, tổn hại kinh tế của chính phủ cũng là
mật thám, phản quốc, nếu không phải là tệ hơn nữa”. Bác đã nhắc lại một số ý
kiến của các bậc hiền triết ngày trước: Khổng Tử nói: “Người mà không liêm
thì không bằng súc vật”; Mạnh Tử cho rằng: “Ai cũng tham lợi thì nước sẽ
nguy”. Do vậy, Bác yêu cầu mỗi người, nhất là cán bộ lãnh đạo phải thực hiện
tốt chữ liêm, chữ liêm và chữ kiệm phải đi đôi với nhau như chữ kiệm phải đi
đôi với chữ cần. Có kiệm thì mới có liêm được, bởi xa xỉ ắt sinh tham lam,
không giữ được liêm. Bác cũng chỉ rõ ngược lại với chữ liêm là tham ô, là ăn
cắp của công làm của tư, đục khoét nhân dân, tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng
19
của chung của nhà nước làm quỹ riêng cho địa phương mình. Tham ô là trộm
cướp, là kẻ thù của nhân dân. Muốn liêm thật sự thì phải chống tham ô.
Cuối cùng là “Chính”, là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều
gì là không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Nói về chính, Bác viết: “Một
người phải cần, kiệm, liêm nhưng còn phải chính mới là người hoàn hảo. Trên
quả đất có hàng muôn triệu người sống, số người ấy có thể chia thành hai
hạng: Người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc,
song, những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: Việc chính và việc tà. Làm
việc chính là người thiện. Làm việc tà là người tà.
Muốn có đạo đức “liêm”, “chính” thì mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an
nhân dân phải tu dưỡng đạo đức, rèn luyện mình, hết long, hết sức phục vụ
nhân dân, đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân trên lợi ích của bản thân mình là
trên hết, trước hết. Người từng nói: “Công an là bộ máy giữ gìn chính quyền
chống thù ngoài giặc trong, mà còn chủ nghĩa cá nhân là còn có địch ở bên
trong, địch ở trong con người mình. Kẻ địch ấy lại không thể lấy sung bắn vào
được. Phải ra sức phấn đấu rèn luyện tư tưởng mới khắc phục được nó. Khắc
phục chủ nghĩa cá nhân là bước rất quan trọng để tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy, muốn xây dựng lực lượng Công an có tư tưởng cộng sản chủ nghĩa,
xóa bỏ tư tưởng cá nhân chủ nghĩa thì không thể kiểm thảo một lần gột rửa
hết chủ nghĩa cá nhân mà phải “luôn luôn phê bình, tự phê bình, kiểm thảo
trong mọi việc”. Cùng với đó, Công an phải tránh “thói công thần”, vì đã
“mắc phải bệnh công thần, thì không tiến bộ mà còn thoái bộ, sinh ra quan
liêu, bảo thủ, tự cao tự đại”. Những biểu hiện như vậy cần phải kiên quyết
chống trả và đấu tranh loại bỏ ngay lập tức.
Hai là, tư cách của người Công an “Đối với đồng sự, phải thân ái giúp
đỡ”. Thân ái giúp đỡ bắt nguồn từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là đạo lý
của con người Việt Nam - “thương người như thể thương thân”, “nhiễu điều
phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”. Điều này
cũng xuất phát từ tình hữu ái giai cấp của giai cấp vô sản, những người cùng
chung lý tưởng, cùng chung chí hướng. Cùng nhau đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau
làm tăng sức mạnh của từng người, của tập thể, tổ chức.
“Đối với đồng sự phải thân ái, giúp đỡ”, là lời trong 6 điều Bác Hồ dạy
về tư cách, đạo đức người công an cách mạng là sự đúc kết, kế thừa truyền
thống đoàn kết, nhân ái của dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là một nội
dung có ý nghĩa nhân văn sâu sắc về tự phê bình và phê bình. Lời dạy của
20
Người “Đối với đồng sự, phải thân ái, giúp đỡ” hàm chứa những nội dung tư
tưởng thân ái, biết cách giúp đỡ đồng đội thông qua tự phê bình và phê bình
để cùng nhau khắc phục khuyết điểm, trở thành một phương châm hoạt động
mang tính cách mạng và khoa học.
“Đồng sự” là đồng đội, đồng chí cùng công tác trong một đơn vị, rộng
hơn, đó chính là toàn thể CBCS công an cùng chiến đấu cho sự nghiệp bảo vệ
ANCT và giữ gìn TTATXH. “Đối với đồng sự” - Bác muốn nói đến mối quan
hệ của mỗi thành viên trong một tổ chức, nhân tố tạo nên sức mạnh của tổ
chức. Bởi vì, tổ chức và cá nhân có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tổ chức
mạnh mẽ tạo điều kiện cho từng cá nhân phấn đấu tốt và ngược lại, từng cá
nhân phấn đấu tốt là điều kiện để xây dựng tổ chức đoàn kết, vững mạnh. Tổ
chức là nơi tạo sự liên kết, sự hợp đồng giữa những cá nhân, do vậy yêu cầu
phải có những cá nhân tốt thì tổ chức mới mạnh. Do đó, vì lợi ích chung, vì
mục tiêu chung của tập thể mà các cá nhân phải thường xuyên tu dưỡng, rèn
luyện mình để gắn bó, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Đoàn kết, thân ái
giúp đỡ nhau chính là nhằm xây dựng tổ chức, đơn vị vững mạnh, đảm bảo
hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng, đồng thời qua đó mà nâng cao sức mạnh
của từng người.
Để quan hệ đồng sự luôn trong sáng, mỗi chiến sĩ công an phải luôn
đấu tranh để vượt qua rào cản của chủ nghĩa cá nhân, vì nó là nguồn gốc của
mọi cái xấu, trái với đạo đức cách mạng. Người thường nhắc nhở chiến sĩ
công an phải thường xuyên đề phòng những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân
muôn hình muôn vẻ trong cuộc đời thường, ví như “có quyền hạn một chút là
thiếu dân chủ, chỉ tay năm ngón; đối với nội bộ thì suy bì, ganh tị, không đoàn
kết với nhau”(8). Do vậy, Người luôn nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên trong đó
có CBCS công an phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân.
“Thân ái giúp đỡ” là phương châm ứng xử của mỗi cá nhân trong quan hệ với
đồng sự, là tình cảm giai cấp, tình cảm cách mạng, là tình đồng chí thiêng
liêng cao cả. Muốn có tình thân ái thì trước hết phải giác ngộ lý tưởng cách
mạng và tự nguyện chiến đấu vì lý tưởng đó, phải thấy được yếu tố thắng lợi
là sức mạnh của tập thể, sức mạnh của đoàn kết. Chủ tịch Hồ Chí Minh
thường nhắc nhở: “Nội bộ công an từ cấp cao đến nhân viên phải đoàn kết,
nhất trí. Đoàn kết không phải là “chén chú chén anh”, là anh A giấu lỗi cho
anh B”. Là những người bảo vệ chế độ xã hội mới, bảo vệ cuộc sống bình yên
21
của nhân dân thì mối quan hệ đồng sự trong lực lượng CAND phải được xây
dựng trên cơ sở “thấu suốt chính sách của Đảng” và “đi đúng đường lối quần
chúng”. Đồng thời mối quan hệ ấy phải không ngừng được bồi đắp trên
nguyên tắc “đề cao kỷ luật”, “tính tổ chức” và tính nhân văn “thân ái, giúp
đỡ”.
Truyền thống chiến đấu, xây dựng của lực lượng CAND đã tạo nên
những tình cảm đẹp tương thân, nhân ái trong đội ngũ CBCS. Đoàn kết, thân
ái giúp đỡ nhau bao giờ cũng là nguyên nhân cơ bản để tạo nên thắng lợi.
Trong công tác công an, có thể nói không có việc gì mà không có sự phối
hợp, hợp đồng, nhất là khi hoạt động trong lòng địch, nơi ẩn náu của tội
phạm, nơi công tác khó khăn, gian khổ. Mỗi người nỗ lực làm tốt nhiệm vụ
của mình, đồng thời phải phối hợp chặt chẽ, giúp đỡ, chia sẻ khó khăn, sẵn
sàng trao đổi kinh nghiệm để đồng chí, đồng đội cùng làm tốt nhiệm vụ được
giao. Trong xây dựng Đảng, xây dựng đơn vị, mỗi cán bộ, đảng viên phải
thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh xóa bỏ mọi biểu
hiện cục bộ, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, ích kỷ, vụ lợi…Thân ái giúp đỡ
còn được thể hiện trong việc giúp đỡ nhau học tập, nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ công tác. Trong cuộc sống đời thường phải giúp đỡ nhau vượt
qua khó khăn, khi đau ốm, lúc hoạn nạn…. Điều này Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã có lần nhắc nhở “cán bộ phải chăm sóc đến đời sống vật chất và tinh thần
của chiến sĩ” và mỗi người phải thành thật “giúp nhau kinh nghiệm và sáng
kiến, giúp nhau tiến bộ”, với những CBCS mắc phải sai lầm, khuyết điểm,
Người cũng chỉ rõ quan điểm giúp đỡ nhau khi có sai phạm, tùy theo mức độ
mà xử lý kỷ luật cho nghiêm, song quan trọng là làm sao để người vi phạm
khuyết điểm nhận ra lỗi lầm và kiên quyết sửa chữa để tiến bộ.
Như vậy, chúng ta có thể thấy được lời dạy “Đối với đồng sự, phải thân
ái giúp đỡ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh giành cho lực lượng CAND hàm chứa
nhiều giá trị tư tưởng sâu xa. Phương châm xử thế thấm đậm truyền thống
nhân văn và tính khoa học, cách mạng đó, 65 năm qua, đã được các thế hệ
CBCS công an ghi lòng tạc dạ, trở thành nét đẹp trong truyền thống đạo đức
của lực lượng CAND, lực lượng được Đảng và Bác Hồ giao cho trọng trách là
“Thanh bảo kiếm bảo vệ Đảng”. Tuy nhiên, trong thời kỳ cách mạng mới, khi
tuyệt đại đa số CBCS công an một lòng một dạ trung thành với Đảng, với lý
tưởng cách mạng, hết lòng phục vụ nhân dân, nêu tấm gương sáng về tình
đồng chí, đồng đội, thì ở nơi này, nơi khác, có một bộ phận CBCS đã có biểu
22
hiện xa rời lý tưởng và đồng đội, làm giảm lòng tin của nhân dân. Chính vì
vậy, việc quán triệt nguyên tắc tự phê bình và phê bình trên tinh thần điều dạy
“Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ” của Người lúc này có ý nghĩa rất thiết
thực.
Ba là, phẩm chất cao đẹp nhất và điều kiện trước tiên để thành người
Công an cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với Chính phủ, với
nhân dân được đúc kết trong lời dạy của Bác “Đối với Chính phủ, phải tuyệt
đối trung thành”. Cốt lõi ở vấn đề này chính là sự trung thành với sự nghiệp
cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong bài viết Đạo đức Cách mạng,
(12/1958), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: : “Nói tóm tắt thì đạo đức Cách mạng là:
Quyết tâm suôt đời đấu tranh, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”.
Không có lòng trung thành và rèn luyện tích cách thì tuyệt đối không có sự hy
sinh, chiến đấu, không có cơ sở cho những phẩm chất cách mạng khác nảy nở
và phát triển.
Để xây dựng các tổ chức đảng và đơn vị cơ sở trong CAND trong sạch
vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đủ sức định hướng
suy nghĩ và hành động cho cán bộ Công an.
Những phẩm chất tuyệt đối trung thành với Đảng, kính trọng, lễ phép
với nhân dân được thể hiện bằng hành động cách mạng thực tiễn phụ thuộc rất
lớn và được quyết định chủ yếu bởi mỗi cán bộ, đảng viên được chuẩn bị đầy
đủ các điều kiện cần thiết, song các tổ chức đảng và đơn vị cơ sở cũng có vai
trò và trách nhiệm không nhỏ.
Trước hết trung thành với Đảng là trung thành với sự nghiệp cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở đây lòng trung thành không chỉ dửng lại mức
độ là tư tưởng, niềm tin đơn thuần mà còn phải được thể hiện bằng hành động
cách mạng. Trung thành với Đảng là điều kiện quyên quyết bảo vệ sự trong
sạch và vững mạnh tổ chức của Đảng; chống mọi tư tưởng và hành động sai
trái với đường lối, chính sách của Đảng, chống mọi âm mưu và phá hoại của
mọi kẻ thù.
Thứ hai, trung thành với Đảng là thể hiện được ý thức rèn luyện bản
thân, phẩm chất cách mạng, không ngừng nâng cao năng lực cách mạng để
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Hoạt động của cán bộ Công an gắn liền với hoạt động của cơ quan, tổ
chức đảng ở nơi đảng viên học tập, công tác và một phần gắn với tổ chức
đảng nơi cư trú. Các tổ chức đảng, nhất là trong CAND trong sạch, vững
23
mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao sẽ định hướng đúng đắn sự
suy nghĩ và hành động của mỗi cán bộ Công an, phân công công việc đúng sở
trường, năng lực, thế mạnh của mỗi người; lãnh đạo các tổ chức, đoàn thể ở
đơn vị hoạt động có hiệu quả; tổ chức và duy trì các phong trào cách mạng
của quần chúng; tạo điều kiện thuận lợi và động viên lực lượng Công an tự tu
dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng…Đây là môi trường thuận
lợi để mỗi cán bộ rèn luyện phẩm chất đạo đức tuyệt đối trung thành với
Đảng, kính trọng và lễ phép với nhân dân.
Thứ ba, trung thành với Đảng là thể hiện ý thức xây dựng Đảng, mỗi
cán bộ chiến sĩ Công an cần phải nắm bắt được nguyện vọng của nhân dân, từ
đó đề đạt yêu cầu nguyện vọng của dân đối với Đảng với Chính phủ để có
cách giải quyết tốt nhất. Quá trình xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc
là rất quan trọng và khó khăn gian khổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “các
vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải giữ lấy nước”, đây là nhiệm
vụ rất gian nan, bởi vì kẻ thù của cách mạng luôn tìm cách xuyên tạc, tìm
cách chống phá cách mạng, lật đổ Nhà nước. Vì vậy, chúng ta cần hiểu thật kỹ
nhiệm vụ chính trị, đối tượng đấu tranh, những nguyên tắc chỉ đạo và biện
pháp công tác mà Công an nhân dân phải thực hiện, mang lại hiệu quả cao
nhất. Bác chỉ rõ: “Muốn làm tròn nhiệm vụ, Công an nắm vững đường lối,
chính sách của Đảng và của Chính phủ, hết sức phục vụ nhân dân và dựa vào
nhân dân”.
Như vây, mỗi cán bộ chiến sĩ Công an nhân dân cần thấm nhuần tư
tưởng, phẩm chất chính trị tốt, và đồng thời phải “tuyệt đối trung thành với Tổ
quốc và nhân dân Việt Nam, với ĐCSVN, với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; suốt đời phấn đấu, hy sinh vì độc lập, tự do, chủ quyền thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, vì an ninh tổ quốc”. Điều này, có ý nghĩa rất quan
trọng đối với lực lượng CAND trong việc "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” và thực hiện Nghị quyết số 12 - NQ/TW (Hội nghị
Trung ương 4, Khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” trở thành nền nếp, có hiệu quả, thể hiện phẩm chất tuyệt đối trung thành
với Đảng, với Tổ quốc, tận tụy, kính trọng và lễ phép với nhân dân; góp phần
tích cực cùng toàn dân tộc phấn đấu xây dựng thành công CNXH, đưa đất
nước Việt Nam từng bước tiến đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Bốn là, Người từng dạy “Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”
24
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định; Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra
lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Lịch sử nước ta từ
khi có Đảng cũng khẳng định: Sức mạnh vô địch của Đảng ta, nguồn gốc sức
mạnh của Đảng ta là sự liên hệ mật thiết với nhân dân. Bác Hồ thường căn
dặn: nước ta là chế độ dân chủ, nhân dân ta trở thành người làm chủ đất nước,
làm chủ xã hội.
Kính trọng lễ phép với nhân dân không chỉ là thái độ đối xử bề ngoài
mà mọi việc làm, thái độ, quan hệ nhân dân phải xuất phát từ quan điểm của
quần chúng, của đường lối, chủ trương chính sách của Đảng. Bác nhắc nhở
Công an nhân dân khác với Công an đế quốc. Công an nhân dân “tự mình
luôn luôn giữ lễ phép. Tránh hách dịch”; “Phải hoan nghênh nhân dân phê
bình Công an, để đi đến chổ hiểu Công an, yêu Công an và giúp đỡ Công an”.
Bên cạnh đó, kính trọng lễ phép với nhân dân theo Bác là thể hiện ở
những việc làm tử tế, thực sự yêu quý nhân dân, chăm lo cho đời sống của
nhân dân, đi sát nhân dân hòa mình cùng với nhân dân. Cùng với đó, mỗi cán
bộ chiến sĩ Công an phải giúp nhân dân phòng ngừa tội phạm, chăm lo cuộc
sống yên vui hạnh phúc của nhân dân như chính mình. Người cân dặn: “Làm
Công an là để giữ trật tự, an ninh cho nhân dân; xem xét tìm tòi âm mưu phản
động làm hại nhân dân. Từ chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu
không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa”. Không những thế,
kính trọng lễ phép với nhân dân là phải biết dựa vào nhân dân để làm việc,
nếu rời xa nhân dân thì dù tài giỏi mấy cũng không hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Trong tác phẩm, Một lòng một dạ phục vụ nhân dân, Người chỉ rỏ
rằng, phải kính trọng, lễ phép với nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân
dân và không thể tha thứ những thái độ khinh bỉ, miệt thị với nhân dân, những
việc làm dối trá với nhân dân.
Tóm lại, kính trọng lễ phép với nhân dân là một trong 6 tư cách, đạo
đức mà người Công an cách mạng phải có, phải giữ. Để có được những tư
cách, đạo đức đó, người Công an cần ra sức học tập, chăm chỉ rèn luyện; để
luôn giữ được nó, họ phải không ngừng củng cố lập trường, nâng cao bản lĩnh
chính trị và chỉ có thế, nhiệm vụ của họ mới được hoàn thành. Kính trọng lễ
phép với nhân dân, mỗi người Công an không nên dừng lại ở thái độ bên
ngoài, mà quan trọng hơn, là ở chiều sâu bản chất, ở mỗi việc làm nhỏ, to
hằng ngày.
25
Năm là, tư cách của người chiến sĩ Công an nhân dân trong lời dạy của
Bác: “Đối với công việc, phải tận tụy”.
Là một người dân bình thường, muốn thành công trong việc phải đặt
tâm vào công việc của mình, phải yêu nghề, từ đó mới thành công trong công
việc được. Cán bộ, chiến sĩ Công an cũng vậy, một người lao động chân chính
thì tận tụy với công việc của mình và là đức tính không thể thiếu được, một
đức tính khác hẳn với người vô trách nhiệm, người chỉ biết bóc lột sức lao
động của người khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu từng xá định: “Công an
nhân dân được trao trọng trách cao cả là bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền và
nhân dân; phải đánh địch thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hòa bình
lại càng nhiều. Còn chủ nghĩa đế quốc, còn giai cấp bóc lột là còn phá hoại.
Nhiệm vụ của Công an là vô cùng quan trọng, rất nặng nề và gian khổ, đồng
thời đáng để vẻ vang.
Mỗi chiến sĩ Công an muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ xuất sắc của mình
phải rất tận tụy với công việc, phải có lập trương, ý chí tốt để bảo vệ đường
lối, chính sách của Đảng, Chính phủ, bảo vệ quyền lợi, lợi ích cho nhân dân.
Luôn luôn phải có cái đầu lạnh và trái tim nóng để đấu tranh với nhiều thế lực
thù địch chống phá cách mạng Việt Nam. Người yêu cầu Công an “phải nắm
vững đường lối, Chính sách của Đảng và Chính phủ”, mối cán bộ phải hiểu
được lý luận cách mạng, từ đó vận dụng sáng tạo vào hoạt động thực tiễn một
cách phù hợp nhất. Bên cạnh đó, trong công việc cán bộ phải chuyên sâu, phải
điều tra, nghiên cứu học hỏi, không được chủ quan duy ý chí, không được nản
chí, bỏ cuộc trong lúc khó khăn nhất.
Một con người tận tụy với công việc, không chỉ là thể hiện ở tinh thần
làm việc, thái độ làm việc mà còn phải xây dựng cho mình một kế hoạch cụ
thể, dốc hết sức lực vì công việc, không tính toán đến lợi ích cá nhân. Đồng
thời phải luôn tìm tòi, cải tiến những phương pháp tốt nhất, phù hợp nhất
nhằm nâng cao chất lượng và đạt hiệu quả tốt nhất trong công việc. Không
những vậy, muốn hoàn thành công việc, mỗi cán bộ phải tận tụy với công việc
của mình, nhưng muốn làm được điều đó thì cần phải tạo cho bản thân được
tính hy sinh, làm việc khẩn trương, làm đến nơi, đến chốn với ý thức trách
nhiệm cao nhất, việc hôm nay chớ để ngày mai. Tận tụy với công việc là thể
hiện bản lĩnh của một cá nhân con người, sẵn sang chịu khổ trước mọi người
để hoàn thành tốt nhiệm vụ đã giao.