Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tieu luan phuong phap ho chi minh một số NGUYÊN tắc PHƯƠNG PHÁP LUẬN đặc THÙ về NGHIÊN cứu CHUYÊN NGÀNH hồ CHÍ MINH học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.17 KB, 17 trang )

Đề tài

MỘT SỐ NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐẶC THÙ VỀ
NGHIÊN CỨU CHUYÊN NGÀNH HỒ CHÍ MINH HỌC

MỞ ĐẦU
Triết gia người Nga Xukhômlinxki đã từng nói một câu rất nổi tiếng:
“Con người sinh ra không phải để tan biến như một hạt cát vô danh. Họ
sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim người khác”. Trên
thế giới có rất nhiều những danh nhân, những vĩ nhân mà tên tuổi họ đã
làm nên cả một danh tiếng cho một dân tộc. Những con người đó đã để lại
hệ tư tưởng của mình trường tồn cùng trời đất, nhất là những tư tưởng triết
học bác học để ngàn đời sau vẫn tiếp nối những hệ tư tưởng đó.
Đất nước của ngàn năm văn hiến, đất nước của lòng yêu chuộng hòa
bình và hiên ngang cùng sông núi: hồn thiêng Việt Nam cũng vang danh
một người con như vậy, đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Người là
niềm tự hào của dân tộc và nghiên cứu về Người là nguồn suối cảm hứng
vô tận không bao giờ cạn.
Trên cơ sở những kinh nghiệm và thành tựu nghiên cứu về Hồ Chí
Minh những nǎm gần đây, nhất là qua tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước ta đã viết về Người, đồng thời đào sâu vào đối
tượng nghiên cứu, tôi mạnh dạn đề xuất một số nguyên tắc phương pháp
luận mang tính đặc thù của một bộ môn đang trên đường hình thành, chỉ
dám coi là những gợi ý để đóng góp, bổ sung và phát triển. Những nguyên
tắc này được vận dụng chung cho việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Song,
dù nghiên cứu ở lĩnh vực nào, xét đến cùng cũng là để nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh, bất kể đó là tư tưởng kinh tế, tư tưởng chính trị, tư tưởng đạo
đức hay tư tưởng vǎn hoá – vǎn nghệ…

1



NỘI DUNG
1. Phải xuất phát từ vǎn kiện, tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ
những tư liệu, sự kiện lịch sử chính xác để bảo đảm tính chân thực,
khách quan về bản thân đối tượng.
1.1. Nghiên cứu Hồ Chí Minh, nhất là nghiên cứu về tư tưởng, trước hết
phải cǎn cứ vào vǎn kiện, tác phẩm của Người.
Điều này tưởng không có gì mới. Vǎn bản không phải là điều quan
trọng nhất, cái quan trọng hơn là phải xem người đời sau đã đọc và hiểu
vǎn bản đó như thế nào. Tất nhiên nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh gắn
liền với thực tiễn là phải tìm hiểu xem tư tưởng của Người đã đi vào quần
chúng, được nhân dân tiếp nhận và đã tạo nên sức mạnh vật chất to lớn ra
sao. Nhưng điều đó không có gì giống với quan điểm của trường phái
herméneutique (chú giải học) ở phương Tây, nó chỉ chú trọng đến sự thông
hiểu của người đọc khi tiếp thu vǎn bản, nghĩa là xem cái quyết định là cái
được tạo ra ở người đọc chứ không phải là cái đã có trong vǎn bản. Nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh như là một bộ môn khoa học, trước hết phải
xuất phát từ vǎn kiện, tác phẩm của Người.
Nếu chỉ cǎn cứ vào sự thông hiểu của người đọc, thì như trên đã nói,
đối với các mệnh đề kinh điển, mỗi người có thể hiểu khác nhau, thậm chí
rất xa nhau. Vì vậy, để không rơi vào gán ghép tuỳ tiện, thêu dệt chủ quan
thì phải bám vào vật liệu khách quan, vào ngôn ngữ của vǎn bản đã biểu
đạt cái tư tưởng vốn có của vĩ nhân. Đây là nguyên tắc đầu tiên, trước nhất,
tuy không phải là duy nhất. Nói như vậy không hề có ý định cổ vũ cho lối
nghiên cứu “tầm chương trích cú”, bám vào câu chữ một cách máy móc,
thô thiển. Nhưng cũng cần tránh lối nói “vo”, coi thường mọi trích dẫn, vẫn
dễ gây nghi ngờ cho người nghe, người đọc, liệu đó có phải đích thực là tư
tưởng Hồ Chí Minh. Hay chỉ là tư tưởng suy diễn, áp đặt chủ quan của nhà
nghiên cứu.


2


Ví dụ: Chủ tịch Hồ Chí Minh có tư tưởng về nhà nước pháp quyền
không ? Đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân hay là nhà nước “thân dân”
? Cǎn cứ vào đâu mà nói như vậy ? Chúng ta đã biết, nǎm 1919 đại diện
cho một nhóm người Việt Nam yêu nước, khi đưa ra Yêu sách tám điểm
gửi Hội nghị Vécxây, Nguyễn Ái Quốc đã đòi phải bãi bỏ chế độ cai trị
bằng sắc lệnh và thay vào đó bằng các đạo luật. Diễn ca điều thứ 7 của yêu
sách này, Người đã viết “trǎm điều phải có thần linh pháp quyền!”. Sau khi
chính quyền đã về tay nhân dân, Người lại viết: “Nước ta là một nước dân
chủ, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân,
chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương đều do dân cử ra” 1. Như vậy là
từ rất lâu rồi Người đã từng nói đến một nhà nước pháp quyền, của dân, do
dân, vì dân rồi chứ không phải chúng ta đã “hiện đại hoá” tư tưởng Hồ Chí
Minh cho phù hợp với sự đổi mới hiện nay.
Nếu cho rằng Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nhà nước “thân
dân” thì đó là một sự cố tình gán ghép, bởi vì tư tưởng “thân dân” thấp hơn
tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân của Người rất nhiều. Nhà
nước của giai cấp thống trị, ở giai đoạn tích cực và tiến bộ, cũng chủ trương
thân dân. Nhà nước phong kiến thời Lê Lợi, Lê Thánh Tông chủ trương
thân dân, nhưng không phải là nhà nước của dân. Có người nói, khái niệm
nhà nước của dân, do dân, vì dân đâu có phải là sáng tạo riêng của Hồ Chí
Minh, nó là thành tựu của pháp quyền tư sản, có nguồn gốc từ các nhà triết
học khai sáng. Đúng như vậy, nhưng cũng tư tưởng của Mác – Lênin, khi
đã được Hồ Chí Minh tiếp nhận và thực hiện thì nó đã trở thành tư tưởng
của Người rồi. Các nhà triết học khai sáng đề ra tư tưởng này khá sớm, nó
là thành tựu của vǎn minh nhân loại, được giai cấp tư sản nắm lấy, nhưng
chưa bao giờ thực hiện trong thực tế.
Dưới chế độ tư bản, nhà nước bao giờ cũng nằm trong tay giai cấp tư

sản. Cũng có lúc nó tuyên bố là nhà nước “vì dân”, nhưng làm sao có thể vì
1

Hồ Chí Minh Toàn tập. Nxb CTQG, H, 2000, t.5, tr.698

3


dân được nếu như nhà nước đó không phải là của dân, không do dân lập ra
và có quyền bãi miễn ? Còn như nói Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đào tạo ra
được một đội ngũ cán bộ nhà nước có tác phong quần chúng, rất gần dân và
thân dân, … thì đó chỉ là phong cách người cán bộ nhà nước, một khía cạnh
của mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân chứ chưa phải là tư tưởng về
bản chất của một nhà nước kiểu mới (nhà nước của dân, do dân, vì dân).
Như vậy, tính khách quan khoa học của việc nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh đòi hỏi chúng ta trước hết phải dựa vào vǎn kiện, tác phẩm của
Người. Để làm được điều này chúng ta còn gặp không ít khó khǎn vì cho
đến nay một số tác phẩm của Hồ Chí Minh vẫn chưa tìm lại được như:
“Những người bị áp bức” (Les opprimés), “Con rồng tre” (Le dragon en
bambou), “Nhật ký chìm tàu”, “Chủng tộc da đen”, “Khu vực đặc biệt”,
v.v..; nhiều bài báo Người viết cho tập san Inprékoorr gửi từ Quảng Châu
qua Ban Phương Đông về Matxcơva chưa được đǎng; nhiều bản thảo viết
tay; nhiều ý kiến phát biểu ở các hội nghị,… đến nay vẫn chưa biết nằm ở
đâu. Cái khó nữa là, trong những tài liệu của Người đã công bố, không kể
những bài do chính tác giả sữa chữa lúc sinh thời, hoặc do cách dịch khác
nhau,… có một số bài vì nhiều lý do đã được biên tập lại, sửa chữa về chi
tiết hoặc lược bớt một số câu, một số đoạn. Ví dụ: “Tuyên ngôn độc lập”
hiện có nhiều dị bản.
Điều đó gây trở ngại cho việc tiếp thu tư tưởng đích thực của Người,
cũng như trong việc nghiên cứu ngôn ngữ và vǎn phong Hồ Chí Minh. Việc

xuất bản lần thứ hai bộ Hồ Chí Minh – Toàn tập với tinh thần khôi phục lại
tính lịch sử của vǎn bản, hiệu đính lại các bản dịch và bổ sung thêm nhiều
tài liệu mới là một cố gắng đáng kể trong việc khắc phục tình hình nói trên.
1.2. Dựa vào vǎn bản, sự kiện, câu trích dẫn đồng thời phải dựa vào bối
cảnh xuất xứ của nó mà phân tích, đánh giá để không rơi vào suy diễn
chủ quan, theo thiên kiến, từ phía này hay phía khác.

4


Sự kiện Nguyễn Tất Thành viết đơn xin vào học Trường Thuộc địa
Paris là điều có thật. Cần hiểu sự kiện này như thế nào ? Trong bối cảnh
nào, do động cơ nào mà Nguyễn Tất Thành làm đơn xin vào học Trường
Thuộc địa ? Một lá đơn ngắn được viết theo thể thức vǎn hành chính chưa
thể nói được nhiều với chúng ta về tất cả những suy nghĩ của Người. Lá
đơn được viết tại Marseille le 15 Septembre 1911. Dấu triện đỏ hình bầu
dục đóng trên lá đơn ngày “20 – Septembre 1911 trong đơn có câu: “Tôi
muốn trở thành có ích cho nước Pháp và cho đồng bào tôi, đồng thời muốn
cho họ được hưởng những lợi ích của học thức” (Je désirerais deverin utile
à la France vis-à-vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les
faire profiter des bienfaits de I’ Instruction).
Nếu đặt câu này trong ngữ cảnh của một lá đơn xin học và trong mục
tiêu ban đầu mà Người đã nói rõ “sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”,
để “sau khi xem xét họ làm ăn như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào
tôi”2, thì việc Người xin vào học Trường thuộc địa để hy vọng sau này giúp
cho đồng bào mình được hưởng những lợi ích của học vấn, điều đó hoàn
toàn nhất quán với mục tiêu Người đề ra cho mình khi rời Tổ quốc đi sang
phương Tây. Bình luận về sự kiện này, nhà sử học Pháp D. Hémery đã viết:
lá đơn đó “trước hết thể hiện một ý muốn tạm thời được học,… nhưng đơn
xin học còn bao hàm một ý nghĩa khác, tóm tắt trong khẩu hiệu thịnh hành

lúc đó trong các thanh niên học sinh là “xuất dương du học rồi về nhà cứu
nước”,… để phổ biến tri thức hiện đại trong các dân tộc thuộc địa”.
Sau nữa, thực tế lịch sử đã chỉ ra rằng không phải ai học xong
Trường Thuộc địa cũng đều ra làm quan lại cho Pháp cả. Có người học
xong đã chuyển qua học trường Beaux – Arts Paris để trở thành hoạ sĩ, như
Lê Vǎn Miến; có người học xong về nước chỉ dạy học, nghiên cứu, viết vǎn
như Bùi Kỷ, v.v… Như vậy rõ ràng là những ai chỉ suy diễn, ngộ nhận
bằng cách đánh đồng phương tiện với mục đích thì chỉ là sự xuyên tạc sự
2

Báo Nhân dân, ngày 18-5-1965

5


thật mà thôi. Như trên đã nói, quá trình tìm tòi chân lý của Hồ Chí Minh
không phải là con đường thẳng tắp, giản đơn. Tư tưởng Hồ Chí Minh có
quá trình hình thành và phát triển của nó.
Vì vậy, việc nắm vững bối cảnh xuất xứ của sự kiện, vǎn bản, câu
trích dẫn sẽ giúp cho người nghiên cứu tránh được những biện luận, suy
diễn nhầm lẫn không đáng có. Chẳng hạn, có người đã dẫn câu nói nổi
tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” 3 để chứng
minh rằng Người đã phát hiện ra chân lý lớn đó của thời đại từ rất sớm,
ngay từ đầu những nǎm 20 của thế kỷ này! Đúng là từ thực tiễn hoạt động
chính trị của mình, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ngay từ những nǎm 20
đã có nhiều bài viết thể hiện tinh thần của quan điểm trên, nhưng câu vừa
được trích dẫn thì mãi đến nǎm 1959 Người mới viết, trong lời tựa cho
cuốn “Những bài nói và viết chọn lọc”, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Matxcơva xuất bản nǎm 1960. Lấy câu viết ở giai đoạn sau để diễn giải về

tư tưởng của giai đoạn trước là một điều nên tránh, nếu muốn đảm bảo tính
khách quan, chân thực lịch sử trong nghiên cứu, đánh giá.
2. Phải tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh trong tính thống nhất
giữa nói và viết, sống và làm; giữa tư tưởng – đạo đức và phương pháp
– phong cách; giữa đời sống chung và đời sống riêng
2.1. Nghiên cứu tư tưởng vĩ nhân phải dựa vào vǎn bản – những
điều đã nói và viết – đó là điều trước nhất, nhưng không phải là duy
nhất, quan trọng hơn còn phải xem họ đã sống và làm như thế nào.
Bởi không phải một nhà tư tưởng, một nhà đạo đức nào cũng đạt tới
sự nhất quán giữa nói và làm. Có người chỉ nói mà không làm, hoặc nói
một đằng, làm một nẻo, nói thì hay làm lại dở. Hồ Chí Minh là một vĩ nhân
đã đi chọn lôgic nhất quán của đời mình, đạt tới sự thống nhất cao độ giữa
con người và sự nghiệp, tư tưởng và hành động, giữa thuyết giảng đạo đức
3

Hồ Chí Minh Toàn tập. Nxb CTQG, H, 2000, t.9, tr.314.

6


và thực hành đạo đức, giữa ham muốn của cá nhân với ham muốn của cả
dân tộc, giữa đời công và đời tư,… Người là một trí tuệ mẫn tiệp, có bút
lực dồi dào và đã để lại cho chúng ta một khối lượng những trang viết
không phải là nhỏ. Tuy nhiên, về cơ bản, Hồ Chí Minh là một nhà hiền triết
hành động, tư tưởng của Người được thể hiện chủ yếu qua hành động. Nét
đặc sắc ở nhà tư tưởng Hồ Chí Minh là nói ít làm nhiều, có làm được mới
nói, có khi làm mà không nói.
Do đó, cần thiết phải tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh qua hành động.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải kết hợp tiếp cận vǎn bản với tiếp
cận thực tế, phải tìm hiểu qua những việc làm và cách làm, qua hành động

và ứng xử cụ thể từ việc lớn đến việc nhỏ, trong đời sống chung cũng như
trong đời sống riêng, với người thân, bạn bè, đồng chí và kẻ thù,… Nói tóm
lại, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện trong những bài nói, bài viết
của Người, mà còn thể hiện trong hoạt động phong phú, trong toàn bộ sự
nghiệp vĩ đại mà Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta.
Ví dụ: Trong kháng chiến chống Pháp, nhất là trong kháng chiến
chống Mỹ, khi phong trào cộng sản và công nhân có sự mâu thuẫn và bất
đồng về quan điểm, vì lợi ích dân tộc và nhằm khôi phục sự đoàn kết,
thống nhất trong phong trào cộng sản quốc tế, nên có nhiều điều Người
không thể nói ra, viết ra, nhưng Người vẫn làm theo quan điểm, đường lối
của mình và hướng dẫn cho đồng chí, học trò của mình chỉ đạo thực hiện
theo đường lối đó.
Trong những trường hợp như trên, nếu chỉ tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh trên vǎn bản thì sẽ không đầy đủ và khó chính xác, mà phải tìm hiểu
trong thực tiễn hành động, trong việc làm và cách làm của Người. Từ đó,
một phương hướng nữa có thể và cần thiết phải kết hợp vận dụng, đó là tìm
hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh trong các tác phẩm của các đồng chí và học trò
gần gũi đã được Người chỉ giáo, đã lĩnh hội, thấm nhuần và quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực hoạt động của mình. Đồng chí Trường
7


Chinh đã cho biết có một số bài báo của đồng chí đã cǎn cứ vào những ý
kiến, chỉ thị của Bác Hồ mà viết ra, như bài “Mười chính sách của khu giải
phóng”.
Các tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, “Bàn về cách mạng
Việt Nam”,… đã được hoàn thành với sự trao đổi, góp ý, bổ sung của Hồ
Chí Minh. Tìm hiểu tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh không thể không
tìm hiểu sự quán triệt những tư tưởng đó trong các tác phẩm của đồng chí
Võ Nguyên Giáp. Cũng như vậy, tìm hiểu tư tưởng vǎn hoá, tư tưởng về

nhà nước và pháp luật của Hồ Chí Minh có thể tìm hiểu thêm qua các tác
phẩm của đồng chí Phạm Vǎn Đồng với cương vị ban đầu là Phó thủ tướng
rồi sau là Thủ tướng Chính phủ làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, nghĩa là có khoảng 20 nǎm
hoạt động về nhà nước bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã quán triệt tư
tưởng của Người về nhà nước trong công tác hàng ngày.
2.2. Sự nhất quán trong đa dạng của nhân cách vǎn hoá Hồ Chí
Minh được chi phối bởi một tư tưởng chỉ đạo nhất định, cần phát hiện
ra tư tưởng cốt lõi đã xuyên suốt toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng
và đạo đức, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, đã liên kết chúng
thành một hệ thống chặt chẽ, sâu sắc.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là phải tìm ra cho được các hạt
nhân cơ bản đó, cái tâm “bất biến” đã chi phối hành động “vạn biến” của
Hồ Chí Minh thành một khối thống nhất. Cái tâm bất biến đó chính là tư
tưởng về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Điều này, chính Hồ Chí Minh đã khẳng định trong bài nói chuyện tại Đại
hội lần thứ hai Hội nhà báo Việt Nam, 16-4-1959: “Về nội dung viết mà
các cô, các chú gọi là “đề tài”, thì tất cả các bài Bác viết chỉ có một “đề tài”
là: chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Đồng chí Lê Duẩn cũng viết: “Người
là tượng trưng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý tưởng độc lập, tự do với lý
8


tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, giữa chủ nghĩa yêu nước
nồng nàn với tinh thần quốc tế vô sản chân chính”. Có khi, ở một thời điểm
nhất định, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ nhấn mạnh vào chín chữ vàng chói
lọi: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhưng đúng như đồng chí
Trường Chinh đã chỉ rõ: “Chân lý của dân tộc “không có gì quý hơn độc
lập, tự do” đã được Hồ Chủ tịch nâng lên ngang tầm của thời đại và mang

một nội dung mới: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Việc xác định chính xác hạt nhân cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh
có một ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng, nó trở thành phạm trù
khởi điểm đồng thời cũng là phạm trù quy tụ cho mọi sự nghiên cứu, tìm
hiểu về cuộc đời, sự nghiệp và trước tác của Người. Đó là cơ sở tạo nên sự
thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước với chân lý của thời đại là chủ nghĩa
Mác – Lênin, giữa dân tộc với giai cấp, dân tộc và quốc tế, kháng chiến và
kiến quốc, chống kẻ thù xâm lược và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chiến đấu
và sản xuất, cải tạo và xây dựng, v.v… Toàn cảnh bức tranh đa dạng, phong
phú về tư tưởng và lý luận của Người được liên kết trên cái trục trung tâm
đó; đồng thời tư tưởng cốt lõi, hạt nhân cơ bản đó cũng là ngọn đèn hướng
đạo cho người nghiên cứu nhận thức, lĩnh hội được đúng đắn mọi chi tiết
và khía cạnh cụ thể trong trước tác của Người.
Không thấu suốt nguyên tắc đó trong nghiên cứu dễ rơi vào tản mạn,
cục bộ. Xa rời nguyên tắc đó trong đánh giá, lý giải, cũng dễ rơi vào chủ
quan, khiên cưỡng. Tóm lại, nắm vững nguyên tắc về tính thống nhất này
sẽ giúp cho người nghiên cứu lý giải thành công mối quan hệ biện chứng
giữa cái đa dạng và cái bất biến, giữa chiến lược và sách lược, giữa anh
hùng giải phóng dân tộc và nhà vǎn hoá, giữa nhà chính trị thực tiễn và nhà
thơ trữ tình, v.v. trong cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Phải tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự vận động, phát
triển của cách mạng Việt Nam, trong mối quan hệ giữa lãnh tụ với
quần chúng và gắn với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới hiện nay
9


3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển song song
với quá trình vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đi lên cách mạng xã hội chủ nghĩa,
trong mối quan hệ với cách mạng thế giới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung lịch sử cụ thể của nó. Những
điều Người nói thường rất cụ thể, trong hoàn cảnh cụ thể với những đối
tượng cụ thể, nhằm đạt tới những yêu cầu cụ thể. Nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh không được thoát ly những điều kiện cụ thể đó. Thí dụ, từ sau khi
hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội, những vấn đề về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nói
chung và xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ của nhà nước
chuyên chính vô sản nói riêng đều là những vấn đề lý luận còn hết sức mới
mẻ. Do chưa có kinh nghiệm bản thân, còn đang trên con đường tìm tòi, thể
nghiệm, ta phải vừa làm, vừa học tập, tham khảo lý luận, kinh nghiệm,
cách làm của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, trước hết là Liên Xô (cũ)
và Trung Quốc.
Đó cũng là điều bình thường, không tránh khỏi của một thời kỳ mới
mẻ, đang khai phá. Vì vậy, khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cần có sự
phân tích khách quan, khoa học, gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để tránh
ngộ nhận, biến cái cá biệt, cái nhất thời thành cái phổ biến, cái cốt lõi; coi
những điều đang tìm tòi, thể nghiệm là cái đã định hình, cái bản chất. Một
lãnh tụ dù vĩ đại và sáng suốt đến đâu cũng chịu sự hạn chế của lịch sử, của
thời đại cũng như cái hạn chế của đời sống một con người. Do biết chắt lọc,
kế thừa những thành tựu tư tưởng – vǎn hoá của nhân loại mà Hồ Chí Minh
trở thành lãnh tụ lỗi lạc của Đảng và dân tộc. Nhưng trí tuệ, thành tựu của
thời đại mới phát triển đến đó, chưa thể mách bảo gì hơn thì không thể vì
kính yêu lãnh tụ mà suy diễn, gán ghép cho Người những điều mà Người
chưa nghĩ tới, chưa thực sự đặt ra và chín muồi trong tư tưởng của mình.
10


Cũng như vậy, chỉ nên coi những tư tưởng của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là những phác thảo ban đầu, Người chưa bao giờ

có ý định đưa ra một mô hình nào về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những
cố gắng đi tìm trong tác phẩm của Hồ Chí Minh những giải pháp có sẵn
cho những vấn đề của ta hiện nay chỉ là ảo tưởng. Người chỉ cung cấp cho
ta một phương thức vận động tư duy, một phương pháp để phân tích thực
tại xã hội, từ đó mà tự tìm ra những giải pháp cho các vấn đề hôm nay. Cần
nhớ rằng, bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh cũng vận động và phát triển. Ví
dụ đầu những nǎm 20 của thế kỷ này, nhận định về mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp, Người viết: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải
phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”4.
Đến nǎm 1941, Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, dưới sự chủ toạ
của Người, đã có sự phân tích và lập luận cụ thể: “… Nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn
dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn nǎm cũng không đòi lại
được”. Về những vấn đề lý luận của chủ nghĩa xã hội cũng vậy, nếu còn
sống đến ngày hôm nay, trước thực tiễn mới, chắc rằng Người cũng có
những tìm tòi và phát hiện mới. Điều đó hoàn toàn phù hợp với lôgic phát
triển của tư tưởng Hồ Chí Minh là “hướng tới phía trước, tiến lên không
ngừng”.
3.2. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh còn phải tìm hiểu sự vận
động và phát triển của nó trong đời sống tư tưởng, tình cảm và hành
động cách mạng của quần chúng.
Điều đó có nghĩa là phải chống khuynh hướng kinh viện chủ nghĩa,
trách việc nghiên cứu tư tưởng và lý luận Hồ Chí Minh trong sự đóng kín
của vǎn kiện, tác phẩm, không thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa lãnh tụ
4

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.2, tr.267-268


11


và quần chúng, giữa tư tưởng và lý luận cách mạng của Người với thực tiễn
cách mạng của dân tộc và đất nước. Là người học trò trung thành của Mác
và Lênin, Hồ Chí Minh nghiên cứu và phát biểu lý luận không chỉ để giải
thích thế giới mà là để cải tạo thế giới. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác –
Lênin không phải bằng con đường nhà trường và sách vở mà trong thực
tiễn hoạt động cách mạng, từ nhu cầu cấp bách của việc tìm đường cứu
nước. Như Người đã nói, “vừa làm công tác thực tế”, “vừa nghiên cứu lý
luận Mác – Lênin” và vận dụng lý luận vào tuyên truyền, giáo dục, tác
động, thức tỉnh quần chúng. Người kịch liệt chống lại thứ lý luận chỉ dừng
lại trên sách vở. Người từng nói với một số đại biểu dự Đại Hội Quốc tế
Cộng sản lần thứ V (7/1924) tại Mátxcơva “đề ra những luận cương dài
dằng dặc và thông qua những nghị quyết rất kêu để sau đại hội đưa vào
viện bảo tàng”.
Mỗi suy nghĩ, mỗi lời nói của Người đều hướng tới quần chúng và
nhằm mục đích đấu tranh cải tạo xã hội và con người. Vì vậy, “những chân
lý giản dị mà sâu sắc đó, lúc thâm nhập vào quả tim và bộ óc của hàng triệu
quần chúng đang chờ đợi nó, thì đó là sức mạnh vô địch, đó là chủ nghĩa
anh hùng cách mạng” (Phạm Văn Đồng). Như vậy, nghiên cứu di sản tư
tưởng của Hồ Chí Minh là phải nghiên cứu cả hai quá trình: quá trình hình
thành, phát triển của chính nội dung tư tưởng đó và quá trình nó thâm nhập
vào cán bộ, đảng viên, quần chúng, thức tỉnh, cổ vũ, tác động, giáo dục họ;
nghĩa là nghiên cứu hiệu quả của lý luận khi thâm nhập vào quần chúng sẽ
trở thành một sức mạnh vật chất như thế nào, như Mác đã nói. Ví như
nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, nếu chỉ dừng lại ở việc thuyết
minh hệ thống các khái niệm, phạm trù và chuẩn mực của đạo đức cách
mạng, xác lập những hình thức và biện pháp giáo dục đạo đức mới, v.v. thì
vẫn là chưa đủ nếu như không chứng minh được ý nghĩa, tác dụng, hiệu

quả của những tư tưởng đạo đức đó trong việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn
luyện cả một đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng qua các giai đoạn
12


cách mạng, từ vận động đấu tranh giành chính quyền, qua hai cuộc kháng
chiến đến giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Cũng như vậy, trong việc nghiên cứu thơ vǎn Hồ Chí Minh, sẽ là
không đúng nếu chỉ chú ý hoặc chú ý quá nhiều đến việc tìm hiểu một bộ
phận thơ trữ tình, thơ nghệ thuật của Người mà, không chú ý hoặc chú ý
không đúng mức đến bộ phận thơ cổ động, thơ chúc tết của Người. Loại
thứ nhất, phần lớn được viết ra trong hoàn cảnh như Người nói, không biết
làm gì thì “ngâm ngợi cho khuây”, thế thôi! Không ai chối cãi giá trị tư
tưởng và nghệ thuật của một tập thơ vĩ đại “đã làm xáo trộn cả tâm hồn
người đọc” như Nhật ký trong tù. Dù sao những bài thơ ấy chủ yếu được
viết ra để tự nói với mình chứ không phải chủ yếu hướng tới người đọc.
Trái lại, bộ phận thứ hai, thơ cổ động, thơ chúc tết, lại được Người viết ra
với một công phu, dụng ý hẳn hoi, có lựa ý lựa lời, có tính toán hiệu quả ở
người tiếp nhận. Điều này, Cố vấn Phạm Vǎn Đồng đã nói rõ: “Lúc đọc
những lời kêu gọi cũng như các bài thơ chúc tết, Bác biết rằng đồng bào cả
nước đều lắng nghe, Bác cũng biết rất rõ rằng đồng bào và chiến sĩ miền
Nam càng lắng nghe Bác nói với tất cả tâm hồn mình, hình như Bác đang
nói với mình”. Do đó, nghiên cứu bộ phận thơ này, chủ yếu không phải là
nghiên cứu giá trị nghệ thuật của nó – dù là nghệ thuật tuyên truyền – mà là
nghiên cứu mối quan hệ giữa động cơ sáng tác của lãnh tụ và hiệu quả, tác
dụng của nó trong tư tưởng, tình cảm và hành động cách mạng của quần
chúng, tức là không chỉ vận dụng phương pháp của vǎn học mà cả phương
pháp của xã hội học.
Tóm lại, thơ ca và vǎn chính luận của Hồ Chí Minh không dừng lại ở
mức nhận thức và phản ánh, mà chủ yếu là nhằm để tác động, giáo dục. Nó

là vũ khí sắc bén của người cách mạng, là một kênh thông tin quan trọng
giữa lãnh tụ và quần chúng. Chỉ có vượt lên trên câu chữ, sách vở, nghiên
cứu tư tưởng và lý luận của Hồ Chí Minh trong sự gắn bó với thực tiễn
cách mạng, với đời sống tư tưởng, tình cảm của quần chúng, mới thấy được
13


sức sống bất diệt của những tư tưởng ấy, mới thấy ” Hồ Chủ tịch vĩ đại
sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”.
3.3. Cuối cùng, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không phải chỉ
đáp ứng yêu cầu tổng kết, đánh giá, thẩm định những giá trị lịch sử đã
qua, mà phải tính đến yêu cầu làm sống động các giá trị đó trong công
cuộc đổi mới, phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Từ tư tưởng đích thực của Hồ Chí Minh, người nghiên cứu cần đề
xuất được những gợi ý vận dụng những tư tưởng đó vào cuộc sống hiện
nay. Nếu nghiên cứu chỉ dừng lại ở yêu cầu tìm hiểu tư tưởng của một vĩ
nhân trong quá khứ, chỉ để khẳng định cái đã qua mà không làm cho nó
hiện diện, sống thực, toả sáng với hôm nay, không chỉ ra được ý nghĩa “là
cơ sở tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của chúng ta”, thì sự nghiên
cứu đó là không đạt yêu cầu, xét về mặt phương pháp luận.
Những điều trình bày trên mới chỉ là một số nét phác thảo ban đầu,
về những nguyên tắc phương pháp luận có ý nghĩa đặc thù chỉ đạo việc
nghiên cứu về Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng.
Công việc đó, về cơ bản, mới chỉ là giai đoạn khởi động; các công trình
nghiên cứu trọng điểm vẫn đang trên đường hoàn thiện để tiến tới xã hội
hoá, vì vậy chúng ta vẫn chưa có điều kiện tổng kết những thành tựu và hạn
chế của nó xét về mặt phương pháp luận. Những nguyên tắc được nêu lên
đã cố gắng trình bày trong sự liên hệ với thực tiễn nghiên cứu về Hồ Chí
Minh những nǎm gần đây ở trong nước và ngoài nước. Một sự phân tích
khoa học đầy đủ và sâu sắc hơn sẽ được bổ sung cùng với thành tựu và

triển vọng của một bộ môn mới đang hình thành – bộ môn tư tưởng Hồ Chí
Minh.

14


KẾT LUẬN
Sự sống mạnh hơn cái chết, Phiđen Cátxtrô đã nói về Người: “Đồng
chí Hồ Chí Minh thuộc lớp người đặc biệt mà cái chết là mầm mống của sự
sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt, và vì vậy đồng chí vẫn cứ tiếp tục
lãnh đạo nhân dân Việt Nam đến chiến thắng hoàn toàn và cuối cùng…”
Phương pháp và cùng với phương pháp là phong cách Hồ Chí Minh làm
cho tư tưởng và triết lý của Người vốn đã vô cùng sâu sắc, tinh túy lại càng
trở nên sâu sắc hơn, sống động và hấp dẫn hơn. Phương pháp luận nghiên
cứu Hồ Chí Minh học làm lấp lánh thêm vẻ đẹp tư tưởng của Hồ Chí Minh
– nhà tư tưởng mácxít hiện đại mang cốt cách hiền triết Á Đông và Việt
Nam. Hội tụ mọi giá trị từ phương diện ấy tạo nên nhân cách Hồ Chí Minh
– một nhân cách văn hóa, một hiện tượng văn hóa độc đáo. Chỉ có tiếp cận
từ văn hóa mới thấy được chiều sâu giá trị và ý nghĩa của phương pháp
luận nghiên cứu về Hồ Chí Minh đối với sự phát triển xã hội.
Thành công trong việc nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí
Minh tựu trung lại ở chỗ, công phu rèn luyện cho mình một năng lực thấy
hiểu và thấy cảm khi tiếp cận và nghiên cứu Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Năng lực ấy hòa quyện trong cảm xúc đối với Người, nghĩ về Người,
tâm niệm sống như Người đã sống, đã hành động, đã dâng hiến tất cả trí
lực, tâm hồn, tình yêu cho Tổ Quốc, dân tộc và nhân loại. Năng lực thấu
hiểu và thấu cảm đó chính là văn hóa và nhân cách văn hóa, sao cho mỗi
người chúng ta mang được trong mình một chút gì đó, nhỏ nhoi thôi nhưng
thực chất từ hình ảnh của Người, giá trị của Người – con người của sự hài
hòa lý tưởng chân – thiện – mỹ.


15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS. TS Hoàng Chí Bảo, Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.
2. Th.S Trần Thị Kim Cúc, Tìm hiểu Di sản lý luận của các nhà kinh
điển chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009.
3. Phạm Văn Đồng, Những nhận thức cơ bản về Tư tưởng Hồ Chí
Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
4. Dniel Hémery, Hồ Chí Minh từ Đông Dương đến Việt Nam, NXB
Phụ nữ, Hà nội, 1990.
5. GS. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên), Phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2010.
6. GS. Đinh Xuân Lâm, Một số phương pháp luận nghiên cứu về Chủ
tịch Hồ Chí Minh, tạp chí Xây dựng Đảng, 1994.
7. Hồ Chí Minh, Toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000, tập
1, tập 2, tập 5, tập 9.
8. PGS. TS Bùi Đình Phong, Hồ Chí Minh học và Minh triết Hồ Chí
Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2008.
9. GS. Song Thành (chủ biên), Một số vấn đề về phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
1997.

16


MỤC LỤC


17



×