Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tieu luan tác phẩm kinh điển quan điểm của mác và ăngghen về thời kỳ quá độ qua tác phẩm tuyên ngôn độc lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.82 KB, 25 trang )

A. Lời Mở Đầu
Sự biến đổi về hình thái kinh tế xã hội là một tất yếu của xã hôi loại
người, khi một hình thái này không còn phù hợp với sự phát triển nữa thì sẽ
có một hình thái khác phù hợp hơnthay thế cho nó. Mác và Ăngghen đã dự
báo được những biến đổi của xã hội mới, và đã đưa ra những quan điểm của
mình về quá trình hình thành một xã hội mới, và trong cái xã hội đấy thì giai
đoạn đầu là thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Với việc là người phát
triển và hoàn thiện học thuyêt của Mác Lênin vận dụng thành công học thuyết
vào thực tiễn của Liên Xô và đã tạo được tiền đề cho các nước đi sau học hỏi
và áp dụng.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời kỳ này ở các nước có
trình độ phát triển xã hội khác nhau có thể diễn ra với khoảng thời gian dài
ngắn khác nhau.Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở
trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thời kỳ quá độ có thể diễn ra tương
đối ngắn. Những nước trải qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản ở
trình độ trung bình, đặc biệt là ở những nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc
hậu thì thời kỳ quá độ tương đối và phức tạp.
Ở nước ta thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ những
năm 1945 ở miền bắc và những năm 1975 trên phạm vi cả nước sau khi cuôc
cách mạng dân tộc dân chủ của nhân dân đã hoàn toàn giành thắng lợi, đánh
đuổi hoàn toàn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, đất nước hòa bình và thống nhất
quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong lúc ta đang tập trung để khắc
phục hậu quả của chiến tranh, kinh tế đang dần dần phát thì chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô và đông âu sụp đổ, Đảng ta vẫn quyết định nước ta tiến lên chủ
nghĩa xã hội bước vào thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nước
ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa là tất yếu khách quan, do
nó phù hợp với sự phát triển chung của xã hội loài người, và trong thời đại

1



ngày nay, độc lập dân tộc gắn liền với xã hội chủ nghĩa do đó đất nước ta
giành độc lập đân tộc tất yếu phải đi lên chủ nghĩa xã hội.
lý do chon đề tài: vì đây là một chủ trương lớn của đảng và nhà nước
ta, cần nhiều thời gian và công sức mới có thê thực hiện được. Chính vì nó là
một chính sách lớn lên có tầm ảnh hưởng và bao quát rất rộng, đã có rất nhiều
nhà nghiên cứu và công trình tìm hiểu về nó.tuy co nhiều tài liệu về vấn đề
này nhưng mức độ hiểu biết của bản thân về vấn đề này thì vẫn còn hạn chế.
Vì vậy mà tôi chọn chủ đề trên để nâng cao luôn hiểu biết của bản thân mình.
Phương pháp nghiên cứu: trong bài tiểu luận của mình tôi có sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành chính trị học và một số
phương pháp khác như là: phương pháp lịch sử; phân tích; so sánh……

2


B. Nội Dung
I. Quan điểm của Mác – Ăngghen và lênin về thời kỳ quá độ
1. Quan điểm của Mác và Ăngghen về thời kỳ quá độ
Phân tích các quy luật phát triển của xã hội tư bản chủ nghĩa, C. Mác
cùng với Ăngghen đã rút ra kết luận về sự diệt vong tất yếu của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa và sù thay thế nó bằng phương thức sản xuất cộng
sản chủ nghĩa. Hai ông; trước hết, chỉ rõ sự tiến bộ lịch sử của chế độ tư bản,
vai trò cực kỳ to lớn của nã trong việc phát triển sức sản xuất và xã hội hoá
lao động; mặt khác, cũng chỉ ra giới hạn, tạm thời về mặt lịch sử của chế độ
đó. C. Mác-Ăngghen đã dự báo rằng: “ Sự tập trung tư liệu sản xuất, và xã hội
hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng ta không còn thích hợp vỏ tư bản chủ
nghĩa của chúng nữa. Cái vỏ đó vì tung ra. Giờ tận số của chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa đã điểm. Nhưng kẻ đi tước đoạt bị tước đoạt”. Những tư tưởng
về nhà nước và về thời kỳ quá độ đấy được hai ông thể hiện qua tác phẩm “

tuyên ngôn của đảng cộng sản” và tác phẩm “ phê phán cương lĩnh Gôta”.
1.1 Tác phẩm “tuyên ngôn độc lập”
Tác phẩm “ tuyên ngôn của đảng cộng sản” tuy không trức tiếp đề cập
đến vấn đề quá độ nhưng nó là nơi hình thành nhà nước của giai cấp vô sản.
Giai cấp vô sản đứng dậy lật đỏ sự thống trị của giai cấp tư sản để giành chính
quyền. rồi từ đó tùy vào điều kiện cụ thể của các nước mà thực hiện quá độ
lên xã hội chủ nghĩa dựa vào những thành tựu về việc phát triển kinh tế mà
chủ nghĩa tư bản đã đạt được. Trong tác phẩm của mình tác giả đã đưa ra quan
điểm về viiecj giành chính quyền, điều kiện tất yếu để thực hiện qus độ:
“quyền lực chính trị gắn với việc đấu tranh giành chính quyền và tiến tới nắm
chính quyền, C.Mác, Ăngghen đã vận dụng vào cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản và chỉ ra rằng : giai cấp công nhân muốn có được quyền lực chính trị
thì việc đàu tiên là phải giành được chính quyền. các ông chỉ rõ: “giai cấp vô
sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành
giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”
3


Trong cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản, giai cấp vô sản tất yếu cũng
phải dùng đến bạo lực cách mạng như tất cả các cuộc đấu tranh chính trị đã
từng diễn ra trong lịch sử, các ông cho rằng: “khi cuộc nội chiến ấy nổ bung
ra thành cuộc cách mạng công khai, mà giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị
của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp vô sản”. C.Mác và Ăngghen
đã chỉ rõ nhiệm vụ tiếp theo của đảng chính trị sau khi đã lãnh đạo giai cấp
công nhân thiết lập được chính quyền, đó là xác lập được địa vị chính trị,
củng cố và đảm bảo địa vọi kinh tế. Bởi lẽ, kinh tế quyết định chính trị, kinh
tế là nền tảng vật chất của chính trị, là yếu tố đảm bảo cho chính trị được bền
vững, ổn định.
1.2. Tác phẩm “ phê phán cương lĩnh Gôta “
Tác phẩm “ phê phán cương lĩnh Gôta” của Mác nhằm phân tích, phê

phán bản dự thảo cương lĩnh do đảng xã hội dân chủ Đức thảo ra cho đại hội
hợp nhất giữa đảng công nhân xã hội dân chủ Đức và liên hiệp công nhân
toàn Đức họp tháng 5 – 1875 tại thành phố Gôtha. Nhưng phải đến 1890, sau
khi Mác qua đời và trước khi đại hội Ecfuot của đảng xã hội dân chủ Đức
được triệu tập vào năm 1891, và nhờ có tinh thần đấu tranh kiên quyết của
Enghen chống những cơ hội khuynh hữu, văn kiện của Mác mới được công
bố với tên với tên gọi;” phê phán cương lĩnh Gôtha” và đăng lần đầu tiên trên
tờ “thời đại mới” – cơ quan lý luận của đảng xã hội dân chủ Đức. Đây là một
trong những tác phẩm kinh điển về chủ nghĩa cộng sản khoa học có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn rất lớn đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã đưa ra một định
nghĩa kinh điểm về thời kỳ quá độ: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội
cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội
kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, trong đó nhà
nước không thể là cái gì khác hơn là chuyên chính cách mạng của giai cấp vô
sản”. Ở đây có ba nội dung được C.Mác nhấn mạnh là thời kỳ quá độ chính
trị, chuyên chính vô sản và cải biến cách mạng từ xã hội nó sang xã hội kia.
4


C. Mác đồng thời nêu ra những nhiệm vụ của cuộc đấu tranh cho cách
mạng XHCN, cho thắng lợi của chuyên chính vụ sản, cho việc tước đoạt giai
cấp tư sản. Nhưng ý kiến đó của C. Mác không những có ý nghĩa vụ cung lớn
lao trong thời kỳ đó đối với giai cấp công nhân, mà ngay cả bây giờ nữa;
những ý kiến Êy còng giúp cho chúng ta thấy rõ được con đường phải đi
trong cái mớ hẩu lớn những học thuyết về CNTB nhân dân do bọn tư bản đưa
ra và đủ các loại học thuyết này nọ do bọn cơ hội chủ nghĩa, bọn cải lương
chủ nghĩa và bọn xét lại chủ nghĩa đang tung ra để lừa bịp nhân dân thế giới.
Đó là một mặt có ý nghĩa quan trọng của tác phẩm này của C.Mác. Mặt
khác không hoàn toàn chỉ đóng khung trong luận chiến chống tư tưởng của

Lát-xan, nó còn giải quyết một cách chính diện những vấn đề quan trọng nhất
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
C.Mác có nói: “cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã
hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại
là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai ra khỏi xã hội tư bản chủ
nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần –
còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”.
Trước khi viết “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, Mác đã chứng minh sự
cần thiết phải thiết lập chuyên chính vô sản, sự cần thiết phải đập tan bộ máy
nhà nước của giai cấp tư sản. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, Mác nêu
vấn đề này bằng một phương thức khác. Mác nói, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội không thể không có một thời kỳ quá độ về chính trị. Nhà nước
của thời kỳ quá độ này là nền chuyên chính của giai cấp vô sản. Mác khẳng
định rằng: giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản có một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội trước đến xã hội sau. Tương ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ
quá độ chính trị trong đó nhà nước không thể làm khác hơn là chuyên chính
cách mạng của giai cấp vô sản. Trong Phê phán Cương lĩnh Gôta, Mác phê
phán chủ nghĩa Látxan không phải là vì nó đề ra yêu sách có tính chất dân chủ
tư sản, mà vì nó chỉ thỏa mãn với yêu sách đó, không đưa ra một chút gì về
5


yêu sách xã hội chủ nghĩa mà chỉ đem yêu sách có tính chất dân chủ tư sản
thay cho yêu sách dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng về chuyên chính vô sản
của Mác được Lênin phát triển trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
Trong tác phẩm đó, Lênin khẳng định rõ thái độ vô sản chuyên chính đối với
dân chủ và so với dân chủ tư sản thì vô sản chuyên chính còn dân chủ gấp
nhiều lần.
Trong tác phẩm có đoạn :” giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ
nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng

với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không
thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
2. Quan điểm của lênin về thời kỳ quá độ qua các tác phẩm
2.1. Tác phẩm nhà nước và cách mạng.
Nhà nước và cách mạng” là tác phẩm đặc sắc của V.I Lê nin trên nhiều
phương diện triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó lần
đầu tiên học thuyết của C.Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề nhà nước được trình
bày một cách có hệ thống và đầy đủ nhất. V.I Lênin đã khẳng định vấn đề nhà
nước là một trong những vấn đề căn bản của chủ nghĩa Mác, phân tích mối liên
hệ giữa nhà nước với tính chất giai cấp của xã hội, tính tất yếu của cách mạng
xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, xác định thực chất và nhiệm vụ của
nhà nước vô sản và nền dân chủ vô sản, đã phát triển sáng tạo những luận điểm
của C. Mác và Ph. Ăngghen về nhà nước trong điều kiện mới.
Lênin đã đưa ra ra một số quan điểm về thời kỳ quá độ từ thực tại ở
Liên xô:” về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về cơ sở
vất chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và chủ nghia cộng sản, về quan hệ
sản xuất, về cơ cấu xã hội và về tổ chức chính trị của xã hội trong điều kiện
chủ nghĩa xã hội, về việc xây dựng thế giới quan cộng sản chủ nghĩa và đạo
đức cộng sản chủ nghĩa của người lao động trong xã hội xã hội cộng sản chủ
nghĩa, về những quy luật và những con đường quá độ của chủ nghĩa xã hội
lên chủ nghĩa cộng sản. Sau khi quá độ lên giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng
6


sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa toàn dân sẽ phát triển thành tổ chức tự quản xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
Sự quá độ lên giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa đòi hỏi phải: xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa cộng
sản; hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và các quan hệ khác; hình
thành và củng cố một cơ cấu xã hội chuẩn nhất của xã hội; xóa bỏ những sự

khác biệt trọng yếu giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao
động chân tay; phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát triển tính tích cực xã
hội của quần chúng; bồi dưỡng con người phát triển toàn diện của xã hội cộng
sản chủ nghĩa, bồi dưỡng và phát triển thái độ cộng sản chủ nghĩa đối với lao
động, ý thức cộng sản chủ nghĩa, phát triển một nền văn hóa cao. Điều kiện
không thể thiếu để xây dựng thành công chủ nghia cộng sản là sự kết hợp hư
cơ của các thành tựu khoa hoc – kỹ thuật với những ưu việt của chủ nghĩa xã
hội. Đường lối chính trị của đảng cộng sản Liên Xô là giải quyết những nhiệm
vụ ấy.
Ý nghĩa của tác phẩm được thể hiện một cách đầy đủ nhất trong giai
đoạn phát triển xã hội hiện nay. Thời đại ngày nay, mà nội dung cơ bản là sự
quá đọ của loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, là thời đại đấu
tranh giữa hai hề thống xã hội đối lập nhau đó là hệ thống xã hội chủ nghĩa và
hệ thống tư bản chủ nghĩa, thời đại những cuộc cách mạng chủ nghĩa và giải
phóng đân tộc, thời đại sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc, thủ tiêu hwj thống
thuộc địa, thời đại ngày càng có nhiều dân tộc chuyển sang con đường chủ
nghĩa xã hội, thời đại chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi trên
quy mô toàn thế giới.
Điểm được toàn bộ học thuyết về sự phát triển và được khoa học nói
chung xác định rất đúng đắn, điểm mà trước đây bọn không tưởng đã bỏ quên
và hiện nay bọn cơ hội chủ nghĩa sợ cách mạng xã hội chủ nghĩa, cũng bỏ
quên, điểm đó là : không nghi ngờ gì nữa, trong quá trình lịch sử, phải có một
giai đoạn đặc biệt quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
7


Mác nói: giữa cái xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là
một thời kỳ chuyển hóa cách mạng từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng
sản chủ nghĩ. Thích ứng với thời kỳ này là thời kỳ chính trị quá độ, và nhà
nước thời kỳ này không phải là cái gì khác, ngoài nền chuyên chính cách

mạng của giai cấp vô sản.
Một xã hội tư bản chủ nghĩa đang phát triển lên chủ nghĩa cộng sản,
không thể nào chuyển lên cộng sản chủ ngĩa được, nếu không có thời kỳ quá
độ chính trị, và thời kỳ đó nhà nước chỉ có thể là nhà nước chuyên chính vô
sản. Do đó tất cả những quan điểm trên của lênin đã tạo ra một cơ sở đúng
đắn hơn về những sự thay đổi của chế độ dân chủ trong bước quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc
lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ đối với bọn chúng : đó là
sự biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản.
Vậy là trong xã hội tư bản chủ nghĩa, chúng ta chỉ có một thứ dân chủ
cắt xén, khốn khổ, giả dối, mọi thứ dân chủ chỉ dành riêng cho bọn giàu có,
cho soos ít. Lần đầu tiên chuyên chính vô sản, tức là thời kỳ quá độ tiến tới
chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho nhân dân, cho số
đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột. Chỉ có
chủ nghĩa cộng sản mới có thể đưa lại một chế độ dân sự thất sự hoàn bị, và
nó càng hoàn bị bao nhiêu thì càng trở lên thừa và tự tiêu vong bấy nhiêu.
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, sự
trấn áp vẫn còn tất yếu nhưng đó đã là sự trấn áp của đa số bị bóc lột đối với
thiểu số bóc lột.
2.2 Tác phẩm bàn về thuế lương thực
Thời kỳ quá độ là một bước chung gian còn nhiều yếu tố đan xen giữa
xã hội cũ và xã hội mới, giữa tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Lênin cho

8


rằng : “ phải biết nghĩ đến những mắt xích trung gian có thể tạo điều kiện cho
bước chuyển từ chế độ gia trưởng, từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội”.

Thời kỳ quá độ chính là nhằm để tạo cơ sở vật chất – kỹ thuật chuẩn bị
cho chủ nghĩa xã hội. Không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng
trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ chức
nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết sức
nghiêm ngawcjt một tiêu chuẩn thống nhất trong việc sản xuất và phân phối
sản phẩm, thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được.
Thời kỳ quá độ và giai đoạn chủ nghĩa xã hội đật dưới sự lãnh đạo của
giai cấp vô sản, đứng đầu là đảng cộng sản đối với toàn xã hội. Chính quyền
mang bản chất của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động. Khối liên
minh công – nông tiếp tục được củng cố. Lênin khẳng định :” nếu không có
sự thống trị của giai cấp vô sản trong nhà nước thì cũng không thể nói đến
chủ nghĩa xã hội được”.
Lênin cho rằng, trong thời kỳ quá độ, hai lĩnh vực quan trọng nhất phải
chú ý đến là :
Về chính trị: chính quyền trong thời kỳ quá độ là chính quyền được
thiết lập từ sự tan rã của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Thời kỳ quá
độ là tất yếu chính trị giữa tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Về xã hội: xã hội trong thời kỳ quá độ là thời kỳ thoát thai từ xã hội cũ
mà ra. Không thể không nhận rõ những cơ sở và những quan hệ kinh tế, xã
hội khách quan của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đang còn đan xen
lẫn nhau. Trong thời kỳ quá độ, mâu thuẫn chủ yếu nổi lên đối với giai cấp vô
sản đó là : tính tự phát tiêu tư sản là kẻ thù chính, đây là cơ sở cho chủ nghĩa
tư bản và giai cấp tư bản phục hồi. Trong thời kỳ quá độ cơ cấu giai cấp, tầng
lớp trong xã hội bao gồm: giai cấp nông dân; giai cấp vô sản; giai cấp tư sản;
ngoài ra là tầng lớp buôn bán nhỏ, tiểu thị dân, trong đó giai cấp nông dân là
chủ yếu.

9



3. Vai trò củ các tác phẩm.
Các tác phẩm của Mác – Ăngghen và lênin và cơ sở, là nền tảng cho sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới và cụ thể ở đây là
quan điểm về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đã
cung cấp lý thuyết cho các nước theo thể chế xã hội chủ nghĩa con nghèo,
kém phát triển và những nước mới giành được độc lập từ tay các nhà tư bản
học hỏi và áp dụng vào thực tế của đất nước mình để tập trung phát triển kinh
tế một cách nhanh mà không bị chệch hướng lên chủ nghĩa cộng sản.
Lênin đã hiện thực hóa những lý thuyết về một nhà nước xã hội chue
nghĩa của dân thành công ở Liên Xô đã làm chỗ dựa cho các nước khác,
không chỉ là chỡ dựa về tinh thần mà bằng sự phát triển kinh tế với tốc độ
tương đối nhanh của mình Liên Xô đã là chỗ dựa vững chắc về kinh tế cho
các nước xã hội chủ nghĩa chậm phát triển
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chuyên
chính vô sản là tất yếu lịch sử, giai cấp vô sản dùng chính quyền nhà nước để
đàn áp thiểu số dân cư là bọn bóc lột và xây dựng xã hội mới. Chuyên chính
vô sản là nhà nước quá độ và nó khác về cơ bản với nhà nước tư sản: trong xã
hội xã hội chủ nghĩa, nhà nước từ chỗ là công cụ thống trị giai cấp chuyển
thành cơ quan thể hiện ý chí của toàn dân.
V.I Lênin khẳng định, sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội tạo ra tính muôn hình muôn vẻ của hình thức chính quyền nhà nước, song
thực chất của chúng tất nhiên chỉ là một: chuyên chính vô sản. Kết quả nghiên
cứu và tổng kết kinh nghiệm cùng những bài học của các cuộc cách mạng là
kết luận của Mác và Ăngghen cho rằng giai cấp công nhân chỉ có thể giành
được chính quyền và thiết lập nền chuyên chính vô sản bằng con đường cách
mạng xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó giai cấp vô sản phá huỷ bộ
máy nhà nước tư sản và dựng lên bộ máy nhà nước mới. Lênin dạy: “Chỉ
người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận
chuyên chính vô sản thì mới là người mác-xít”.
10



Nhiệm vụ của chuyên chính vô sản là thủ tiêu chế độ người bóc lột
người và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chuyên chính vô sản có vai trò tổ chức
quan trọng trong việc xây dựng xã hội mới, đó là một nhà nước kiểu mới, nhà
nước dân chủ kiểu mới. Nguyên tắc tối cao của nó là liên minh của giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân, với toàn thể nhân dân lao động và các tầng
lớp xã hội khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Nhà nước vô sản là nhà nước cuối cùng trong lịch sử. Sau khi hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình: phát triển sản xuất, xóa bỏ sự phân chia xã
hội thành giai cấp, nhà nước vô sản sẽ tự tiêu vong, nhà nước mất đi, chế độ
nhà nước được thay thế bằng chế độ tự quản cộng sản chủ nghĩa. Đúng như
Lê-nin đã chỉ ra, với việc hoàn thành xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhà
nước sẽ hoàn toàn không cần thiết nữa.
Trong tác phẩm của mình, Lênin đã vạch ra thực chất và nhiệm vụ của
chuyên chính vô sản, vai trò tổ chức cực kỳ to lớn của nó trong việc xây dựng
xã hội mới sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Lênin đã đặc biệt nhấn mạnh tính chất dân chủ của nhà nước vô sản, sự
khác biệt cơ bản của nó với nền dân chủ tư sản. Lênin dạy rằng chuyên chính
vô sản là một kiểu nhà nước mới, “nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ đối
với những người vô sản và nói chung những người không có của), và chuyên
chính kiểu mới (chống giai cấp tư sản)”. Nhà nước vô sản bảo vệ quyền lợi
của những người lao động. Như Lênin đã chỉ rõ, sự khác biệt cơ bản của
chuyên chính vô sản với nhà nước tư sản biểu hiện ở các hình thức tổ chức
nhà nước và ở vai trò lịch sử mà nó thực hiện
V.I. Lênin đã cụ thể hóa và phát triển học thuyết của Mác về hai giai
đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội,
vạch ra về mặt lý luận cơ sở kinh tế để nhà nước tiêu vong. Trong giai đoạn
chủ nghĩa xã hội, do trình độ phát triển kinh tế còn thấp, do vậy phải thực
hiện nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, chỉ đến giai đoạn

sau chủ nghĩa cộng sản, khi trình độ phát triển kinh tế ở mức cao mới thực
11


hiện theo nguyên tắc: “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Do vậy sự
tiêu vong của nhà nước là một quá trình lâu dài tùy thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế và xã hội của chủ nghĩa cộng sản, dần chuyển thành tổ chức tự
quản xã hội cộng sản chủ nghĩa.
II. Ý nghĩa của thời kỳ quá độ đối với Việt Nam
1.Tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam
Ngay trong luận cương chính trị 1930, Đảng CSVN đã xác định sau khi
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sẽ tiến lên cách mạng XHCN
bỏ qua chế độ TBCN.
- Sau khi miền bắc được giải phóng, miền bắc tiến lên CNXH và sau
khi thống nhất đất nước, cả nước cùng tiến lên CNXH với đặc điểm to lớn
nhất là tõ 1 nước Nhà nước lạc hậu.
- Sau khi CNXH bị suỵ đổ ở liên xô và đông âu, đảng ta vẫn xác mạnh
nước ta tiến lên CHXH bỏ qua chế độ TBCN.
Nước ta tiến lên CNXH là tất yếu khách quan vì:
+ Nã phù hợp với sự phát triển chung của xã hội loài người.
+ Nã do tính chất của thời đại quy định thời đại ngày nay là thời đại
quá độ tiến lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới mở đầu từ CMT10 Nga
thành công mặc dù CNXH đã bị sụp đổ ở Liên xô và Đông âu nhưng đó là sự
sụp đổ về mô hình còn tính chất của thời đại vẫn không có gì nữa.
+ Trong thời đại ngày nay, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH do đó
nước ta dành độc lập dân tộc tất yếu phải đi lên CNXH.
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở
miền Bắc và từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước
thống nhất, cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên

phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

12


Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên
chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có
nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã
phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và cần xây dựng quan hệ sản
xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với những nước thuộc loại
này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra
ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: "nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là
phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần
lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và
khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải
cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ
chủ chốt và lâu dài"
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất
yếu lịch sử đối với nước ta, vì:
- Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi
thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ
nghĩa. Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi với tình hình mới,
chủ nghĩa tư bản thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng vẫn

không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này
không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản
không phải là tương lai của loài người. Đặc điểm của thời đại ngày nay là thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Quá trình cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa
13


không phải là quá trình cải lương, duy ý chí, mà là quá trình cách mạng sôi
động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan, hợp với quy luật của lịch
sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và
loài người tiến bộ đang vươn tới luôn đại diện cho những giá trị tiến bộ của
nhân loại, đại diện lợi ích của người lao động, là hình thái kinh tế - xã hội cao
hơn chủ nghĩa tư bản. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải
phóng con người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ
chung của loài người. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy
luật phát triển tự nhiên của lịch sử.
- Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20
của thế kỷ XX. Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng
Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ
vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự lựa chọn con đường độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, như vậy là sự lựa chọn của
chính lịch sử dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã
thể hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
nước ta là một tất yếu lịch sử.
Khả năng về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam

Khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN ở Việt Nam
Khả năng: Mặc dù không còn hệ thống XHCN như trước nhưng những
điều kiện khách quan và chủ quan cho phép chúng ta tiến lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN.
- Điều kiện khách quan (điều kiện bên ngoài): thế giới đang là xu thế
hoà hoãn và hoà bình, Cách mạng khoa học công nghệ tác động rất mạnh mẽ,
xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá ngày càng trở thành hiện thực. Trong bối
14


cảnh đó, nếu chúng ta có đường lối chính sách đúng đắn thì sẽ tranh thủ được
vốn kỹ thuật tiên tiến và trình độ quản lý của các nước, các tổ chức phi chính
phủ ở trên thế giới và trong khu vực để giúp chúng ta đi nhanh. Đây vừa là
thời cơ vừa là thách thức.
Về khả năng khách quan
Trước hết phải kể đến nhân tố thời đại, tức xu thế quá độ lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Nhân tố thời đại đóng vai trò tích cực làm thức tỉnh các dân tộc, các
quốc gia, không những làm cho quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trở
thành một tất yếu mà còn đem lại những điều kiện và khả năng khách quan
cho sự quá độ này. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nước ngày càng tăng lên, cũng như sự phát triển của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng để các nước
kém phát triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những lực
lượng sản xuất hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi
trước để thực hiện "con đường phát triển rút ngắn". Xu thế toàn cầu hoá, sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng lên tuy có
chứa đựng những nguy cơ và thách thức nhưng vẫn tạo khả năng khách quan
cho việc khắc phục khó khăn về nguồn vốn và kỹ thuật hiện đại cho các nước
chậm phát triển, nếu như có đường lối, chính sách đúng đắn. Trong điều kiện

đó, cho phép và buộc chúng ta phải biết tranh thủ cơ hội, tận dụng, khai thác,
sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về những tiền đề chủ quan:
- Việt Nam là nước có số dân tương đối đông, nhân lực dồi dào, tài
nguyên đa dạng. Nhân dân ta đã lập nên chính quyền nhà nước dân chủ nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên
chính vô sản, đã xây dựng những cơ sở ban đầu về chính trị, kinh tế của chủ
nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo 15


một đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo, khoa học và trí tuệ, có đường lối
đúng đắn và gắn bó với quần chúng - đó là nhân tố chủ quan có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã từng
chiến đấu, hy sinh không chỉ nhằm mục đích giành lại độc lập dân tộc, mà còn vì
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới đáp ứng được. Vì vậy, quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật
chất đủ sức vượt qua mọi khó khăn và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
- Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt
đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đã thu được những kết quả bước đầu
khả quan, giữ vững ổn định chính trị; tạo môi trường hợp tác đầu tư; phát
triển kinh tế; đời sống nhân dân được cải thiện... điều đó đã củng cố và khẳng
định con đường lựa chọn lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn.
Nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa
-Đây chính là con đường phát triển "rút ngắn" lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Về chính trị, bỏ qua chế độ tư bản là bỏ qua giai đoạn thống trị của
giai cấp tư sản, của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế, bỏ qua

chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, nhưng phải biết tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó chính
là sự rút ngắn thời gian thực hiện quá trình xã hội hoá sản xuất tư bản chủ
nghĩa bằng con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là rút
ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
-Chủ nghĩa tư bản đã có vai trò lịch sử là phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất, xã hội hoá lao động dựa trên nền tảng chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa. Quá trình này đã diễn ra một cách tự phát, tuần tự, kéo dài hàng thế kỷ
16


cùng với những đau khổ đối với con người. Ngày nay, trong những điều kiện
lịch sử mới, chúng ta có thể đi con đường phát triển rút ngắn, phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, tránh cho nhân dân ta những đau khổ của con
đường tư bản chủ nghĩa. Sự rút ngắn này được thực hiện thông qua việc sử
dụng biện pháp kế hoạch đồng thời với việc sử dụng biện pháp thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở xây
dựng, phát triển kinh tế nhà nước vững mạnh đóng vai trò chủ đạo đối với
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự rút ngắn này chỉ có thể thực hiện thành công
với điều kiện chính quyền thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhận thức đầy đủ rằng sự rút ngắn ở đây không
phải là công việc có thể làm nhanh chóng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: "tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều. Đó là cả một
công tác tổ chức và giáo dục"
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo cách nói tóm tắt và mộc mạc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là: trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát
nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống
một đời hạnh phúc. Quán triệt tư tưởng cơ bản đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh,

trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta đã khẳng định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ.
17


- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới"
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: xây dựng một xã hội dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
2. Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thứ nhất: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước:
Đây được coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển lực lượng sản
xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính

sang việc sử dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ
hiện đại, tiên tiến, tạo ra năng suất lao động cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật
của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế lạc hậu, chủ nghĩa tư
bản chưa phát triển. Tuy nhiên, chiến lược, nội dung, hình thức, bước đi, tốc
độ, biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội phải được xuất phát từ điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi nước và
từ bối cảnh quốc tế trong mỗi thời kỳ.
Chỉ có hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
mới có thể xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật cho xã hội mới, nâng cao
năng suất lao động đến mức chưa từng có để làm cho tình trạng dồi dào sản
phẩm trở thành phổ biến, nhờ đó mới thực hiện được các mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội.

18


Thứ hai: Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa :
Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng
quan hệ sản xuất mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà
phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ một sự cải
biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả tất yếu của việc tạo
nên những lực lượng sản xuất mới. Vì vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất
mới ở nước ta phải được phát triển từng bước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước như nước ta,
chế độ sở hữu tất yếu phải đa dạng, cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành

phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đường lối phát triển một nền kinh
tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tác dụng to lớn trong
việc động viên mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài, lấy nội lực làm
chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ có thể cải tạo
quan hệ sở hữu hiện nay một cách dần dần, bởi không thể làm cho lực lượng
sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền
kinh tế công hữu thuần nhất một cách nhanh chóng.
Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có nhiều hình thức phân
phối và nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như việc xác lập địa vị
làm chủ của người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra
từng bước, dưới nhiều hình thức và đi từ thấp đến cao.
Thứ ba: Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:

19


Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh
tế khép kín, mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế
tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính chất quy luật trong thời đại ngày nay.
Chúng ta "mở cửa" nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ
kinh tế quốc tế, nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát
huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu
ngành và sản phẩm ... mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên
doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong
nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế phải trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ

quyền của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Muốn vậy, phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế;
tích cực khai thác thị trường thế giới; tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu; tích
cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn
cầu; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với
độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia.
Nói về tầm quan trọng của nhiệm vụ này, Đại hội X của Đảng nhấn
mạnh: "Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ
hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi
ích đất nước làm mục tiêu cao nhất
3. Những thách thức của Việt Nam trong thời kỳ quá độ
Nói nền kinh tế thị trường hiện nay của nước ta là nền kinh tế thị
trường sơ khai vì:
- Thứ nhất, Các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế,
chủ thể chính của nền kinh tế thị trường của nước ta, mới bắt đầu được hình
thành trong 20 năm nay, vì thế số lượng còn ít, quy mô còn nhỏ bé, năng lực
mọi mặt, đặc biệt là việc tham gia hội nhập với quốc tế còn rất hạn chế.

20


- Thứ hai, hệ thống các loại thị trường: Thị trường tài chính – tiền tệ, thị
trường khoa học – công nghệ, thị trường lao động, thị trường đất đai-bất động
sản ở nước ta đang trong quá trình hình thành, vì thế nó còn rất sơ khai, yếu ớt
và hoạt động chưa theo quy luật của kinh tế thị trường.
- Thứ ba, thể chế kinh tế thị trường chưa được xây dựng một cách đầy
đủ, đồng bộ, chặt chẽ, minh bạch và hội nhập; việc thực thi pháp luật của bộ
máy quản lý Nhà nước các cấp còn rất yếu kém, v.v…
Nền kinh tế nước ta đã chuyển mạnh sang công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập sâu rộng với các nền kinh tế trên thế giới, do nó nếu chúng ta

vẫn giữ mô hình kinh tế thị trường sơ khai, chắc chắn sẽ tạo ra sự cản trở lớn
đối với sự phát triển.
Còn định hướng xã hội chủ nghĩa thì như trên chúng tôi đã nêu là rất xa
vời, và không rõ ràng, nó không những không tạo ra được động lực phát triển
mà trong chừng mực nào đó còn đem lại cho chúng ta những khó khăn trong
việc giải quyết các vấn đề thực tiễn do sự phát triển đang đặt ra, cụ thể:
- Thứ nhất, nó làm cho chúng ta không triệt để trong đổi mới tư duy
kinh tế. Bởi vì, sự đổi mới đó luôn phải được đắn đo, cân nhắc xem nó có
chệch định hướng xã hội chủ nghĩa hay không.
- Thứ hai, cũng vì phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên chúng ta
cũng chưa dám mạnh dạn trong đổi mới thể chế chính trị của đất nước. Thể
chế chính trị của chúng ta hiện nay về cơ bản vẫn là thể chế chính trị của nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan
liêu, bao cấp, chứ không phải là thể chế của nền kinh tế thị trường.
- Thứ ba, cũng vì phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên cơ chế,
chính sách và các giải pháp tổ chức, quản lý nền kinh tế chúng ta đưa ra
không rõ ràng, dứt khoát và minh bạch. Điển hình là vấn đề sở hữu, vấn đề
đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước, vấn đề đầu tư, v.v…
Tóm lại, theo tôi, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta không còn phù hợp với tình hình và yêu cầu của giai đoạn
21


phát triển mới nữa, cần được thay thế bằng mô hình mới tốt hơn, tạo ra nhiều
động lực cho sự phát triển đất nước hơn. Mô hình kinh tế tổng quát của Việt
Nam trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm
2020 về cơ bản biến nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
theo tôi là:
Nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện đại – dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh.

Nền kinh tế thị trường hiện đại thì tôi đã nêu ở phần trên, còn Việt Nam
là nền kinh tế đó ngoài những điểm chung của nền kinh tế thị trường, còn
mang đậm bản sắc văn hoá, lịch sử của dân tộc Việt Nam, và do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh là ý nguyện của Bác Hồ, là mong muốn của mọi người dân Việt Nam.
Tôi cho rằng mô hình kinh tế này vừa rõ ràng, cụ thể vừa phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại, vì thế chắc chắn nó sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ thúc
đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh trong tương lai.

22


C. Kết luận
Chủ nghĩa Mác – Lênin có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với công cuộc
giải phóng con người và giải phóng đất nước của giai cấp vô sản trên phạm vi
toàn thế giới.
Ở Việt Nam chủ nghĩa Mác - Lênin đã được chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp
thu một cách có chọn lọc và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam, giúp cho nhân dân ta giành được độc lập và làm chủ chính
quyền. Trong những năm gần đây đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển
kinh tế và phát triển đất nước, để có sự thành công đó không thể không kể đến
sự đóng góp quá lớn của các nhà kinh điển trước đó như Mác và Lenin, những
con người đã hoạt động hết mình để đem lại hạnh phúc cho mọi người.những
quan điểm của các ông đến ngày nay vẫn còn rất phù hợp như quan điểm về
thời kỳ quá độ mà đến ngay nay được Việt Nam ứng dụng rất thành công để
tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội làm điều kiện để tiến lên chủ nghĩa cộng
sản, một xã hội mà loài người luôn mong muốn đạt tới.
Hiện nay chủ nghĩa tư bản đang gặp hái nhiều thành công về thành tựu
phát triển kinh tế, và chủ nghĩa tư bản cũng đã thực hiện nhiều biện pháp để
điều chỉnh các hình thức bóc lột của mình, để duy trì sự tồn tại của mình lâu

hơn nữa và hộ cũng không ngần ngại sử dụng các biện pháp và thủ đoạn để
gây cản trở cho các nước xã hôi chủ nghĩa nhằm loại bỏ dần mối nguy hiểm
đối với họ. Chính vì thế mà các nước xã hội chủ nghĩa phải nhanh chóng hoàn
thành quá trình quá độ để tiến lên chủ nghia xã hội, cần phải đoàn kết hơn
nữa, cùng nhau tiến lên chủ nhĩa xã hội.

23


Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo
1. Tác phẩm : tuyên ngôn độc lập { Mác – Ăngghen }
2. Tác phẩm: phê phán cương lĩnh Gôta { Mác }
3. Tác phẩm : nhà nước và cách mạng { V.I.Lenin }
4. Tác phẩm : Bàn về thuế lương thực { V.I.Lenin }
5.

www.vietbao.vn

6.

www.qdnd.vn

7. www.thanhtra.edu.vn

24


MỤC LỤC
A. Lời Mở Đầu.........................................................................................................1
B. Nội Dung.............................................................................................................. 3

I. Quan điểm của Mác – Ăngghen và lênin về thời kỳ quá độ...................................3
1. Quan điểm của Mác và Ăngghen về thời kỳ quá độ..............................................3
1.1 Tác phẩm “tuyên ngôn độc lập”..........................................................................3
1.2. Tác phẩm “ phê phán cương lĩnh Gôta “.............................................................4
2. Quan điểm của lênin về thời kỳ quá độ qua các tác phẩm.....................................6
2.1. Tác phẩm nhà nước và cách mạng......................................................................6
2.2 Tác phẩm bàn về thuế lương thực........................................................................8
3. Vai trò củ các tác phẩm........................................................................................10
II. Ý nghĩa của thời kỳ quá độ đối với Việt Nam.....................................................12
1.Tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam....12
2. Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam......................................................................................................................... 18
3. Những thách thức của Việt Nam trong thời kỳ quá độ.........................................20
C. Kết luận.............................................................................................................23
Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo..........................................................................24

25


×