Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN Một vài kinh nghiệm về việc dạy một tiết luyện nói trong môn Ngữ văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.85 KB, 16 trang )

MỘT VÀI KINH NGHIỆM VỀ VIỆC DẠY MỘT TIẾT LUYỆN
NÓI TRONG MÔN NGỮ VĂN THCS

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.
Bộ môn Ngữ văn có vai trò quan trọng hàng đầu trong chương trình đào
tạo xưa nay. Nó góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm và hoàn thiện nhân
cách cho học sinh. Là môn khoa học xã hộ cơ bản nên văn học có liên quan
đến nhiều nghành khoa học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ giúp các em tiếp
nhận các môn khoa học khác tốt hơn.
Trên thực tế hiện nay, nhiều học sinh đang dần mất đi niềm ham mê học
văn. Các em đến với văn chương một cách miễn cưỡng nên việc tiếp nhận
nhiều lúc còn tỏ ra nặng nề, thiếu hào hứng dẫn đến giờ học có khi rất nhàm
chán, tẻ nhạt. Vì thế việc dạy học môn Ngữ văn chưa phát huy hết vai trò, tác
dụng của nó. Là những người làm nghề giáo dục, chúng ta phải giúp các em
có một hướng đi đúng đắn trên con đường đi tới tương lai.Vai trò dạy văn
trong nhà trường không chỉ giúp các em cảm nhận được những vẻ đẹp và giá
trị của văn chương mà còn giúp các em, biết nhìn nhận, biết liên tưởng, biết
đánh giá và biết trình bày tốt một vấn đề.
Muốn làm được điều đó, người dạy văn phải biết định hướng, dẫn dắt để
học sinh đến với môn văn bằng một niềm đam mê, bằng một tình yêu thực sự
chứ không phải bởi sự bắt buộc hay gượng ép. Người giáo viên phải biết tổ
chức quá trình dạy học như là một quá trình các em đi khám phá cuộc sống
với những điều mới lạ. Chương trình Ngữ văn THCS đã bố trí một số tiết
luyện nói rải đều trong các khối lớp. Đây là cơ hội để giáo viên tạo điều kiện
cho học sinh thực hành trên lớp, thể hiện kỷ năng nói, kỷ năng trình bày một
vấn đề nào đó trước tập thể để được công nhận, góp phần tạo hứng thú hơn
cho các em trong quá trình học môn Ngữ văn. Tuy nhiên trong thực tế, loại
bài dạy này đôi lúc chưa được chú trọng hoặc tổ chức còn hời hợt, chưa phát
huy hết lợi thế của nó.
Vì những lẽ trên nên tôi đã luôn băn khoăn, trăn trở tìm ra những giải


pháp, những cách làm vừa phù hợp với yêu cầu của nội dung chương trình
vừa lại phải có sự đột phá trong dạy - học. Với những ý tưởng đó, tôi chọn đề
tài “Một vài kinh nghiệm về việc dạy một tiết luyện nói trong môn Ngữ
văn THCS” để nghiên cứu và thực hiện.
2.

Mục đích nghiên cứu.

Thực hiện đề tài này, tôi rất mong muốn được hình thành cho học sinh ý thức
đến với môn Ngữ văn như một nhu cầu thiết yếu. Thông qua các giờ luyện nói,


học sinh sẽ rèn luyện được những kỷ năng cơ bản để tạo lập được một văn bản
nói. Đồng thời, hình thành được những thói quen và kỷ năng học một giờ luyện
nói đạt hiệu quả cao nhất. Mục đích quan trọng hơn nữa là hướng tới kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
3.

Nhiệm vụ nghiên cứu.

- Điều tra sơ bộ về việc dạy và học của các đồng nghiệp, các em học sinh
ở nhà trường về việc dạy và học tiết luyện nói.
- Phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong quá trình dạy và học.
- Đề xuất một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn
Ngữ văn ở tiết luyện nói.
- Thực nghiệm những giải pháp đã từng áp dụng và đánh giá kết quả đạt
được.
4.

Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.

- Phạm vi nghiên cứu: Chương trình Ngữ văn THCS.
- Đối tượng: Học sinh các khối lớp cấp THCS.
5. Phương pháp nghiên cứu:

Trong quá trình nghiên cứu, để tìm ra phương pháp dạy có hiệu quả ở tiết
luyện nói, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn: Nghiên cứu, nắm bắt tình hìnhcủa các
khối lớp, từng học sinh để có phương pháp dạy phù hợp.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu mục tiêu dạy học môn
Ngữ văn THCS, mục tiêu dạy học các bài về luyện nói.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Xây dựng kế hoạch dạy học, chuẩn
bị kỹ cho từng tiết lên lớp, tiến hành giờ dạy, thực hiện kiểm tra, đánh giá. Từ đó
nắm bắt tình hình học tập của học sinh để điều chỉnh phù hợp nhằm bồi dưỡng
học sinh giỏi, động viên đối tượng học sinh yếu kém. Tham khảo tài liệu và ý
kiến một số đồng nghiệp; thu thập các tài liệu, tư liệu liên quan phục vụ cho nội
dung bài học.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Chương I. Cơ sở lý luận và thực tiễn.
I. Cơ sở lí luận:
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng quan trọng
của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông. Hiện nay, các
nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao tiếp là một


trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ
thể là năng lực nghe nói, đọc, viết cho người học.
Nếu như nghe và đọc là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận
thông tin, thì nói và viết là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền
đạt thông tin cần rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
Luyện nói trong nhà trường là giúp học sinh có thói quen nói trong những

môi trường giao tiếp khác nhau. Nó thực hiện một cách hệ thống, theo những
chủ đề nhất định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày,
đảm bảo những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (lời, mạch lạc, liên
kết, các nghi thức lời nói, các quy tắc hội thoại, cử chỉ, nét mặt, âm lượng, sức
hấp dẫn...). Luyện nói tốt sẽ giúp người học có được một công cụ giao tiếp hiệu
quả trong cuộc sống xã hội.
Ngay từ sách giáo khoa cải cách, chương trình dạy học môn Ngữ văn đã
chú ý đến kĩ năng nói cho học sinh bằng cách trình bày miệng bài tập làm văn
của mình. Và hiện nay trong chương trình sách giáo khoa mới thì yêu cầu rèn
luyện kĩ năng nói càng được chú trọng hơn. Kĩ năng nói giúp học sinh bộc lộ
được hết khả năng của mình, nhất là khả năng sử dụng ngôn ngữ để tạo sự tự tin,
năng động trước tập thể. Không những thế mà còn giúp học sinh thể hiện vốn
hiểu biết - kiến thức của mình. Từ đó học sinh có điều kiện tốt hơn để rèn luyện
kĩ năng nghe và viết.
Chính vì thế, trong mục tiêu dạy học môn Ngữ văn THCS, về kĩ năng,
chương trình môn Ngữ văn nhấn mạnh "trọng tâm của việc rèn luyện kĩ năng
Ngữ văn cho học sinh là làm cho học sinh có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng
Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kĩ năng sơ giản về phân tích tác
phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giá văn học.
Hiện thực hoá mục tiêu này của chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn
THCS đã chú trọng hơn tới việc hình thành và phát triển kĩ năng nói. Đây là một
trong những điểm mới về quan điểm dạy học của môn học. Luyện nói tốt sẽ giúp
học sinh biết bộc lộ tư tưởng, truyền đạt thông tin trong các hoàn cảnh giao tiếp
khác nhau.
II. Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay phân môn Tập làm văn trong SGK Ngữ Văn có giờ luyện nói
nhằm rèn kỹ năng nói cho học sinh, song trong thực tế giảng dạy Ngữ Văn, tiết học
này chưa được chú trọng, học sinh chưa có cơ hội nói nhiều.
Trong quá trình dạy học, qua dự giờ và tìm hiểu ở bạn bè đồng nghiệp bản
thân tôi thấy rằng tâm lí chung của các giáo viên dạy Ngữ văn là ngại dạy các

giờ luyện nói. Nguyên nhân cơ bản có lẽ là do mâu thuẫn giữa thời gian luyện
nói có hạn (45 phút) mà yêu cầu luyện tập thì không đơn giản.


Mặt khác trên thực tế, học sinh ở vùng nông thôn của chúng ta thì khả
năng nói là rất yếu. So với học sinh những vùng có điều kiện thì học sinh nông
thôn quá ư rụt rè thiếu tự tin, ít khi có thể đứng trước đám đông để nói hoặc
thuyết trình về một ý tưởng hay một vấn đề nào đó. Lớp học của chúng ta chưa
được thiết kế cho những giờ học kiểu đối thoại, đàm thoại, thảo luận; số lượng
học sinh trong một lớp quá nhiều khiến cho giáo viên lúng túng khi tổ chức một
giờ luyện nói. Đa số học sinh khi giáo viên yêu cầu trình bày bài của mình theo
dạng nói thì chỉ mới dừng lại ở chỗ là đọc lại bài đã chuẩn bị sẵn vì thế không
tạo được hứng thú cho học sinh khi học.
Trong tình hình hiện tại, để nâng cao chất lượng mỗi giờ luyện nói, làm
thế nào để phát huy được khả năng diễn đạt bằng văn bản nói cho học sinh là
điều trăn trở không chỉ riêng mỗi giáo viên dạy Văn mà còn là của toàn ngành
và các cấp lãnh đạo.
Vậy việc dạy tốt luyện nói trong chương trình Ngữ văn ở THCS sẽ góp
phần không nhỏ vào quá trình rèn luyện ngôn ngữ, kĩ năng nói giúp học sinh tự
tin trước đám đông.
Từ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn trên, tôi xin trình bày Một vài kinh
nghiệm về việc dạy một tiết luyện nói trong môn Ngữ văn THCS, mong rằng góp
một phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá
hoạt động học tập của người học cũng như đạt kết quả cao trong việc rèn luyện
kỹ năng nói cho học sinh.
Chương II. Các nội dung chính.
I. Những vấn đề chung
Để tăng tính thực hành ứng dụng cho chương trình Ngữ văn đối với học
sinh THCS và khắc phục hạn chế quá chú trọng đến đọc viết hơn nghe nói của
chương trình và sách giáo khoa cải cách giáo dục, sách giáo khoa Ngữ văn

THCS mới bố trí mỗi học kì 2 tiết luyện nói gắn với từng kiểu văn bản tạo lập
trong chương trình. Mục đích các giờ học này là tiếp tục rèn luyện cho học sinh
kĩ năng nói trước tập thể về kiểu bài văn vừa được học và thể hiện suy nghĩ của
cá nhân về những vấn đề gần gũi, thiết thực với cuộc sông hàng ngày. Cụ thể là
tạo điều kiện cho các em :
- Biết cách phát biểu miệng quan điểm, ý kến cá nhân.
- Biết trình bày trước tập thể ý kiến cá nhân theo đề cương đã chuẩn bị
trước một vấn đề nào đó.
Ví dụ, ở lớp 6, học sinh được tạo cơ hội trình bày trước tập thể bài văn kể
chuyện đời thường, về cách vân dụng quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét


trong văn miêu tả và về bài văn miêu tả có chủ đề gắn với những sinh hoạt gần
gũi.
Nội dung các tiết học luyện nói trong chương trình Ngữ văn THCS :
* Lớp 6 :
- Luyện nói kể chuyện (Bài 7, Bài 10).
- Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn bản
miêu tả (Bài 20).
- Luyện nói về văn bản miêu tả (Bài 23).
* Lớp 7 :
- Luyện nói về văn bản biểu cảm (Bài10, Bài 12).
- Luyện nói bài văn giải thích một vấn đề (Bài 26).
* Lớp 8 :
- Luyện nói về kể chuyện theo ngôi kể kết hợp với miêu tả, biểu cảm (Bài
10).
- Luyện nói về văn thuyết minh: Giới thiệu trường em (Bài 14).
* Lớp 9 :
- Luyện nói tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm (Bài 14).
- Luyện nói văn nghị luận: Nghị luận về một đoạn thơ (Bài 27).

Như vậy nhìn vào cấu trúc của chương trình Sách giáo khoa Ngữ văn mới,
chúng ta dễ dàng nhận thấy chương trình đã dành một thời lượng khá lớn cho
các giờ thực hành luyện nói ở lớp. Điều đó càng chứng tỏ giờ luyện nói có vai
trò quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh trong môn Ngữ văn .
II. Những vấn đề cụ thể:
Để làm tốt việc rèn luyện và phát triển kỹ năng nói ngoài những yêu cầu
cụ thể về nội dung của mỗi giờ luyện nói , mục đích chung của các giờ luyện nói
trong chương trình vẫn là rèn cho học sinh có kỹ năng nói tiếng Việt tự tin,
thành thạo. Chính vì thế khi tiến hành các giờ luyện nói, theo tôi học sinh và
giáo viên cần tuân thủ những yêu cầu sau:
1. Xác định được mục tiêu cần đạt.
Việc đầu tiên để dạy tốt một tiết luyện nói thì giáo viên cần xác định được
mục tiêu cần đạt của tiết dạy. Mục tiêu này cần phù hợp với đối tượng học sinh


và phải gắn liền giữa việc rèn kĩ năng và kiến thức của quá trình học những yêu
cầu về Tập làm văn trước đó. Mà đặc biệt là cần phải đạt được kĩ năng sử dụng
ngôn ngữ nói và kĩ năng thuyết trình trước tập thể.
Ví dụ: Tiết 29 "Luyện nói kể chuyện " ở chương thình Ngữ văn 6 học kì I.
Với tiết học này cần đạt được các yêu cầu sau:
Giúp học sinh:
- Về kiến thức: Nắm được dàn bài và tạo lập được văn bản có thể trình
bày được bằng miệng về bản thân hoặc gia đình.
- Về kĩ năng: Luyện tập nói miệng một bài văn hòan chỉnh; luyện ngôn
ngữ nói và phong thái khi giới thiệu về bản thân một cách lưu loát và tự tin.
- Về thái độ : Yêu thích kể chuyện bằng miệng cho mọi người nghe với sự
tự tin của mình.
Khi giáo viên xác định được mục tiêu rõ ràng, cụ thể thì sẽ tiến hành các
bước lên lớp thuận tiện, để biết áp dụng hình thức, phương pháp dạy học phù
hợp. Tuy nhiên, mục tiêu đó có thể thay đổi tuỳ theo mức độ, khả năng của đối

tượng học sinh.
2.

Hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà.

Phần chuẩn bị ở nhà là vô cùng quan trọng để tổ chức thành công một tiết
dạy luyện nói. Công việc của phần này chủ yếu là của học sinh nhưng để học
sinh chuẩn bị tốt góp phần vào sự thành công của tiết dạy thì giáo viên phải
hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà đúng yêu cầu. Nếu như là tiết đầu tiên của
chương trình Ngữ văn lớp 6 yêu cầu hướng dẫn của giáo viên càng cần thiết
hơn. Sự hướng dẫn giúp học sinh chuẩn bị tốt hơn, có cơ sở hơn và tạo thói quen
cho học sinh ở những tiết học sau.
Khi chuẩn bị cần chú ý:
* Chuẩn bị nội dung nói cho đầy đủ và cẩn thận .
- Nội dung nói là yếu tố đầu tiên và vô cùng quan trọng. Người có năng khiếu
thế nào đi nữa nhưng vốn kiến thức và hiểu biết nghèo nàn thì khó mà nói hay
được.
- Muốn có nội dung để nói hay, cần thường xuyên học kỹ những kiến thức Văn
học, tiếng Việt, những kiểu bài, kỹ năng Tập làm văn trong sách giáo khoa. Nếu
có điều kiện hãy đọc thêm những cuốn sách và báo chí phù hợp với lứa tuổi của
mình.
* Cần viết ra giấy những điều sẽ nói thành một dàn bài.


Phải là chính mình lập dàn bài. Nhờ một người khác lập dàn bài thay
mình thì khó mà nói hay được. Chỉ nên làm một dàn bài ngắn gọn. Dàn ý phải
đủ các phần Mở bài, thân bài, kết bài với các ý trong từng phần.
* Chuẩn bị nội dung sẽ nói ra giấy, chỉ nên ghi vắn tắt các ý và các chi tiết
(gạch đầu dòng) .
Sau khi lập dàn bài học sinh cần nghiền ngẫm về chính dàn bài đó và có

thể triển khai dàn ý thành một bài văn với các gợi ý ở trong sách giáo khoa,
không nên viết thành một bài nói hoàn chỉnh để học thuộc, bởi như thế sẽ
thường hay bị quên.
Chuẩn bị nội dung nói càng kỹ, càng cẩn thận thì khi nói càng vững vàng,
tự tin, không bị cuống, bị lặp hay bí từ ...
Ví dụ : Đối với tiết "Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học"
trong chương trình Ngữ văn 7, khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà, giáo viên
hướng dẫn học sinh chuẩn bị theo gợi ý ở sách giáo khoa. Ở phần lập dàn bài
yêu cầu học sinh từ gợi ý của sách giáo khoa lập thành một dàn bài chi tiết hơn.
Sau khi đã lập dàn ý, giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị đoạn văn nêu cảm
nhận chung về hình ảnh trong bài thơ (phong cảnh, tâm hồn); chuẩn bị đoạn văn
nêu cảm nghĩ cho từng câu thơ, chú ý các biện pháp liên tưởng, tưởng tượng, so
sánh… Từ các đoạn văn, học sinh có thể triển khai thành bài văn hoàn chỉnh và
tập trình bày.
Từ việc hướng dẫn đó thì giáo viên có thể tổ chức phương pháp dạy học
trên lớp tốt hơn. Ví dụ học sinh đã chuẩn bị sẵn cụ thể theo sự hướng dẫn của
giáo viên thì có thể sử dụng phương pháp thảo luận nhóm và phương pháp
thuyết trình, khi thói quen chuẩn bị tốt của học sinh được hình thành thì giáo
viên chỉ yêu cầu thực hiện theo yêu cầu của sách giáo khoa.
3.Tiến hành giảng dạy trên lớp.
Để tổ chức giảng dạy trên lớp được tốt, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều
khâu, nhiều công đoạn. Nhưng quan trọng là phần chuẩn bị ở nhà của học sinh
và việc lựa chọn hình thức, phương pháp lên lớp của giáo viên. Tuy nhiên, khi
dạy tiết luyện nói chúng ta có thể áp dung các phương pháp sau:
a) Phương pháp đàm thoại.
Phương pháp này được sử dụng thường xuyên trong các giờ Ngữ văn nói
chung, nhưng riêng với giờ luyện nói chỉ nên áp dụng khi học sinh chưa quen
với việc trình bày thành văn bản miệng lưu loát và có hiệu quả. Hiện tượng ấy
chỉ tồn tại khi gặp hai trường hợp: một là học sinh mới làm quen với tiết học
kiểu này; hai là học sinh chưa cảm thấy tự tin trước tập thể, chưa tạo lập ra văn

bản hoàn chỉnh bằng miệng (trường hợp này thường gặp ở học sinh yếu kém
thiếu tự tin). Trong tiết học, giáo viên áp dụng phương pháp này phải nắm rõ yêu


cầu, câu hỏi chuẩn bị và một số câu hỏi khác. Giáo viên và học sinh tạo ra một
cuộc đàm thoại thoải mái, tạo sự tự tin bước đầu cho học sinh, để dần dần giúp
học sinh chuẩn bị tâm thế thói quen tốt khi trình bày bài văn miệng. Để làm
được điều đó, giáo viên phải tỏ ra là một khán giả vui tính, thân thiện, biết động
viên kịp thời sau những câu trả lời đúng và lưu loát của học sinh.
b) Phương pháp thảo luận nhóm.
Đây là phương pháp chủ yếu để dạy tiết luyện nói trong chương trình Ngữ
văn. Phương pháp này sử dụng trong khoảng thời gian mười lăm phút đầu của
tiết học. Giáo viên chia lớp thành nhóm khoảng 4- 5 em học sinh rồi cho thảo
luận. Học sinh thảo luận thống nhất phần chuẩn bị ở nhà, sau đó cho các bạn
trong nhóm nói về bài nói của mình dựa trên sự thống nhất phần chuẩn bị. Mỗi
nhóm phải làm quen với việc nói và nhận xét bài nói của từng thành viên trong
nhóm. Muốn đạt được điều đó giáo viên phải chia nhóm hợp lí, đặt ra yêu cầu
chính xác, ngắn gọn nhưng đầy đủ. Thảo luận nhóm chỉ có hiệu quả khi học sinh
có sự chuẩn bị tốt ở nhà.
Ví dụ 1 : Khi cho học sinh thảo luận ở tiết 54 trong chương trình Ngữ văn
8: "Luyện nói : Thuyết minh về một thứ đồ dùng", giáo viên có thể áp dụng chia
lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm thảo luận một nội dung về cấu tạo, công dụng, bảo
quản và sử dụng phích nước trong phần thân bài.
Ví dụ 2: Khi dạy tiết 96 : "Luyện nói về văn miêu tả ", Ngữ văn 6 trong
phần tìm hiểu các bài tập và luyện nói, giáo viên có thể chia bài tập ra theo các
nhóm để mỗi nhóm chuẩn bị một bài tập trong thời gian khoảng 5 - 7 phút. Học
sinh có thể trao đổi với nhau về nội dung và hướng giải quyết. Sau đó cho học
sinh trình bày miệng kết quả đã chuẩn bị.
Mặt khác khi thảo luận nhóm yêu cầu của giáo viên phải quan sát được
các nhóm thảo luận để nhắc nhở bổ cứu kịp thời.

Khi tiến hành tốt phương pháp này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thực hành nói trên lớp. Những học sinh đại diện này giáo viên phải lưu ý các
nhóm thay phiên nhau trong tất cả các giờ luyện nói để tránh tình trạng những
học sinh nói quen, nói hay trong nhóm sẽ nói còn những học sinh khác không
được hoặc không giám tham gia. Vì nếu điều đó xảy ra thì việc rèn luyện kĩ
năng nói cho học sinh chỉ mới đạt một phần rất nhỏ so với yêu cầu mục đích đặt
ra của tiết dạy. Và để đạt điều này thì không khí tiết học phải thực sự thoải mái,
thân thiện; học sinh biết động viên, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, nhất là các thành
viên trong nhóm phải biết điểm yếu của bạn để bổ cứu kịp thời.
c) Phương pháp thuyết trình.
Phương pháp này áp dụng ở phần tiếp theo của tiết học đó là phần nói ở
trước lớp. Học sinh được nhóm cử nói phải đạt được yêu cầu về tác phong, ngôn
ngữ, kiến thức phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nói. Học sinh khi nói tuyệt đối


không được dùng phần chuẩn bị để đọc. Có rất nhiều thầy cô giáo đã cho học
sinh đọc bài chuẩn bị của mình trước lớp chứ không phải là nói. Mà nói ở đây có
nghĩa là phải thoát li hoàn toàn tài liệu, trở thành một người thuyết trình trước
mọi người. Có thực hiện được như vậy mới luyện nói cho học sinh đúng bản
chất yêu cầu của tiết học này.
Vậy muốn học sinh sử dụng được phương pháp thuyết trình thì ngay
những giờ luyện nói đầu tiên học sinh đã phải thoát ly tài liệu hoàn toàn. Những
tiết này học sinh có nói không trôi chảy lưu loát và có thể bỏ dở nửa chừng thì
giáo viên cũng phải khuyến khích động viên các em cố gắng ở những lần sau.
Giáo viên cần quán triệt việc chuẩn bị bài nói bằng hình thức thuyết trình và
thoát li hoàn toàn hình thức đọc bài chuẩn bị sẵn. Ngôn ngữ nói sẽ linh hoạt hơn
giúp học sinh rèn luyện vốn ngôn ngữ thể hiện khả năng nói của mình.
Mặt khác, khi thuyết trình trên lớp, giáo viên phải chú ý đến việc nói chứ
không phải học thuộc lòng phần chuẩn bị ở nhà hoặc là phần chuẩn bị của nhóm.
Nếu chỉ học thuộc lòng thì việc rèn luyện nói gặp nhiều khó khăn mà khó khăn

lớn nhất là học sinh sẽ mất tự tin ngay khi bỗng dưng quên một từ trong bài viết
của mình. Muốn làm được điều đó thì giáo viên phải cho học sinh biết được yêu
cầu của tiết luyện nói và yêu cầu học sinh sau mỗi tiết học phải luyện nói ở nhà.
Để kiểm tra được học sinh có luyện nói ở nhà hay không thì tiết tiếp theo giáo
viên có thể sử dụng phần hỏi bài cũ để kiểm tra.
Để cho giờ luyện nói thành công, học sinh tự rút ra được ưu nhược điểm,
khi nói thì phải tiến hành nhận xét các bài nói. Việc nhận xét này có thể tiến
hành sau mỗi bài nói của từng học sinh hoặc cũng có thể nhận xét sau khi tất cả
các đại diện học sinh hoàn thành xong bài nói của mình. Tuy nhiên để có hiệu
quả và linh động trong thời gian thì nên áp dụng việc nhận xét sau mỗi bài nói
của học sinh. Việc nhận xét này thứ nhất giúp các học sinh sau khi nói sửa chữa
được những lỗi về phong cách, về ngôn ngữ; thứ hai là giúp giáo viên linh hoạt
về thời gian trong việc ngừng tiết học để tránh có khi nhận xét chưa xong mà giờ
đã hết. Việc nhận xét đầu tiên là yêu cầu học sinh phải nhận xét bài nói của bạn.
Một bài nói phải nhận xét được về tác phong, cách thức thể hiện, cách sử dụng
ngôn ngữ, âm hưởng giong nói và kiến thức trong bài nói. Trước khi học sinh
nhận xét, giáo viên phải định hướng cách nhận xét ngắn gọn, đúng trọng tâm
của bài nói. Sau khi học sinh nhận xét xong thì giáo viên mới mới nhận xét và
nhận xét khi tất cả các bài nói đã hoàn thành. Giáo viên chỉ nhận xét ưu khuyết
điểm chung của tất cả các học sinh nói và nhận xét, lưu ý sửa cho học sinh
những lỗi cần tránh trong ngôn ngữ nói của tiếng Việt về chính âm và hướng dẫn
các em nói diễn cảm, ngắn gọn, súc tích, hấp dẫn người nghe.
Trong ba phương pháp dạy học áp dụng trong giờ luyện nói ở trên, giáo
viên cần linh hoạt khi sử dụng các phương pháp dạy học vào mỗi tiết học cụ
thể. Nếu như là tiết đầu tiên hoặc là muốn rèn luyện học sinh yếu kém thì chỉ
nên áp dụng phương pháp đàm thoại trong suốt cả tiết học bằng cách gọi từng


học sinh lên bảng. Còn khi học sinh đã làm quen với tiết học thì giáo viên nên áp
dụng phương pháp thảo luận nhóm cùng với phương pháp thuyết trình.

4.

Hướng dẫn học ở nhà.

Mỗi tiết dạy ở bất cứ bộ môn nào thì phần hướng dẫn học ở nhà cũng góp
phần quan trọng trong việc củng cố kiến thức kĩ năng cho học sinh, dạy tiết
luyện nói thì lại càng quan trọng. Giáo viên phải dành ít nhất là 3 phút cuối tiết
học để hướng dẫn học sinh học ở nhà. Hướng dẫn học ở nhà của tiết học kiểu
này chủ yếu là luyện kĩ năng nói. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh học ở nhà
bằng cách đứng trước gương đối diện với bản thân để luyện nói hoặc tự tổ chức
một nhóm học sinh cùng lớp, cùng khối ở gần nhà nhau để luyện nói. Để biết
học sinh có luyện nói ở nhà hay không thì giáo viên phải kiểm tra bài cũ bất cứ
học sinh nào trong tiết học tiếp theo.
5.

Rèn kỹ năng nói qua một giáo án cụ thể.

Với những lớp mà đối tượng học sinh đa số học tốt môn Văn thì giờ Văn
có thể cho luyện nói theo yêu cầu của đề bài trong sách giáo khoa.
Ví dụ: Trong Ngữ văn 9, Tiết 140: Luyện nói - Nghị luận về một đoạn thơ bài
thơ, việc rèn kĩ năng nói cho học sinh được chúng tôi chú ý thể hiện qua các
hoạt động dạy- học ở giáo án sau đây:

LUYỆN NÓI:

Tiết 140:

NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ
I – MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT:
- Nắm vững hơn những kiến thức cơ bản của bài nghị luận về một đoạn thơ, bài

thơ.
- Rèn kĩ năng nói.
II – TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KỸ NĂNG
1. Kiến thức:
- Những yêu cầu đối với luyện nói khi bàn luận về một đoạn thơ, bài thơ trước
tập thể.
2. Kỹ năng:
- Lập ý và cách dẫn dắt vấn đề khi nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.


- Trình bày miệng một cách mạch lạc những cảm nhận, đánh giá của mình về
một đoạn thơ, bài thơ.
3. Thái độ:
- Rèn luyện thái độ nghiêm túc và khả năng độc lập, sáng tạo trong học tập.
- Mạnh dạn, tự tin, chững chạc khi đứng nói trước tập thể.
4. Tích hợp:
- Liên hệ với tình cảm thiêng liêng của gia đình và giá trị của nó trong đời sống
xã hội.
III. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH.
1. Giáo viên:
 Soạn giáo án, hướng dẫn học sinh học bài, nghiên cứu tài liệu.
 Chuẩn bị dàn ý đại cương, dàn ý chi tiết, bảng phụ
2.
Học sinh:
- Lập dàn ý theo đề bài : Bếp lửa sưởi ấm một đời – Bàn về bài thơ Bếp lửa
của Bằng Việt.
- Tập trình bày theo dàn ý đã chuẩn bị.
IV. PHƯƠNG PHÁP:



Đàm thoại, thảo luận nhóm, thuyết trình.

V. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC:
1) Ổn định lớp: Kiểm tra sỹ số học sinh và ổn định tổ chức.
2) Kiểm tra bài cũ : GV kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh.
3) Giới thiệu bài mới : GV nêu mục đích, yêu cầu và tầm quan trọng của giờ
học.
4) Các hoạt động dạy - học :
Hoạt động của giáo viên và học sinh

Nội dung kiến thức cơ bản

- GV: Nhắc lại qui trình của một bài tập làm
văn? (hs trả lời, gv nhắc lại cho học sinh
Đề bài:
khắc sâu)
Bếp lửa sưởi ấm một đời –Bàn
- GV yêu cầu HS nhắc lại đề bài.
về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt
- GV ghi đề bài lên bảng bảng.
Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh phân tích I. Phân tích đề:


đề.
1.
? Đề bài thuộc kiểu bài gì?
Kiểu bài: Nghị luận về bài thơ
? Đề yêu cầu nghị luận về vấn đề nào trong
2. - Nội dung: Bếp lửa sưởi ấm một
bài thơ ?

đời. (Bếp lửa từ trong kỉ niệm của
GV chốt :Về kiểu bài, dạng bài nghi luận về tuổi thơ luôn sưởi ấm tâm hồn,
bài thơ.
nâng đỡ con người trên chặng hành
trình dài của cuộc đời)
Hoạt động 2: Hướng dẫn hs lập ý:
II. Lập dàn ý
1. a) Mở bài:
? Theo yêu cầu đề tài, phần mở bài ta phải - Giới thiệu tác giả Bằng Việt và
làm gì?
bài thơ Bếp lửa.
- Khái quát giá trị của bài thơ và
hình ảnh Bếp lửa
2. b) Thân bài: Nghị luận về vấn đề
? Phần thân bài, để nghị luận về vấn đề đó trong bài thơ.
a. - Hình ảnh Bếp lửa khơi nguồn cho
trong bài thơ, em cần xây dựng hệ thống
những cảm xúc về bà:
luận điểm như thế nào?
+ Sự liên tưởng từ hình ảnh thân
? Dựng những luận cứ, luận chứng nào?
- HS trình bày những luận điểm, luận cứ cơ thương, ấm áp: Bếp lửa;
+ Bếp lửa của tuổi thơ nhọc nhằn
bản của bài thơ để làm rõ vấn đề.
- Những học sinh khác bổ sung để hoàn gian khổ sống bên bà.
- Bếp lửa sưởi ấm tâm hồn tuổi
thành dàn bài chi tiết.
- GV nhận xét, củng cố và đưa ra hệ thống thơ thơ:
luận điểm, luận cứ trên bảng phụ để HS + Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm
áp;

tham khảo.
+ Bếp lửa gợi những liên tưởng
trong kỉ niệm về bà.
- Bếp lửa với những suy ngẫm về
bà:
+ Bà là người nhóm lửa, người giữ
lửa;
+ Ngọn lửa trở thành kỉ niệm thân
thương, thành niềm tin thiêng liêng
kì diệu .
? Trong phần kết bài, cần nêu được điều gì? + Ngọn lửa của tình yêu thương,
niềm tin nâng bước cháu trong suốt
chặng đường dài của cuộc đời
Tích hợp:
? Cần liên hệ vấn đề gì trong cuộc sống hôm - Bếp lửa-hình tượng thơ đặc sắc:
Vừa mang ý nghĩa thực vừa mang
nay?
ý nghĩa biểu tượng.
3. c) Kết bài:
Hoạt động 3: Hướng dẫn hs tiến hành luyện
- Khẳng định giá trị của hình
nói.
- GV cho học sinh nói trong nhóm (10ph), tượng bếp lửa;
- Suy nghĩ của bản thân về hình
nói trước lớp (20 ph).
ảnh bếp lửa;


- GV hướng dẫn yêu cầu nói.
- Lưu ý đối tượng học sinh nghe phải tập

trung theo dõi, ghi chép những nhận xét về
hình thức trình bày và nội dung của bài nói.
- Sau khi HS trình bày trong nhóm (khoảng
10 phút), Gv tổ chức cho HS trình bày trước
lớp (khoảng 20 phút).
- Lưu ý: Với HS trung bình có thể trình bày
một phần hoặc chưa hết hai phần; với HS
khá, giỏi thì buộc phải trình bày đầy đủ cả ba
phần.
Hoạt động 4: Rèn luyện kỷ năng nhận xét,
đánh giá.
- Cho HS trình bày nhận xét bài nói của bạn.
- Sau khi HS nhận xét xong, GV nhận xét,
đánh giá chung những ưu, khuyết điểm của
HS trong bài luyện nói cũng như những nhận
xét của các em, đồng thời cho điểm động
viên và căn dặn những điều cần khắc phục
khi sử dụng ngôn ngữ nói.

- Liên hệ đến giá trị của tình cảm
gia đình trong sự trưởng thành của
mỗi con người.
III. Luyện nói.
1) Nói trước nhóm: Đứng lên, mỗi
em nói một phần theo qui định của
tổ, cả tổ chú ý lắng nghe và chọn
bạn nói tốt nhất đề xuất nói trước
lớp.
2) Nói trước lớp cần chú ý:
- Về hình thức: Có lời mở đầu (lời

chào, giới thiệu), lời kết thúc (lời
cảm ơn); lời nói rõ ràng, gọn, có
ngữ điệu; chú ý quán xuyến đối
tượng nghe.
- Về nội dung: Đảm bảo nội dung
trong dàn ý, ý mạch lạc.

IV. Nhận xét, đánh giá.




Ưu điểm:
+ Hình thức
+ Nội dung
Tồn tại:
+ Hình thức
+ Nội dung

5) Củng cố và hướng dẫn học bài ở nhà.
- GV nhận xét về sự chuẩn bị và tinh thần thái độ học tập của hs.
 Yêu cầu viết bài Tập làm văn hoàn chỉnh theo đề bài trên.

Chuẩn bị bài: “Những ngôi sao xa xôi”
+ Đọc và tóm tắt văn bản;
+ Soạn câu hỏi đọc – hiểu ở SGK.
III. Kết quả áp dụng SKKN .
Trong năm học 2015-2016, cùng áp dụng phương pháp này, khi dạy tiết
42 “Luyện nói theo ngôi kể kết hợp miêu tả và biểu cảm”, Ngữ văn 8. Tôi thấy
kết quả như sau:

Không áp dụng SKKN

Có áp dụng SKKN


Lớp 8A

Lớp 8C

- Giờ học còn trầm .

- Giờ học sôi nổi .

- Học sinh chưa chủ động và tự tin khi
nói .

- Học sinh vui vẻ, thoải mái, tự tin
mạnh dạn hơn .

- Khó tạo điều kiện cho tất cả học sinh
đều được nói .

- Nhiều đối tượng học sinh được nói.

- Hiệu quả giờ luyện nói thấp .

- Hiệu quả giờ luyện nói cao.

- Qua bảng đối chứng trên ta thấy, nếu trong giờ luyện nói của phân môn
Tập làm văn mà làm được như trên thì giờ học sẽ trở nên sôi nổi, học sinh sẽ

vui vẻ, thoải mái, tự tin, mạnh dạn hơn.
- Giờ luyện nói được thực hiện đúng thì sẽ có hiệu quả rất cao: Kỹ năng
nói được rèn luyện, tư duy lô gíc phát triển, tạo khả năng diễn đạt mạch lạc trôi
chảy và đó là tiền đề cho học sinh thành công trong việc thực hiện văn bản viết.
Phần III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trong xã hội ngày nay thì việc tự tin nói trước mọi người là yêu cầu cần
thiết trong cuộc sống. Vì chính việc tự tin nói trước mọi người sẽ giúp con người
ta dễ thành công hơn. Vì vậy trong việc dạy Văn, dạy nói cho học sinh là cực kì
cần thiết. Nó không chỉ giúp cho bản thân học sinh thu được kết quả tốt mà ngay
trong việc dạy các phân môn Ngữ văn cũng dễ đạt thành công hơn. Vấn đề thành
công và có hiệu quả tốt từ tiết luyện nói trong chương trình Ngữ văn nói chung
và Ngữ văn ở THCS nói riêng là vô cùng quan trọng. Vì tầm quan trọng đó nên
tôi xin đưa ra Một vài kinh nghiệm về việc dạy một tiết luyện nói được rút ra từ
kinh nghiệm dạy học của bản thân. Vậy tôi mong các bạn đồng nghiệp đọc và
góp ý để bản thân tôi dạy tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
PHẦN IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ thực tế giảng dạy trên lớp, tôi rút ra một số kinh nghiệm sau :
1. Đối với giáo viên:
- Giúp học sinh chuẩn bị tốt nội dung bài nói để các em hình dung được mình sẽ
nói cái gì (xác định đề tài), nói với ai ( xác định đối tượng giao tiếp ), nói trong
hoàn cảnh nào (xác định hoàn cảnh giao tiếp), nói để làm gì (xác định mục đích
giao tiếp), nói như thế nào (cách thức giao tiếp) để thuyết phục người nghe.


- Đến lớp giáo viên phải tạo điều kiện để tất cả các đối tượng học sinh được
luyện nói, được thể hiện khả năng.
- Tạo không khí hào hứng của lớp học, thái độ hợp tác của những người cùng
tham gia.
- Giáo viên nên chia vấn đề lớn thành nhiều ý, nhiều đoạn, mỗi em nói một ý,
một đoạn nhỏ làm như thế sẽ có nhiều em được nói trong tiết học.

- Cần quan tâm nhiều hơn tới những học sinh nhút nhát, ít phát biểu .
- Sau mỗi phần trình bày, yêu cầu học sinh khác thảo luận, trao đổi đưa ra ý
kiến đánh giá rút kinh nghiệm bài nói của bạn mình.
- Giáo viên là người cuối cùng đưa ra nhận xét chung, uốn nắn sửa chữa lỗi,
biểu dương, khen ngợi động viên những bài nói khá, nói tốt, khuyến khích các
em bằng điểm số một cách công khai và công bằng.
2. Đối với học sinh
- Chuẩn bị bài chu đáo ở nhà theo sự hướng dẫn của giáo viên và sách
giáo khoa.
- Cần mạnh dạn bày tỏ ý kiến quan điểm của bản thân.
- Phải nói theo dàn bài đã được chuẩn bị trước.
- Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và
thuyết phục người nghe (biết lên trầm xuống bổng hoặc thể hiện cảm xúc chân
thành, tự nhiên không gò bó, áp đặt).
- Tránh nói vòng vo, tránh đọc lại hoặc học thuộc lòng để đọc lại bài văn
chi tiết đã có trước .
- Không nói ra ngoài những gì mà đề bài yêu cầu.
PHẦN V. KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT .
Trên đây là những ý kiến của bản thân tôi, mong rằng được góp một phần
nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy - học nói chung và giờ luyện nói
trong phân môn Tập làm văn THCS nói riêng. Tuy nhiên những ý kiến trên
đây chưa thật hoàn hảo mong được các đồng nghiệp đọc và góp ý xây dựng
thêm.
Để được thuận lợi trong quá trình thực hiện và giờ luyện nói đạt kết quả
cao hơn nữa, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau:
- Sách giáo viên cần phải có định hướng cụ thể cho tiết luyện nói .


- Phòng GD cần phải mở lớp chuyên đề phổ biến những vấn đề lý thuyết
cũng như đúc kết thực tiễn về dạy kỹ năng nói cho từng giáo viên đứng lớp .

- Ngoài những giờ luyện nói giáo viên phải chú trọng rèn luyện và phát
triển kỹ năng nói qua từng giờ học khác nữa./.



×