Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Hình thức và phạm vi hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Một số vấn đề về thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.08 KB, 11 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trước xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng ghi nhận sự phát triển và lớn mạnh không ngừng của cộng
đồng luật sư tại Việt Nam, trong đó đội ngũ luật sư nước ngoài đóng vai trò nhất định. Do
điều kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu phát triển ở từng thời kỳ mà luật sư nước ngoài ở
Việt Nam có thể hoạt động một cách hợp pháp theo các hình thức và phạm vi khác nhau.
Sự trưởng thành, phát triển của đội ngũ luật sư nước ngoài và tổ chức luật sư nước
ngoài tại Việt Nam thể hiện qua sự gia tăng về số lượng, quy mô và chất lượng dịch vụ.
Từ 18 tổ chức luật sư nước ngoài và hơn 50 luật sư nước ngoài hiện diện năm 1996, đến
nay Bộ Tư pháp đã cấp phép cho gần 500 luật sư nước ngoài và gần 90 tổ chức hành
nghề luật sự nước ngoài. Đến thời điểm hiện tại có hơn 165 luật sư nước ngoài và 68 tổ
chức hành nghề luật sư nước ngoài đến từ rất nhiều quốc gia khác nhau như Anh, Pháp,
Hoa Kỳ, Đức, Nhật, Bỉ, Singapore, Hồng Kông… đang có hoạt động tại Việt Nam.
Trong khuôn khổ chương trình Lớp đào tạo nghề Luật sư của Học viện Tư pháp,
Học viên lựa chọn đề tài tiểu luận: “ Hình thức và phạm vi hành nghề của luật sư nước
ngoài tại Việt Nam. Một số vấn đề về thực trạng và giải pháp” nhằm tập trung nghiệm
cứu những kiến thức cơ bản của pháp luật quy định về hình thức và phạm vi hành nghề
của luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Từ đó, nêu ra một số về thực trạng và giải pháp liên
quan.

1


NỘI DUNG
1. Quy định pháp luật liên quan về hình thức và phạm vi hành nghề của luật sư
nước ngoài tại Việt nam qua các thời kỳ
1.1. Những quy định chung
Ngày nay, nghề luật sư ngày càng phát triển và có vị thế quan trọng trong mọi lĩnh
vực đời sống xã hội, đặc biệt là trong quan hệ quốc tế. Do điều kiện kinh tế - xã hội của
mỗi nước và sự phát triển của nghề luật sư mà luật sư có thể hoạt động hợp pháp tại mỗi
nước theo những hình thức khác nhau. Có nước chỉ cho phép cá nhân luật sư nước ngoài,


có nước chỉ cho phép công ty luật nước ngoài và cũng có nước cho phép cả cá nhân luật
sư và công ty luật nước ngoài được phép hành nghề tại nước mình.
Đa số các nước đều quy định luật sư nước ngoài không được tham gia tranh tụng
trước Tòa án nước sở tại, không được tư vấn những vấn đề liên quan đến pháp luật nước
sở tại. Công ty luật nước ngoài không được thuê luật sư nước sở tại nhưng ngược lại công
ty luật nước sở tại có thể luật sư nước ngoài. Vấn đề mở rộng phạm vi, quyền của luật sư
nước ngoài đang được thảo luận ở nhiều nước và có xu hướng mở rộng hơn. Một số nước
đã cho phép luật sư nước ngoài được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư của nước sở tại
nếu hội tủ đủ các tiêu chuẩn của luật sư nước sở tại. Và khi có chứng chỉ hành nghề luật
sư nước sở tại thì luật sư nước ngoài có thể hành nghề luật sư như luật sư nước sở tại.
Xuất phát từ nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật của các nhà đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, nhiều tổ chức luật sư nước ngoài đã bày tỏ nguyện vọng được hành
nghề tại Việt Nam để có thể tư vấn pháp lụật cho khách hàng của mình một cách công
khai và hợp pháp. Nguyện vọng đó là chính đáng và phù hợp với chính sách mở cửa,
khuyến khích đầu tư của Việt Nam. Ngày 08/07/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 42-CP ban hành quy chế hành nghề tư vấn pháp luật của tổ chức luật sư nước ngoài tại
Việt Nam. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên của Việt Nam cho phép luật sư nước ngoài
được hành nghề tại Việt Nam. Điều 20 Nghị định 42-CP nêu rõ: “ Luật sư nước ngoài
của chi nhánh tổ chức luật sư nước ngoài chỉ được tư vấn về pháp luật nước ngoài và
pháp luật quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh, đầu tư, thương mại; không được tư vấn về
pháp luật Việt Nam, không được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, người
đại diện cho khách hàng trước Tòa án Việt Nam”. Nội dung này tiếp tục được khẳng định

2


và không thay đổi tại Nghị định số 92/1998/NĐ-CP ngày 10/11/1998 của Chính phủ quy
định về hành nghề tư vấn pháp luật của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt nam, thay thế
Nghị định 42-CP ngày 08/07/1995. Tuy nhiên, về cơ bản quy định pháp luật tại thời điểm
này chưa coi trọng hoạt động hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam.

Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã xem việc hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt
Nam là một bộ phận trong hoạt động nghề nghiệp tại Việt Nam bằng việc quy định một
điều về việc hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam (Điều 43). Quy định này là cơ sở
pháp lý quan trọng đối với việc mở rộng hình thức hành nghề của tổ chức luật sư nước
ngoài tại Việt Nam.
Với mục đích tạo ra môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi cho luật sư nước ngoài
tại Việt Nam, cũng như tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam, ngày 22/07/2003, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 87/2003/NĐ-CP về hành nghề của tổ chức luật sư nước
ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Nghị định 87/2003/NĐ-CP quy định: “Luật sư
nước ngoài hành nghề tại Việt Nam dưới các hình thức sau đây: 1. Làm việc với tư cách
thành viên hoặc làm thuê cho tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam. 2. Làm thuê cho
văn phòng luật sư Việt Nam, Công ty luật hợp danh Việt Nam”. (Điều 42. Hình thức hành
nghề) và “ Luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam trong phạm vi sau đây: 1. Tư vấn
về pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế. 2. Không được tư vấn về pháp luật Việt
Nam, trừ trường hợp có bằng tốt nghiệp đại học luật của Việt Nam và đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu như đối với một luật sư Việt Nam tương tự. 3. Không được tham gia tố tụng
với tư cách là người bào chữa, người đại diện cho khách hàng trước Tòa án Việt Nam”.
(Điều 43. Phạm vi hành nghề của luật sư nước ngoài).
Về cơ bản, quy định của Nghị định 87/2003/NĐ-CP ngày 22/07/2003 của Chính
phủ về hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam là đầy
đủ, phù hợp với thực tiễn nghề luật sư, thông lệ quốc tế và các cam kết của Việt Nam về
lĩnh vực dịch vụ pháp lý trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và
phương án gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.
1.2. Quy định của Luật Luật sư năm 2006.

3


Các quy định của Luật Luật sư năm 2006 về hình thức và phạm vi hành nghề của
luật sư nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu được xây dựng trên cơ sở các quy định tương

ứng của Nghị định 87/2003/NĐ-CP.
Về hình thức hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam: Luật sư nước ngoài
đáp ứng được các điều kiện theo quy định của Luật Luật sư thì được hành nghề tại Việt
Nam dưới các hình thức dưới đây (Điều 75):
-

Làm việc với tư cách thành viên cho một chi nhánh hoạt một công ty luật nước
ngoài tại Việt Nam.

-

Làm việc theo hợp đồng cho chi nhánh, công ty luật nước ngoài, tổ chức hành
nghề luât sư Việt Nam.

Luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam được tư vấn về pháp luật nước ngoài
và pháp luật quốc tế, được thực hiện các dịch vụ pháp lý khác liên quan đến pháp luật
nước ngoài, được tư vấn pháp luật Việt Nam trong trường hợp có bằng cử nhân luật của
Việt Nam và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tương tự như đối với một luật sư Việt Nam,
không được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước cơ
quan tiến hành tố tụng của Việt Nam (Điều 76).
1.3. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012 và Nghị quyết số
71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia
nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Phụ lục: Nội dung áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam kèm theo Nghị quyết
số 71/2006/QH11 của Quốc hội ngày 29/11/2006 quy định: “Luật sư nước ngoài hành
nghề tại Việt Nam được tư vấn pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế, được thực
hiện các dịch vụ pháp lý khác liên quan đến pháp luật nước ngoài, được tư vấn pháp luật
Việt Nam trong trường hợp có bằng cử nhân luật của Việt Nam và đáp ứng đầy đủ các
yêu cầu tương tự như đối với một luật sư Việt Nam, không được tham gia tố tụng với tư

cách là người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trước Tòa án Việt Nam”.
Tiếp đến, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012, Điều 75.
Hình thức hành nghề của luật sư nước ngoài nêu rõ: “Luật sư nước ngoài được hành

4


nghề tại Việt Nam dưới các hình thức sau đây: 1. Làm việc với tư cách thành viên cho
một chi nhánh hoặc một công ty luật nước ngoài tại Việt Nam. 2. Làm việc theo hợp đồng
cho chi nhánh, công ty luật nước ngoài, tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam”.
“Luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam được tư vấn pháp luật nước ngoài và
pháp luật quốc tế, được thực hiện các dịch vụ pháp lý khác liên quan đến pháp luật nước
ngoài, được tư vấn pháp luật Việt Nam trong trường hợp có bằng cử nhân luật của Việt
Nam và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tương tự như đối với một luật sư Việt Nam, không
được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án Việt Nam”.(Điều 76. Phạm vi hành
nghề của luật sư nước ngoài).
Như vậy, hình thức và phạm vi hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam theo
quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012 và Nghị quyết
số 71/2006/QH11 của Quốc hội ngày 29/11/2006 là không thay đổi so Luật Luật sư năm
2006.
2. Một số vấn đề về thực trạng và giải pháp
2.1. Thực trạng
Thứ nhất, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012 thiếu các
cơ chế kiểm soát và chế tài đủ mạnh để xử lý các vi phạm trong hoạt động hành nghề của
luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm
2012 có quy định cấm luật sư nước ngoài tư vấn pháp luật Việt Nam (Trừ trường hợp có
bằng cử nhân luật của Việt Nam và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tương tự như đối với một
luật sư Việt Nam) nhưng lại không đưa ra cơ chế quản lý, giám sát vấn đề này. Luật Luật

sư hiện hành cũng cấm luật sư nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện,
người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án Việt
Nam. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều luật sư nước ngoài hoạt động tại Chi nhánh, công
ty luật nước ngoài tại Việt Nam đã tham gia tư vấn pháp luật Việt Nam, chuẩn bị hồ sơ
khởi kiện, đàm phán, đòi nợ...vv. Sau đó thuê luật sư Việt Nam làm nhà thầu phụ trong
giai đoạn tố tụng trước Tòa án Việt Nam. Luật đã không đưa ra chế tài trong trường hợp
luật sư nước ngoài tại Việt Nam thực hiện tư vấn pháp luật Việt Nam hoặc soạn thảo hợp
đồng liên quan đến pháp luật Việt Nam, mà không hề có chế tài xử lý. Thực tế cho thấy

5


hầu hết luật sư nước ngoài đã tham gia tư vấn pháp luật Việt Nam. Nhiều bản tư vấn pháp
luật Việt Nam và ý kiến pháp lý do luật sư nước ngoài ký tên và đóng dấu của hãng luật
nước ngoài nhằm mục đích tư vấn pháp luật Việt Nam để hưởng thù lao nhưng lại ghi bản
tư vấn này chỉ dùng để thảo luận hoặc để tham khảo. Rõ ràng đây là một hình thức tư vấn
trá hình, làm méo mó môi trường pháp lý Việt Nam. Điều này gây ảnh hưởng không tốt
đến môi trường hành nghề luật sư và tính nghiêm minh của pháp luật. Những quy định và
thiếu xót này của Luật Luật sư hiện hành đã không chỉ không phù hợp mà còn gây cản trở
cho chiến lược phát triển đội ngũ luật sư theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, gây khó khăn
cho việc hình thành một môi trường pháp lý lành mạnh, bình đẳng để phát triển đội ngũ
luật sư Việt Nam năng động, chuyên nghiệp, có trình độ ngang tầm với luật sư trong khu
vực và trên thế giới.
Thứ hai, Luật Luật sư hiện hành chưa tạo ra cơ chế đối xử công bằng giữa luật sư
nước ngoài hành nghề tại Việt Nam và luật sư Việt Nam. Lâu nay, Luật Luật sư hiện hành
còn có những khoảng trống để cho luật sư nước ngoài hành nghề tự do sau khi được cấp
phép. Bản chất của hoạt động quản lý luật sư vốn dĩ thuộc thẩm quyền của các Đoàn Luật
sư địa phương (hoặc trung ương) như hầu hết các nước trên thế giới. Trong khi đó, luật sư
Việt Nam ngoài việc quản lý bởi các cơ quan nhà nước (Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp) thì

còn chịu sự quản lý của Đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Nếu Luật sư Việt
nam vi phạm thì có cơ chế xử lý kỷ luật được thực hiện bởi Đoàn Luật sư, còn luật sư
nước ngoài thì chẳng có chế tài kỷ luật nào như đang áp dụng với luật sư Việt Nam, trừ
việc rút giấy phép nhưng cơ chế rút giấy phép tương đối mơ hồ và theo kiểu hành chính
nhà nước. Thêm vào đó, luật sư Việt Nam phải tuân thủ nghiêm chỉnh theo bộ “Quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam” (ban hành kèm theo Quyết định số
68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20/07/2011 của Hội đồng Luật sư toàn quốc). Trong khi đó, Luật
Luật sư hiện hành cũng như bộ quy tắc trên không hề đề cập đến việc luật sư nước ngoài
phải tuân thủ theo một chuẩn mực đạo đức nào. Từ đó cho thấy, ngay trên lãnh thổ Việt
Nam, luật sư nước ngoài đã có ưu thế hơn hẳn luật sư Việt Nam vì họ không phải tuân
theo bản Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.
Thứ ba, Giấy phép hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam theo các hình thức
hành nghề đã quy định nêu trên có thời hạn 05 năm. Trong khi đó, Điều 173 Bộ luật lao

6


động năm 2012 quy định thời hạn giấy phép lao động cho lao động nước ngoài tại Việt
Nam tối đa là 02 năm. Như vậy, quy định của Luật Luật sư hiện hành đã đi ngược lại tinh
thần của một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn – Bộ luật lao động
năm 2012. Đây là tiền lệ không tốt ảnh hưởng đến tính thống nhất pháp luật nước ta. Bên
cạnh đó, có những luật sư nước ngoài chỉ ký hợp đồng lao động với thời hạn 1-2 năm
nhưng lại có giấy phép hành nghề tới 05 năm. Hơn nữa việc quy định như vậy sẽ tạo nên
sự thiếu công bằng giữa lao động nước ngoài có chuyên môn khác nghề luật sư khi làm
việc tại Việt Nam. Luật sư nước ngoài là một người lao động nước ngoài nên phải bình
đẳng với các lao động nước ngoài khác.
2.2. Kiến nghị
Việc tạo điều kiện cho luật sư nước ngoài, tổ chức luật sư nước ngoài hành nghề tại
Việt Nam là điều cần thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy
nhiên, việc tạo dựng một môi trường pháp lý chuyên nghiệp trên cơ sở cạnh tranh công

bằng giữa các tổ chức, cá nhân hành nghề luật sư trên địa bàn cả nước là điều hết sức
quan trọng. Nhận thức được điều này cũng như hạn chế những bất cập trong thực tiễn
hoạt động hành nghề luật sư nói chung, hoạt động hành nghề của luật sư nước ngoài tại
Việt Nam nói riêng, trong phạm vi đề tài tiều luận, học viên xin được đề xuất một số giải
pháp sau đây:
Một là, hướng dẫn, giải thích cụ thể hơn quy định tại Điều 76 của Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012 về phạm vi hành nghề của luật sư nước
ngoài tại Việt Nam theo hướng:
-

Nếu các vụ việc thuần túy điều chỉnh bởi luật Việt Nam và không có yếu tố
nước ngoài thì luật sư nước ngoài tuyệt đối không được tham gia. Chỉ có các
luật sư Việt Nam hoặc luật sư nước ngoài đáp ứng được các yêu cầu tương tự
như luật sư Việt Nam thì mới được phép tham gia. Các luật sư nước ngoài
không đáp ứng được các yêu cầu tương tự như một luật sư Việt Nam thì không
được tham gia tư vấn hoặc hỗ trợ tư vấn dưới bất kỳ hình thức nào (viết bản tư
vấn, soạn hợp đồng, cấp ý kiến pháp lý…vv.), đặc biệt luật sư nước ngoài
không được phép ký hoặc cùng ký vào bất kỳ văn bản tư vấn nào về luật Việt
Nam và không được phép tính phí khách hàng về luật Việt Nam dưới bất cứ
hình thức nào.

7


-

Nếu các vụ việc được điều chỉnh bởi cả luật Việt Nam và luật nước ngoài hoặc
chỉ được điều chỉnh bởi luật Việt Nam nhưng có yếu tố nước ngoài thì luật sư
nước ngoài không đáp ứng được các yêu cầu tương tư như một luật sư Việt
Nam sẽ không được tư vấn về luật Việt Nam dưới bất kỳ hình thức nào. Đặc

biệt luật sư nước ngoài không được ký hoặc cùng ký vào bất cứ bản tư vấn nào
về luật Việt Nam. Mọi tư vấn về luật Việt Nam phải do luật sư Việt Nam hoặc
luật sư nước ngoài đáp ứng được các yêu cầu giống luật sư Việt Nam tư vấn,
cũng như không được phép tính phí khách hàng về luật Việt Nam dưới bất kỳ
hình thức nào và chỉ được tư vấn luật nước ngoài hoặc khía cạnh thông lệ quốc
tế liên quan đến giao dịch.

Hai là, nghiên cứu xem xét, sửa đổi khoản 2 Điều 82 của Luật Luật sư hiện hành
về thời hạn 02 năm đối với đăng ký hành nghề của cá nhân luật sư nước ngoài tại Việt
Nam với Bộ Tư pháp, được xem xét gia hạn trên cơ sở đáp ứng các điều kiện hành nghề.
Việc cấp phép hành nghề cho luật sư nước ngoài cũng nên xét đến nhu cầu thị trường
thông qua các điều kiện và hồ sơ cấp phép theo quy định của Chính phủ và Bộ Tư pháp.
Ba là, quy định chi tiết và hướng dẫn Điều 76 Luật Luật sư hiện hành về quy định
hành nghề của luật sư nước ngoài ở Việt nam để phù hợp với quy định của Cam kết WTO
và Nghị quyết 71/2006/QH11 của Quốc hội ngày 29/11/2006. Theo đó, mọi văn bản tư
vấn và tài liệu do luật sư nước ngoài soạn thảo liên quan tới pháp luật Việt nam đều
không có giá trị pháp lý.
Bốn là, có cơ chế kiểm tra và giám sát đối với hoạt động hành nghề của luật sư
nước ngoài tại Việt Nam. Đưa vào quy định chi tiết hướng dẫn Luật Luật sư hiện hành
việc các luật sư nước ngoài phải chịu sự kiểm tra, giám sát hành nghề của Đoàn Luật sư
địa phương (bên cạnh sự giám sát của Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp). Các Đoàn Luật sư
được phép quản lý các luật sư nước ngoài và các công ty luật nước ngoài có hoạt động
trên địa bàn (tổ chức hành nghề luật sư và luật sư Việt Nam đang bị quản lý kiểu này). Cụ
thể, sau khi cấp phép xong, luật sư nước ngoài làm thủ tục đăng ký với Đoàn Luật sư địa
phương. Nếu có tranh chấp, khiếu nại… về tác nghiệp của các luật sư nước ngoài thì
Đoàn Luật sư trực tiếp giải quyết như hiện nay đối với luật sư Việt Nam (kỷ luật tạm đình
chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đề nghị Bộ Tư pháp rút giấy phép hành nghề). Để đảm
bảo tính liên thông, bình đẳng giữa luật sư nước ngoài và luật sư Việt Nam thì cần có

8



thêm các quy định điều kiện hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam là phải cam
kết tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
luật sư Việt Nam. Nếu vi phạm sẽ bị kỷ luật với hình thức cao nhất là rút giấy phép hoạt
động hành nghề.

KẾT LUẬN
Trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, hướng tới cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, sự tham gia ngày càng sâu rộng của cộng đồng luật sư nước ngoài vào đời sống kinh
tế - xã hội nước ta là một xu thế tất yếu. Sự đa dạng về tư cách chủ thể tham gia, các hình

9


thức và phạm vi hành nghề luật sư của từng chủ thể góp phần tạo ra sân chơi vô cùng
rộng lớn nhưng chính sự đa dạng đó cũng mang đến một cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị
trường nhân lực cao, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước có các giải pháp pháp lý hiệu
quả, tạo môi trường pháp lý bình đẳng, lành mạnh.
Trong thời gian tới, hoạt động của luật sư nước ngoài và tổ chức luật sư nước
ngoài tại Việt Nam sẽ hết sức sôi động, trong bối cảnh hệ thống quy định pháp luật liên
quan và các cơ chế kiểm tra, kiểm soát bộc lộ nhiều hạn chế. Chính vì vậy, học viên
quyết định lựa chọn đề tài tiểu luận “ hình thức và phạm vi hành nghề của luật sư nước
ngoài tại Việt nam. Một số vấn đề về thực trạng và giải pháp”. Đề tài khái quát các quy
định của Luật Luật sư hiện hành quy định về hình thức hành nghề, phạm vi hành nghề
của luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra một số thực trạng, khó khăn
và đê xuất các giải pháp hoàn thiện, với mong muốn là vị thế chủ nhà, cộng đồng luật sư
và tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam không ngừng lớn mạnh và phát triển, giữ vai trò
chủ đạo trong hoạt động hành nghề tại Việt Nam, bất chấp sự tham gia và cạnh tranh
quyết liệt của các luật sư nước ngoài và tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt nam.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
1

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật Luật sư năm 2006

10


2

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012

3

Nghị quyết số: 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 của Quốc hội phê chuẩn Nghị
định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)

4

Bộ luật lao động năm 2012

5

Nghị định số 42-CP ngày 08/07/1995 của Chính phủ ban hành quy chế hành
nghề tư vấn pháp luật của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam

6


Nghị định số 92/1998/NĐ-CP ngày 10/11/1998 của Chính phủ quy định về
hành nghề tư vấn pháp luật của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt nam

7

Pháp lệnh Luật sư năm 2001

8

Nghị định số 87/2003/NĐ-CP ngày 22/07/2003 của Chính phủ về hành nghề
của tổ chức luật sư nước ngoài,luật sư nước ngoài tại Việt Nam

9

Giáo trình Luật sư và nghề luật sư – Nhà xuất bản Học viên Tư pháp 2016

10

Website:

11

Website: www.moj.gov.vn

11




×