Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

SKKN Áp dụng kĩ thuật bản đồ tư duy trong dạy tiết lý thuyết toán THCS theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.3 KB, 13 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Toán học là môn khoa học góp phần phát triển toàn diện nhân cách tư duy trí tuệ và là
môn khơi nguồn cho nhiều công trình khoa học khác. Do đó khi dạy một nội dung kiến thức
toán học giáo viên phải khai thác hết khả năng của học sinh để làm tiền đề cho việc tiếp thu kiến
thức tiếp theo và cứ như thế tiếp diễn trong quá trình học. Muốn làm được việc này giáo viên
phải tổ chức cho học sinh học tự tìm hiểu kiến thức và nắm kiến thức một cách vững vàng. Điều
quan trọng là giúp học sinh tiếp cận được kiến thức một cách dễ dàng mà lại nhớ lâu để từ đó
phát huy năng lực và phẩm chất của học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp
cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc HS học
được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó,
phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách
học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường
việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên - học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa
quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của
người học, hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm
kiếm thông tin...), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy. Có
thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù của môn học để
thực hiện.
Tuy nhiên hiện nay, còn nhiều học sinh học tập thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức
một cách rời rạc, máy móc hay theo một trình tự áp đặt của thầy cô giáo dẫn đến học sinh
chóng quên. Do đó sử dụng bản đồ tư duy để hệ thống kiến thức rất thuận lợi trong quá trình học
tập, tư duy và ghi nhớ kiến thức. Bản đồ tư duy là một sơ đồ mở do chính học sinh hình thành,
sáng tạo thỏa sức, là sản phẩm của chính tay học sinh tạo ra nên học sinh nhớ rất lâu, đồng thời
bản đồ tư duy được thể hiện bằng màu sắc, đường nét và dùng những từ khóa để ghi chép một
cách ngắn gọn, đầy đủ giúp học sinh quan sát được tổng thể hệ thống kiến thức.
Dạy học có sử dụng bản đồ tư duy là một phương pháp dạy họctích cực được nhiều thầy cô
áp dụng, nhưng áp dụng như thế nào để có hiệu quả cao trong giảng dạy thì là vấn khó. Chính vì
thế, qua quá trình dạy học, với những kinh nghiệm của bản thân và qua trao đổi đồng nghiệp, với
tổ chuyên môn, tôi xây dựng đề tài:“Áp dụng kĩ thuật bản đồ tư duy trong dạy tiết lý thuyết


toán THCS theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1. Đối với giáo viên:
Áp dụng kĩ thuật dạy học tích cực bằng bản đồ tư duy trong dạy tiết lí thuyết Toán giúp cho
giáo viên dạy học xác định chính xác nội dung trọng tâm của từng bài, từng đơn vị kiến thức, các
kiến thức kỹ năng cơ bản trong bài, trong chương và mối quan hệ giữa chúng theo chuẩn kiến
thức kỹ năng từng bài khai thác, mở rộng kiến thức kỹ năng trên chuẩn cho học sinh khá giỏi,
thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất HS.
2. Đối với học sinh:
Giúp học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông
qua sơ đồ, tóm tắt thông tin của một bài học, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi
nhớ, đưa ra ý tưởng mới…. Học sinh phát huy năng lực, sáng tạo, phù hợp với phương pháp dạy
học theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh, giúp học sinh phát huy tối đa khả
năng nhận biết, thông hiểu và vận dụng. Trong quá trình học tập, nghiên cứu hình thành cho học


sinh phương pháp học tập tích cực, tránh được tình trạng lĩnh hội kiến thức thụ động theo trình tự
áp đặt của giáo viên.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học ở bậc THCS nói chung và phân môn toán nói riêng.
-Tìm hiểu khung chương trình của phân môn Toán ở bậc THCS. Hệ thống kiến thức bằng
sơ đồ tư duy từng bài học. Áp dụng sơ đồ tư duy trong dạy học.
Đánh giá kết quả sau khi
vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn toán.
IV. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Lí luận chung về việc rèn luyện tính sáng tạo tự vẽ BĐTD của học sinh ở các lớp 6, 7, 8, 9.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đọc và tham khảo các sách lí luận dạy học để tìm hiểu những cơ sở lí luận cần thiết cho
việc phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh.
Tìm hiểu các bài dạy bằng BĐTD để chọn những bài phù hợp với nội dung cần nghiên

cứu.
Tìm hiểu thực tế, rút kinh nghiệm qua các tiết dạy học có áp dụng BĐTD của đồng nghiệp,
trao đổi ý kiến trong tổ chuyên môn, nhà trường.
B. NỘI DUNG THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
Năm học 2016 - 2017, năm học đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp; Năm
học tiếp tục thực hiện Chương trình hành động của Bộ GDĐT về thực hiện Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 04/11/2013 của BCH TƯ khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo; Đồng thời là năm học thực hiện triệt để dạy học định hướng phát triển năng lực và phẩm
chất học sinh, vận dụng ưu điểm của mô hình THM nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự
lực, sáng tạo và hợp tác của học sinh; tăng cường kĩ năng thực hành vận dụng kiến thức vào giải
quyết các vấn đề thực tiến; đa dạng hóa hình thức tổ chức dạy học, chú trọng các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo, nghiên cứu KHKT; đẩy mạnh ứng dụng CNTT; Tổ chức thi, kiểm tra đánh giá
kết quả học tập và rèn luyện của HS theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất HS.
Để đổi mới PP giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tôi đã áp dụng các
phương pháp và các kĩ thuật dạy học tích cực vào giảng dạy trong đó có kĩ thuật bản đồ tư duy
trong một tiết lí thuyết Toán.
2. Cơ sở thực tiễn
Đối với giáo viên sử dụng bản đồ tư duy gặp rất nhiều khó khăn trong khâu soạn,
giảng. Trong thực tế giảng dạy môn toán, qua một thời gian tìm hiểu chúng tôi thấy rằng khi dạy
tiết lý thuyết, chỉ có một đơn vị kiến thức rất khó hình thành bản đồ tư duy, các tiết lý thuyết là
xây dựng kiến thức mà bản đồ tư duy thường dùng để hệ thống, củng cố kiến thức. Phần khác do
một số giáo viên suy nghĩ là dùng bản đồ tư duy để củng cố kiến thức nhằm mục đích là nhớ kiến
thức để vận dụng vào giải bài tập.
Hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chưa thật sự độc lập suy
nghĩ. Nhiều HS không biết cách đọc và lưu giữ thông tin. Mặt khác dạy học có sử dụng bản đồ tư
duy là một phương pháp dạy học không phải là mới nhưng áp dụng nó để đạt hiệu quả cao là vấn
đề không phải là đơn giản. Đặc biệt một số thầy cô giáo và học sinh gặp nhiều khó khăn trong
việc đưa bản đồ tư duy vào tiết học như thế nào, tại thời điểm nào cho thích hợp. Bên cạnh đó
việc vẽ bản đồ tư duy trên giấy, trên bảng, trên bảng phụ, trên máy vi tính của thầy cô giáo gặp

rất nhiều khó khăn.


Vậy làm thế nào để có thể có được một tiết dạy lí thuyết một cách trọn vẹn đảm bảo đúng
quy định của chuẩn kiến thức kỹ năng và đạt hiệu quả cao? Đây chính là vấn đề khiến
tôi và những giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Toán trong nhà trường THCS Minh Tân luôn
trăn trở suy nghĩ. Việc tìm ra phương pháp để giải quyết vấn đề trên sẽ giúp cho chúng ta giảng
dạy thành công như mong muốn. Xuất phát từ những lí do nêu trên, tôi chọn đề tài: “Áp dụng
kĩ thuật bản đồ tư duy trong dạy tiết lý thuyết toán THCS theo định hướng phát triển năng
lực và phẩm chất học sinh” để nghiên cứu và vận dụng với mong muốn giúp học sinh ghi nhớ
kiến thức lâu, có hệ thống và giúp thầy cô giáo có thể dạy tốt các tiết trong chương trình toán
THCS.
II. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH VÀ TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN
1. Những ưu điểm và thuận lợi
Trong nhà trường đã được trang bị tài liệu thiết bị đồ dùng dạy học tương đối đầy đủ, tạo
điều kiện cho dạy và học đạt kết quả cao.
Giáo viên được cung cấp đầy đủ tài liệu, đồ dùng dạy học như: Sách giáo khoa, sách hướng
dẫn, các tài liệu khác, bảng phụ, máy chiếu. Đó là yếu tố quan trọng giúp người giáo viên thực
hiện được nhiệm vụ của quá trình dạy học đồng thời nó là hành trang cần thiết cho mỗi giáo viên
đứng lớp.
Học sinh có đủ tài liệu như: sách giáo khoa, vở bài tập và đồ dùng học tập.
Giáo viên đã sắp xếp dành nhiều thời gian cho học sinh được làm việc với sách giáo khoa, và các
kênh thông tin khác.
Trong giờ học khi truyền đạt nội dung của bài mới giáo viên đã kết hợp nhiều phương
pháp, kĩ thuật dạy học dạy học như: Nêu và giải quyết vấn đề, trực quan, vấn đáp, luyện tập thực
hành, đặt câu hỏi, bản đồ tư duy…để dẫn dắt học sinh tới kiến thức cần đạt.
2. Những hạn chế, tồn tại
Việc dạy học đưa kĩ thuật bản đồ tư duy vào tiết lí thuyết toán ngay từ đầu tiết học chưa thực sự
được chú trọng bởi mỗi đồng chí giáo viên chưa thấy hết tầm quan trọng của việc dạy tiết lí
thuyết có áp dụng kĩ thuật này. Trong quá trình lên lớp, thầy còn giảng nhiều, làm mẫu nhiều. Do

đó học sinh tiếp thu lĩnh hội tri thức một cách thụ động, ghi nhớ cách giải một cách máy móc.
Mặt khác hình thức tổ chức học tập còn đơn điệu, nghèo nàn, học sinh khá giỏi chưa được bộc lộ
năng lực sở trường, học sinh yếu dễ bị hổng kiến thức, không chủ động học tập còn ỷ lại vào sự
hướng dẫn của người thầy, không phát huy tối đa năng lực và phẩm chất của HS.
2.1 : Nguyên nhân
Do một số giáo viên chưa nghiên cứu kĩ bài dạy, việc soạn bài chỉ là hình thức sao chép. Khi dạy
giáo viên thiếu sự năng động, sáng tạo, còn lệ thuộc và tài liệu có sẵn, kiến thức truyền thụ chưa
trọng tâm, học sinh không có hứng thú học tập.
Mỗi giáo viên chưa thấy hết tầm quan trọng của mỗi phương pháp, kĩ thuật dạy học, chưa thấy
hết được các mặt mạnh, mặt hạn chế của từng phương pháp để từ đó khai thác mặt mạnh một
cách phù hợp với tính đặc thù và yêu cầu của mỗi phương pháp toán học. Việc lựa chọn và vận
dụng phương pháp dạy học còn chưa linh hoạt còn áp đặt máy móc.
- Giáo viên sử dụng tài liệu ( sách giáo khoa ) một cách máy móc, áp đặt. Chẳng hạn khi dạy bài
mới, giáo viên không khai thác triệt để các kiến thức mà bài đó yêu cầu 1 cách sâu sắc để học
sinh biết được chúng bắt nguồn từ đâu do đó không tạo được sự logic về mặt kiến thức của từng
phần mà chỉ khai thác mang tính chất liệt kê, giảng giải dẫn đến học sinh hiểu bài theo cách áp
đặt nên dễ quên khó áp dụng vào bài tập.
- Học sinh lười suy nghĩ thường học theo hình thức chép bài, học thụ động.
2.2. Những sai sót học sinh thường mắc phải


Trong chương trình sách giáo khoa hiện nay thì không phải bất cứ người học nào cũng có thể đáp
ứng được những yêu cầu đưa ra, nhất là đối với những đối tượng là học sinh yếu.
Bên cạnh đó, một số học sinh còn ham chơi, lười học, ngồi học trong lớp chưa tập trung còn có
tâm lí chán nản và sợ học môn toán. Khi kiểm tra các em về lý thuyết thì có vẻ như rất hiểu bài
nhưng khi yêu cầu các em làm thêm phần bài tập vận dụng thì rất lúng túng và khó khăn để trình
bày. Cách học của các em là nhồi nhét, học thụ động, học để chống đối sự kiểm tra của giáo viên,
các em cho rằng: Chỉ cần học thuộc lý thuyết là có thể làm được bài tập mà các em quên rằng: “
Học phải đi đôi với hành”.
Vì vậy việc chuẩn bị tốt cho học sinh những kiến thức cơ bản về lí thuyết, đặc biệt là những phương pháp

giải các bài toán có liên quan đến lí thuyết thật vô cùng quan trọng. Qua đó giúp các em khắc sâu được
kiến thức, kích thích khả năng tư duy, khả năng quan sát, sáng tạo, rèn cho các em kĩ năng phân tích, tổng
hợp, tư duy suy luận lôgic. Hơn thế nữa giúp các em sẽ có được niềm tin trong học tập.
Với thực tế này tôi xác định phải tự tìm cho mình một cách dạy để các em nắm được các kiến
thức lý thuyết sao cho phù hợp được với thực tế, kích thích được óc suy nghĩ của các em. Giúp
các em nâng cao chất lượng của bộ môn toán, các em còn tư duy sáng tạo, linh hoạt sử dụng các
kiến thức vào giải toán khi cần thiết, các em thấy hứng thú và yêu thích môn học hơn. Hơn thế
nữa giúp các em có niềm tin để lĩnh hội tốt, học tốt các kiến thức sau này.
2.3 Kết quả khảo sát thực trạng
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm của 2 lớp 9A và 9B trường THCS Minh Tân như sau:
Lớp
Sĩ số Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A(TN)
21
2
9,5
5
23,8
8

38,1
6
28,6
9B(ĐC)

21

2

9,5

8

38,1

6

28,6

5

23,8

Qua kết quả khảo sát thì thấy rằng chất lượng của hai lớp là tương đương, sự chênh lệch
giữa trình độ của hai lớp là không đáng kể.
III. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
Để tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học nhằm
hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, gây hứng thú học tập thì việc sử dụng
phương pháp, cách thức, cách tổ chức dạy học một tiết lý thuyết toán THCS có sử dụng bản đồ
tư duy là cần thiết. Vậy thế nào là bản đồ tư duy, điều kiện áp dụng và cách áp dụng như thế nào

vào tiết lý thuyết toán thì đạt hiệu quả cao?
1- Thế nào là bản đồ tư duy:
+ Khái niệm
Là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết
quả làm việc của cá nhân hay nhóm về một chủ đề. Sơ đồ tư duy có thể được viết trên giấy, trên
bản trong, trên bảng hay thực hiện trên máy tính.
+ Cách làm
Viết tên chủ đề hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề ở trung tâm . Từ chủ đề trung tâm, vẽ
các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một khái niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ
đề. Nhánh chính đó được nối với chủ đề trung tâm. Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để
viết tiếp những nội dung thuộc nhánh chính đó. Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
Như vậy Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi mở rộng đào sâu 1 ý tưởng,
tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa 1 chủ đề, một hệ thống bài tập hay 1 mạch
kiến thức, hệ thống hóa các cách giải của 1 dạng bài tập...Vì vậy, việc sử dụng những hình ảnh,


màu sắc, đường nét, chữ viết, kí hiệu…sinh động với tỉ lệ khác nhau nhằm kích thích vào vỏ não
của học sinh, giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ kiến thức, tư duy theo 1cách riêng của mình nên
phát huy được tối đa năng lực sáng tạo của học sinh.
+ Ứng dụng
Bản đồ tư duy có thể ứng dụng trong nhiều tình huống khác nhau như:
- Tóm tắt nội dung, ôn tập một chủ đề.
- Trình bày tổng quan một chủ đề.
- Chuẩn bị ý tưởng cho một báo cáo hay buổi nói chuyện, bài giảng.
- Thu thập, sắp xếp các ý tưởng.
- Ghi chép khi nghe bài giảng.
+ Ưu điểm
Các hướng tư duy được để mở ngay từ đầu;
Các mối quan hệ của các nội dung trong chủ đề trở nên rõ ràng;
Nội dung luôn có thể bổ sung, phát triển, sắp xếp lại;

Học sinh được luyện tập phát triển, sắp xếp các ý tưởng.
2. Tổ chức dạy tiết lý thuyết toán có sử dụng bản đồ tư duy
Dạy học tiết lý thuyết có sử dụng bản đồ tư duy trong môn Toán nhằm giúp cho học sinh
tự hình thành, lĩnh hội và khắc sâu kiến thức một cách hiệu quả nhất thông qua tự nghiên cứu, tự
hệ thống các kiến thức bằng cách hình thành bản đồ tư duy. Từ đó tư duy, phân tích để đưa ra
cách giải các dạng bài tập một cách hợp lí.
Dạy học có sử dụng bản đồ tư duy trong môn Toán là đòn bẩy góp phần đẩy mạnh công
tác đổi mới phương pháp dạy học tích cực ở các môn học khác và xử lí các hoạt động khác trong
cuộc sống thường ngày. Đây một phương pháp dạy học mới đang được rất nhiều giáo viên áp
dụng, có hiệu quả trong công tác giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh. Bước đầu đã
giảm bớt được tâm lý ngại học Toán, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với môn Toán, đồng
thời đem đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới về môn Toán.
Vậy thế nào là phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy? Cần sử dụng bản đồ tư duy như thế
nào để nâng cao chất lượng trong các giờ học Toán để phát huy tốt năng lực và phẩm chất của
học sinh? Ví dụ khi dạy tiết lý thuyết có sử dụng bản đồ tư duy chúng ta cần phải:
- Hệ thống kiến thức, xác định kiến thức trọng tâm.
- Các dạng bài tập theo từng đơn vị kiến thức được hệ thống ở bản đồ tư duy.
- Bản đồ tư duy được vẽ trên giấy khổ A 0, hoặc bảng phụ, hoặc trên máy vi tính để trình
chiếu khi dạy có ứng dụng công nghệ thông tin.
- Kết hợp các phương pháp dạy học tích cực: Nêu và giải quyết vấn đề, hoạt động nhóm…
và các kỹ thuật dạy học bổ trợ khác. Để hướng dẫn học sinh hoạt động nhóm hình thành bản đồ
tư duy củng cố bài học hoặc tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm tự hình thành bản đồ tư duy.
- Quy trình vẽ một bản đồ tư duy gồm các bước sau:
+ Xác định rõ mục tiêu trọng tâm của bài.
+ Chọn hình ảnh làm hình ảnh trung tâm cho phù hợp với nội dung trọng tâm.
+ Đặt mẫu vẽ theo trang ngang và vẽ từ chính giữa vẽ ra.
+ Vẽ lần lượt các nhánh từ nhánh cấp 1 đến các nhánh cấp tiếp theo, nhánh vẽ theo các
kiểu khác nhau tùy thuộc vào nội dung ghi với màu sắc, tạo bố cục hài hoà, khoa học dễ nhớ.
+ Sử dụng các cụm từ “then chốt”, công thức, kí hiệu, ví dụ minh họa, hình vẽ trên các
nhánh theo đúng từng nội dung của nhánh.

+ Lập bảng thuyết minh cho từng bản đồ.


Trong quá trình soạn - giảng tiết lý thuyết thầy cô giáo thường thực hiện phương pháp này
theo hai phương án sau:
Phương án 1: Hình thành bản đồ tư duy ngay từ đầu tiết học
* Đây là phương án thực hiện mang lại hiệu quả tương đối cao, đáp ứng tốt nhu cầu học
tập của học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, được giáo viên trong trường hết sức chú
trọng. Xây dựng bản đồ tư duy ngay từ đầu và hoàn thiện xuyên suốt trong cả tiết dạy đã lôi cuốn
học sinh vào trạng thái tự học, tự tìm ra kiến thức thông qua cách xây dựng các nhánh của bản
đồ tư duy. Trong qua trình soạn - giảng giáo viên thường thực hiện theo quy trình: Khởi động tạo
tình huống có vần đề để xây dựng kiến thức trọng tâm của bản đồ tư duy, từ đó hướng học sinh
tự tìm kiến thức để xây dựng tuần tự các nhánh của bản đồ tư duy. Giáo viên hình thành hình
ảnh của bản đồ tư duy trên bảng hoặc bảng phụ của nhóm hoặc giấy A4 của mình.
Quá trình hình thành và bổ sung cho bản đồ tư duy trong suốt tiết dạy. Đến phần củng cố giáo
viên tổ chức hoạt nhóm để học sinh hệ thống lại kiến thức bằng bản đồ tư duy, thống nhất ý
kiến các bạn trong nhóm và hình thành bản đồ tư duy trên bảng phụ. Giáo viên thu kết quả các
nhóm và gọi một vài nhóm lên thuyết trình., đai diện các nhóm góp ý, bổ sung. Giáo viên giới
thiệu về bản đồ tư duy đã chuẩn bị trước của mình cho học sinh tham khảo ..
* Điều kiện áp dụng: Việc áp dụng bản đồ tư duy được hình thành theo phương án này được
áp dụng vào các tiết dạy kiến thức mới có liên quan tới 1 số kiến thức học sinh đã học trước đó
(hoặc đã biết qua thực tế cuộc sống), có mạch kiến thức tương tự với 1 số bài hay nội dung kiến
thức đã học. Các bài mà khi giáo viên đặt vấn đề học sinh đã nhận ra được các nhánh của bàn đồ tư
duy hay những bài mang tính chất nhắc lại kiến thức mà học sinh đã được học qua.
Ví dụ 1 : Khi dạy bài Hình vuông
Hướng dạy thứ nhất:
Bài Hình vuông gồm 3 đơn vị kiến thức cơ bản: Định nghĩa, tính chất, dấu hiệu nhận biết.
Qua bài học, HS phải nắm chắc được 3 vấn đề nêu trên, từ đó HS vận dụng để vẽ được hình
vuông, nhận biết được hình vuông trong thực tế, vận dụng các dấu hiệu nhận biết để chứng minh
một tứ giác là hình vuông.

*Phần định nghĩa: GV tổ chức cho HS tìm hiểu trình tự như SGK vì kiến thức rất rõ ràng. GV
hướng dẫn HS hoạt động để hình thành nhánh sơ đồ tư duy.
*Phần tính chất: Sau khi tổ chức cho HS tìm hiểu xong, GV yêu cầu HS tự hệ thống lại bằng sơ
đồ ( HS tự vẽ vào vở, GV cho 1 HS lên bảng). Việc này giúp HS ghi các tính chất một cách đầy
đủ và tóm tắt nhất để về nhà các em có tài liệu học tập. Vì nếu ghi như SGK thì không đủ, còn
ghi hết các tính chất lên bảng thì dài dòng và mất nhiều thời gian, không hiệu quả.
*Phần Dấu hiệu nhận biết: GV phải khai thác để HS thấy được điểm xuất phát của từng dấu
hiệu này là từ đâu
Trong bài này đưa ra 5 dấu hiệu nhận biết HV, trong đó có 2 dấu hiệu được xuất phát từ
phần Định nghĩa, 3 dấu hiệu được xuất phát từ phần Tính chất. Chính vì đặc điểm này, chúng ta
có thể khai thác các dấu hiệu nhận biết riêng lẻ ngay sau khi dạy từng phần Định nghĩa, Tính
chất để HS nắm được nguồn gốc của các dấu hiệu đồng thời tạo được sự lôgic giữa các đơn vị
kiến thức trong bài.
Cụ thể:
- Khi tìm hiểu xong đ/n: HV là tứ giác có 4 góc vuông và 4 cạnh bằng nhau, GV hỏi HS “Căn
cứ định nghĩa này, để chứng minh một tứ giác là HV ta có thể chứng minh điều gì?” thì HS
sẽ trả lời được ngay, đồng thời hiểu được dấu hiệu này xuất phát từ định nghĩa hình vuông.


Sau khi hình thành xong nhận xét: HV là hình chữ nhật (HCN) có 4 cạnh bằng nhau, GV
hỏi câu hỏi “HCN có thêm điều kiện gì để trở thành HV? để đưa ra dấu hiệu “HCN có 2 cạnh
kề bằng nhau là HV”. Tương tự khi khai thác từ Hình thoi (HT) để tìm ra dấu hiệu “ HT có 1
góc vuông là HV”.
=>Như vậy sau khi tìm hiểu xong phần Định nghĩa, HS đã tự mình tìm ra 2 cách để chứng
minh một tứ giác là HV.
- Tiếp tục, sau khi dạy xong phần Tính chất của HV, GV khai thác từ tính chất về đường
chéo của HCN, HT sang HV, dùng các câu hỏi để HS phát hiện ra 3 dấu hiệu còn lại.
Sau đó GV hỏi: Em hãy nêu tất cả các cách để chứng minh một tứ giác là HV? Và GV giới
thiệu: nói cách khác đó là các dấu hiệu nhận biết một tứ giác là HV. Với cách khai thác bài như
vậy HS có thể hiểu bài 1 cách sâu sắc, tự mình hoàn thành sơ đồ tư duy để nhớ kiến thức của

bài.
- Cuối cùng GV chiếu BĐTD đã vẽ sẵn bằng phần mềm trên máy tính để chốt bài.
Hướng dạy thứ hai : GV làm theo cách sau:
Đặc điểm của bài là học sinh đã có biểu tượng về hình vuông và biết 1 số tính chất về cạnh, góc
của hình vuông từ các lớp ở tiểu học. Vì vậy GV nên cho học sinh lập bản đồ với tên chủ đề
chính là “hình vuông ” hoặc “vẽ 1 hình vuông” để học sinh thiết lập bản đồ tư duy về “hình
vuông”, từ đó dẫn đến kiến thức mới.
Câu hỏi được đặt ra để gợi ý cho học sinh suy nghĩ lập bản đồ tư duy về hình vuông là :
1. Tìm các ví dụ trong thực tế có dạng hình vuông?
2. Hình vuông có những đặc điểm gì ? Mô tả các đặc điểm đó?
3. Thử định nghĩa hình vuông theo cách hiểu của em?
4. Hình vuông liên quan đến những hình nào đã học?
5. Nêu tính chất của hình vuông ?
Những câu hỏi này chính là gợi ý để học sinh ghi các nhánh con “Cấp 1” và câu trả lời của
học sinh chính là nội dung sẽ được ghi thành các ý trên nhánh con “cấp 2”. Bản đồ tư duy mà
học sinh lập được ở phần đầu tiết học có thể chưa chính xác về nội dung. GV nên cho học sinh tự
thảo luận, vẽ, viết ra, sau đó để học sinh cả lớp phát hiện sửa chữa những chỗ viết sai, giúp các
em nhớ lâu và tránh được những sai lầm đã mắc.
Chẳng hạn BĐTD do học sinh thiết lập sau đây có định nghĩa sai về hình vuông (Hình
vuông là tứ giác có 4 góc vuông hoặc tứ giác có 4 cạnh bằng nhau) như sơ đồ sau:
Tiếp theo GV cho 1 số học sinh trình bày sơ đồ tư duy của mình trước cả lớp, các học
sinh khác nhận xét bổ sung. GV đề nghị các em sửa chữa chỉnh lý, bổ sung vào BĐTD. Sau đó
cho học sinh vẽ lại hoàn chỉnh 3 nhánh cấp 1 : Định nghĩa, tính chất, dấu hiệu nhận biết hình
vuông. Đây chính là trọng tâm trả bài mới.
Ta được sơ đồ sau:
Như vậy bản đồ tư duy trong trường hợp này được học sinh xây dựng xuyên suốt quá trình học tập,
do đó ở các tiết học kiểu này luôn lôi cuốn học sinh vào trạng thái tự nghiên cứu, tư duy nên đây là hình
thức học tập tích cực nhất trong các phương pháp dạy học tích cực. Phương pháp này đã tiếp cận và phát
huy một cách tốt nhất năng lực và phẩm chất của học sinh . Đối với các bài học có tính tương tự ta rất dễ
dàng thực hiện soạn – giảng theo phương pháp dạy học này ví dụ như các bài: Hình thang cân, hình bình

hành, hình chữ nhật, hình thoi...
Giáo án thực nghiệm minh họa ( Tiết 21: Hình vuông ) trong tài liệu đính kèm ( Trang 32 )
Ví dụ 2: Tiết 30 - Hình học 9 “Vị trí tương đối của hai đường tròn”
Khi giảng dạy bài này giáo viên tổ chức các hoạt động sau:
1. Hoạt động khởi động:


Giáo viên yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi
+ Nêu vị trí tương đối của đường thẳng và đường tròn?
+ Nêu các hệ thức liên hệ của khoảng cách từ tâm đường tròn đến đường thẳng với bán
kính đương tròn?
GV gọi HS nhận xét bổ sung hoàn chỉnh câu trả lời.
2. Hoạt động hình thành kiến thức mới:
Giới thiệu bài: Giữa đường thẳng và đường tròn có ba vị trí tương đối. Vậy giửa hai
đường tròn có những vị trí tương đối nào? Từ đó học sinh dự đoán được giửa hai đường tròn
cũng có ba vị trí tương đối. Giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng hình ảnh trung tâm (Vị trí
tương đối của hai đường tròn) sau đó yêu cầu học sinh lần lượt nêu các nhánh. Học sinh lần lượt
nêu được:
Có thể căn cứ vào bài vị trí tương đối của đường thẳng và đường tròn học sinh xây dựng bản
đổ tư duy ngay từ đầu tiết học với 3 nhánh cấp 1 là :
+ Hai đường tròn cắt nhau.
+ Hai đường tròn tiếp xúc nhau.
+ Hai đường tròn không giao nhau .
Sau đó giáo viên sẽ tổ chức các hoạt động để tìm hiểu chi tiết hơn về từng trường hợp.
Như vậy trên bảng giáo viên xây dựng một bản đồ tư duy lần lượt theo từng đơn vị kiến thức.
Lưu ý bên dưới học sinh cũng thực hiện một bản đồ tư duy trên giấy khổ A 4 theo quá trình tư
duy của mình. Kết thúc các hoạt động trên giáo viên xóa sơ đồ vẽ trên bảng và tiến hành tổ chức
cho học sinh hoạt động nhóm hình thành nhanh trên bảng phụ hoặc giấy khổ A 0. Giáo viên thu
kết quả và gọi đại diện vài nhóm lên trên thuyết trình. Trong trường hợp này các bảng vẽ thường
không thống nhất nhau, do đó giáo viên có thể giới thiệu thêm sơ đồ có cách thể hiện khác cho

học sinh tham khảo.
BẢN ĐỒ TƯ DUY DÙNG CHO BÀI “VỊ TRÍ TƯƠNG ĐỐI CỦA HAI ĐƯỜNG TRÒN”
Như vậy việc sử dụng bản đồ tư duy ngay từ đầu tiết học đã giúp học sinh phát triển tốt năng
lực tự học, tự giải quyết vấn đề, năng lực tư duy logic, tư duy sáng tạo, năng lực sử dụng ngôn ngữ,
sử dụng các kí hiệu toán học...Ngoài ra còn phát triển năng lực thẩm mỹ của HS.
Phương án 2: Sử dụng bản đồ tư duy để củng cố toàn bài
- Khi thực hiện dạy học tiết lí thuyết giáo viên thường vận dụng bản đồ tư duy để củng cố
toàn bài theo quy trình sau:
Sau khi học xong bài (cả lí thuyết và bài tập vận dụng) giáo viên tiến hành tổ chức cho học sinh
hoạt động nhóm trong vòng khoảng 2 đến 3 phút để hệ thống kiến thức bài học bằng bản đồ tư
duy và được vẽ trên bảng phụ hoặc giấy khổ A 0, sau đó giáo viên thu kết quả, tiến hành gọi học
sinh lên thuyết trình bản đồ tư duy của nhóm mình. Giáo viên xử lí kết quả, cuối cùng đưa ra và
giới thiệu bản đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn trước trên bảng phụ hoặc giấy khổ A 0 hoặc
trên màn hình.
- Kiểu bài vận dụng: Đối với phương án này ta thường áp dụng cho những bài có một, hai
hoặc ba đơn vị kiến thức hoặc những bài có từ hai tiết trở lên ta áp dụng vào những tiết cuối của
bài.
Ví dụ minh họa: +VD 1: Tiết 2 - Hình học 9 “Một số hệ thức về cạnh và đường cao trong
tam giác vuông ”.
- Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động nhóm trong thời gian 4 phút, hệ thống kiến thức
bài học, lưu ý cho học sinh chốt được kiến thức của cả hai tiết. Sau khi học sinh hoàn thành yêu


cầu hoạt động nhóm giáo viên thu kết quả cho học sinh tiến hành thuyết trình bản vẽ của nhóm
mình rồi sau đó giáo viên nhận xét và hoàn chỉnh một vài sản phẩm. Nếu các sơ đồ của học sinh
chưa được hoàn thiện thì giáo viên giới thiệu bản đồ tư duy của mình đã chuẩn bị nếu bản đồ tư
duy của mình có ưu điểm hơn với kết quả của học sinh, cho học sinh tham khảo. Giáo viên tổ
chức cho học sinh hệ thống và nhớ được các kiến thức.
- Định lý Pitago, 4 hệ thức về cạnh và đường cao (HS được học trong 2 tiết).
Các em vẽ bản đồ tư duy ở tiết 2 từ đó củng cố cho học sinh kiến thức trọng tâm của cả 2

tiết.
+ VD 2: Tiết 29 - Hình học 9 “Tính chất của hai tiếp tuyến cắt nhau”.
Khi dạy bài “Tính chất của hai tiếp tuyến cắt nhau” giáo viên tiến hành tổ chức các hoạt
động sau hình thành cho học sinh các kiến thức:
1. Định lý về hai tiếp tuyến cắt nhau:
2. Đường tròn nội tiếp tam giác.
3. Đường tròn bàng tiếp tam giác
4. Bài tập vận dụng:
+ Bài tập 26/SGK - trang 115. Bài tập 30/SGK - trang 116.
+ Bài tập 31/SGK – trang 116( đề ghi ở bảng phụ)
Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm (5 - 6 phút) để hệ thống nội dung bài học bằng bản
đồ tư duy. Sau đó thu kết quả và gọi một học sinh trong nhóm lên thuyết trình sơ đồ của nhóm
mình. Giáo viên bổ sung hoàn chỉnh câu trả lời và giới thiệu bản đồ tư duy mà giáo viên đã
chuẩn bị.
BẢN ĐỒ TƯ DUY CỦNG CỐ KIẾN THỨC
Ví dụ 3: Tiết 7 - Đại số 8 “Những hằng đẳng thức đáng nhớ”
Khi dạỵ giáo viên tiến hành tổ chức các hoạt động hình thành cho học sinh các kiến thức:
1. Tổng hai lập phương:
2. Hiệu hai lập phương.
3. Bài tập vận dụng:
Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm (5 - 6 phút) để hệ thống nội dung bài học bằng bản đồ tư
duy. Thu và đổi bài giửa các nhóm. Giáo viên giới thiệu bản đồ tư duy đã chuẩn bị. Yêu cầu các
nhóm chấm chéo bài và báo cáo kết quả. Sau đó giáo viên tổng kết khen thưởng, nhắc nhở.
BẢN ĐỒ TƯ DUY CỦNG CỐ KIẾN THỨC
Một số sơ đồ tư duy của HS qua các tiết học
III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Đối với giáo viên
Hiện nay khi soạn - giảng kiểu bài dạy: “Có sử dụng bản đồ tư duy trong tiết lý thuyết môn
Toán THCS” thầy cô giáo cần thực hiện như sau:
1.1. Tìm hiểu và xác định mục tiêu tiết dạy

+ Căn cứ vào chuẩn KTKN và nội dung cơ bản đã được thể chế trong SGK. Xác định rõ
trong giờ học học sinh phải biết được gì về KT, KN. Học sinh cần rèn thái độ, năng lực, phẩm
chất sống gì trong quá trình hợp tác học tập (với thầy và bạn). Giáo viên cần chú ý tới mục tiêu
xây dựng phương pháp học tập đặc biệt là phương pháp tự học của học sinh.
Cụ thể: - Mục tiêu bài dạy: + Kiến thức
+ Kỹ năng


+ Thái độ.
+ Năng lực - Phẩm chất
1.2. Xây dựng ý tưởng bản đồ tư duy trong bài dạy
Căn cứ vào KTKN đã được xác định, căn cứ chủ yếu vào các đơn vị KT được qui định trong
SGK để xây dựng ý tưởng sử dụng bản đồ tư duy ở những phần nào của bài dạy cho phù hợp.
- Hệ thống kiến thức của bài và phân loại bài tập theo từng dạng để vận dụng mối quan
hệ giữa kiến thức - kỹ năng từng bài.
- Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học tích cực nhất là dạy học bằng bản đồ tư
duy.
- Khi sử dụng bản đồ tư duy để củng cố kiến thức GV nên có những câu hỏi mở : Kiến
thức của bài này phần này ứng dụng trong những bài tập nào?
VD: Những hằng đẳng thức đáng nhớ ứng dụng vào giải phương trình, giải bất phương trình, tìm
GTLN, GTNN, phân tích đa thức thành nhân tử, rút gọn...
+ Đầu tư thời gian thích hợp cho việc soạn bài, chuẩn bị kĩ hệ thống bài tập, câu hỏi nhằm tạo
ra tình huống, hướng dẫn từng bước cách giải quyết vấn đề phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Muốn vậy giáo viên cần nắm vững nội dung tiết dạy gồm những kiến thức nào được bổ sung, kĩ
năng nào cần rèn luyện, bài tập nào khó bài tập trọng tâm có thể phát triển năng lực gì cho học
sinh. Giáo viên còn phải nắm được kiến thức, kĩ năng sẵn ở học sinh với mức độ nào, từ đó xây
dựng một hệ thống kiến thức, thích hợp với trình độ học sinh, giúp các em tự tin ở chính mình
+ Tạo cho học sinh có một động cơ ham muốn khám phá cách giải mới, phát hiện
mới...Giáo viên cần tập cho học sinh biết mở rộng kiến thức lý thuyết, bài tập, tìm mối liên hệ
với các bài tập khác, tự mình ra các bài toán tương tự. Vì vậy, giáo viên cần dành thời gian thích

đáng cho học sinh suy nghĩ, thảo luận theo nhóm hoặc có thể tranh luận trực tiếp với giáo viên về
một vấn đề cần giải quyết, một ý tưởng mới.
+ Phải thường xuyên sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy và rút kinh nghiệm sau từng
tiết dạy.Đồng thời mạnh dạn, không ngại khổ, ngại khó, suy nghĩ tìm tòi phối hợp các phương
pháp và sử dụng bảng đồ tư duy trong dạy học có hiệu quả nhất. Giúp học sinh có thói quen ghi
nhớ, suy luận theo bản đồ tư duy trong học tập và trong cuộc sống sau này. Giáo viên liên tục cập
nhật những thông tin về phương pháp, phương tiện và các kinh nghiệm dạy học bằng bản đồ tư
duy trên mọi kênh thông tin
2. Đối với học sinh :
- Đọc, nghiên cứu trước nội dung bài học và tiếp cận bài tập của bài học đó tự xây dựng
bản đồ tư duy theo cách hiểu của cá nhân.
- Tìm hiểu các dạng loại bài tập đã giải trong chương và ghi nhớ cách giải.
- Bảng nhóm, giấy khổ A4, phấn màu, bút tô để vẽ bản đồ tư duy.
- Chia nhóm, chọn nhóm trưởng đại diện cho nhóm.
Đối với học sinh phải chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng học tập phục vụ cho việc vẽ bản đồ tư
duy, hình thành thói quen tự nghiên cứu, suy nghĩ, chủ động trong học tập. Phải rèn luyện vẽ bản
đồ tư duy, tìm nhiều cách thể hiện khác nhau đối với một hệ thống kiến thức.
3. Đối với tổ chuyên môn
Tổ chuyên môn thường xuyên tổ chức họp bàn, trao đổi về phương pháp dạy học tích cực,
tháo gỡ các khó khăn, tồn tại trong quá trình giảng dạy. Tăng cường hội giảng theo chuyên để
nâng cao hiệu quả dạy học.
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Qua việc thực hiện giảng dạy bằng các biện pháp đã trình bày, với mỗi dạng toán, mỗi bài
tôi đều có khảo sát chất lượng học sinh và sau đó tôi kiểm tra học sinh một bài tổng hợp để đánh


giá chung. Qua khảo sát tôi thấy rằng chất lượng khi có áp dụng các biện pháp giảng dạy đã nêu
đó giúp nâng cao chất lượng đại trà của học sinh, chất lượng học tập của học sinh cũng đều hơn
đặc biệt là chất lượng học sinh khá giỏi. Tôi đã thống kê hai kết quả của 2 lớp thực nghiệm (9A)
và lớp đối chứng (9B) như sau:

Lớp

Sĩ số

9A (TN)

21

Giỏi
SL
5

9B (ĐC)

21

3

%
23,8

Khá
SL
9

14,3

7

%

42,9

Trung bình
SL
%
5
23,8

Yếu
SL
2

%
9,5

33,3

6

5

23,8

28,6

Nhìn vào bảng trên cho thấy chất lượng tiết dạy có ứng dụng các phương pháp dạy học tích
cực giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức đã học vào giải Toán cao hơn hẳn so với tiết dạy không
áp dụng các biện pháp này. Hầu hết các em ở lớp thực nghiệm đều nắm chắc bài, tư duy mạch lạc
và đặc biệt có nhiều học sinh khá giỏi hơn hẳn lớp đối chứng.
C. KẾT LUẬN

I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Qua việc nghiên cứu áp dụng kĩ thuật sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy môn toán tôi đã rút
ra một số kinh nghiệm như sau:
* Về phía giáo viên
Để đáp ứng với yêu cầu trình độ của người giáo viên trong thời đại mới, thực hiện cuộc vận
động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo”, mỗi thầy cô giáo cần phải vận
động không ngừng, luôn tự học hỏi, tự nghiên cứu sáng tạo để vốn kiến thức luôn được bổ sung,
luôn được làm mới. Đặc biệt trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, vấn đề này lại càng hết sức
quan trọng. Tài năng của học sinh được ví như nguồn tài nguyên còn nằm trong lòng đất, cần
được thầy cô giáo phát hiện, khai thác và sử dụng. Muốn vậy năng lực và trình độ chuyên môn
của người thầy phải thật vững vàng giúp học sinh phát huy tính chủ động, tự lực, sáng tạo và
năng lực của học sinh nhằm nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu về đổi mới toàn diện giáo dục.
Người thầy phải biết :
- Tạo mối quan hệ hợp lí giữa dạy kiến thức và dạy kĩ năng, phương pháp suy nghĩ và hành
động..
- Dạy cách suy nghĩ, dạy học sinh thành thạo các thao tác của tư duy (phân tích, tổng hợp,
tương tự…)
- Đừng bỏ qua mà hãy khai thác ngay câu trả lời của học sinh, khuyến khích các câu trả lời
tốt.
- Vừa giảng, vừa luyện, khuyến khích các em tư duy bằng sơ đồ tư duylà cách tốt nhất để
học sinh nắm kiến thức.
- Không chỉ dừng lại ở những gì đã biết mà phải luôn tư duy, sáng tạo, tìm tòi và học hỏi.
Chất lượng học tập của các môn học nói chung, chất lượng của môn toán nói riêng còn thấp
không phải là nỗi trăn trở của riêng bản thân tôi, của các đồng nghiệp trong tổ chuyên môn, của
nhà trường mà của toàn xã hội, của những người luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục của nước
nhà. Chất lượng học tập của các em thấp cũng dẫn đến tâm lí bi quan, chán nản và đó cũng là
một trong những nguyên nhân các em nghỉ, bỏ học.


Là người giáo viên ở trường trung học cơ sở, công việc không chỉ là đảm bảo truyền đạt hết kiến

thức trong sách giáo khoa đó là điều kiện cần chứ chưa đủ, mà đòi hỏi người thầy giáo phải đi
sâu hơn nữa vào từng vấn đề cụ thể, nghiên cứu nghiêm túc và có những hiểu biết sâu sắc để
giúp đỡ các em đạt kết quả cao hơn, đưa chất lượng học tập lên cao hơn.
Toán học rất phức tạp, nó gồm rất nhiều dạng toán, mỗi dạng toán lại có những cách vận dụng
khác nhau nên không phải học sinh nào cũng làm được mà nó phụ thuộc vào việc nắm kiến
thức, vận dụng những kiến thức mà việc đó phụ thuộc rất nhiều vào cách dạy của thầy.
* Về phía học sinh
- Bản thân học sinh phải thực sự cố gắng, có ý thức tự học, tự rèn, kiên trì và chịu khó
trong quá trình học tập.
- Trong giờ học trên lớp học sinh cần nắm vững phần lý thuyết hiểu được bản chất của vấn
đề, có kĩ năng vận dụng tốt lý thuyết vào giải bài tập từ đó học sinh mới có thể tránh được những
sai lầm khi giải toán.
- Phải có đầy đủ các phương tiện học tập, giành nhiều thời gian cho việc làm bài tập ở nhà, thường
xuyên trao đổi cùng bạn bè để nâng cao kiến thức cho bản thân.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN BỎ NGỎ VÀ ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Vấn đề còn bỏ ngỏ
Do khuôn khổ của đề tài và thời gian nghiên cứu có hạn nên tôi còn có những vấn đề cần
đề cập sâu hơn.
- Cần đi sâu hệ thống lấy VD nhiều hơn.
- Phần áp dụng theo phương án 1 hiệu quả đạt được sẽ cao hơn nên cần khai thác tốt
hơn. Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu các vấn đề này trong thời gian tới.
2. Điều kiện thực hiện đề tài
Với những kinh nghiệm mà tôi đã nêu ra đã áp dụng có hiệu quả rất rõ rệt với môn
toán học sinh lớp 9 trường THCS Minh Tân. Nội dung của đề tài có thể áp dụng được với tất cả
các môn khoa học khác : Vật lý, hóa học, sinh học, ngữ văn, địa lý… và được áp dụng ở tất
cả các khối lớp với đối tượng là học sinh nói chung đặc biệt là học sinh khá giỏi.
III. KIẾN NGHỊ - ĐỀ XUẤT
1. Với giáo viên
- Cần bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên trao đổi, rút kinh
nghiệm, tìm tòi thêm nhiều cách giải phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Trong quá trình dạy cần hướng dẫn học sinh nắm chắc các kiến thức chuẩn trong chương trình

môn học, trên cơ sở các kiến thức chuẩn đó giáo viên củng cố, mở rộng kiến thức; đưa các bài
toán từ dạng lạ trở về các bài toán điển hình quen thuộc. Nghiên cứu kĩ các phương pháp, kĩ
thuật dạy học tích cực để từ đó vận dụng vào từng tiết dạy cho phù hợp và đạt hiệu quả cao.
2. Với tổ chuyên môn và nhà trường
- Tổ chuyên môn, Ban giám hiệu cần quan tâm, tạo điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp
dạy học. Tổ chức tốt các chuyên đề và nâng cao chất lượng các buổi sinh hoạt chuyên môn để
bồi dưỡng năng lực cho giáo viên. Đặc biệt cần có biện pháp thúc đẩy phong trào tự học, tự
nghiên cứu để đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi,
học sinh năng khiếu Toán trong toàn trường nói riêng.
- Nhà trường tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường đầu tư các thiết bị dạy học đáp ứng nhu
cầu dạy học hiện nay.
3. Với các cấp quản li giáo dục
- Các cấp quản lí giáo dục thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề, các đợt tập huấn về
việc sử dụng các biện pháp dạy học giúp cho GV có điều kiện trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn
nhau, cập nhật được những thông tin cần thiết giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học.


- Tiếp tục có các biện pháp động viên, khuyến khích các các cá nhân tập thể đi đầu trong
lĩnh vực đổi mới phương pháp dạy học.
IV. KẾT LUẬN CHUNG
Để thực hiện tốt một tiết dạy lý thuyết Toán nhằm tiếp cận và phát triển năng lực của học
sinh cũng khá phức tạp đòi hỏi nỗ lực mỗi giáo viên trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy
đó là người dạy phải trang bị cho mình một hệ kiến thức vững vàng, có kỹ năng tổng hợp cô
đọng hệ thống kiến thức từ đó tìm cho mình phương pháp giảng dạy phù hợp nhất nhằm đầy đủ
nội dung, phù hợp với trình độ của nhiều đối tượng học sinh. Muốn vậy GV phải hiểu được bản
chất của dạy học trên là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học.
Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người giáo viên cần nhận thức rõ ràng là quy luật
nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và
thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động. Trong thực tế hiện nay,
còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc

mà chưa rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài đấy, cô lập nội dung của các
môn, phân môn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy
logic và tư duy hệ thống. Sử dụng sơ đồ tư duy giúp các em giải quyết được các vấn đề trên và
nâng cao hiệu quả học tập. Hơn thế nữa, chúng ta còn thấy được tác dụng lớn mà phương pháp
dạy học bằng BĐTD đem lại. Từ đó thấy được vai trò quan trọng của nó trong học tập và trong
đời sống. Bản đồ tư duy không chỉ có tác dụng với mỗi cá nhân mà nó còn phát huy được sức
mạnh của tập thể đặc biệt trong tổ chức hoạt động nhóm của học sinh. Do đó khi dạy một nội
dung kiến thức toán học giáo viên phải khai thác hết khả năng của học sinh để làm tiền đề cho
việc tiếp thu kiến thức tiếp theo và cứ như thế tiếp diễn trong quá trình học. Muốn làm được việc
này giáo viên phải tổ chức cho học sinh học tự tìm hiểu kiến thức và nắm kiến thức một cách
vững vàng. Điều quan trọng là giúp học sinh tiếp cận được kiến thức một cách dễ dàng mà lại
nhớ lâu để từ đó phát huy năng lực và đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực
của học sinh.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi về “Áp dụng kĩ thuật bản đồ tư duy
trong dạy tiết lý thuyết toán THCS theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học
sinh” để cùng trao đổi với bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin cam đoan toàn bộ sáng kiến kinh nghiệm
này là của bản thân tôi.Tôi hy vọng với kết quả mà tôi nghiên cứu, đúc rút ra, cũng như ý kiến,
kiến nghị mà tôi nêu ra được bạn bè đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo có liên quan lưu tâm và thực
hiện. Tôi mong rằng những kết quả đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà
trường nhằm góp phần đào tạo bồi dưỡng nhân tài cho quê hương đất nước.
Tuy nhiên, đây là kinh nghiệm của riêng cá nhân tôi nên sẽ không tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, hội
đồng khoa học các cấp, các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Phù Cừ, ngày 21 tháng 3 năm 2017
Người viết
Hồ Thị Thúy




×