Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Dạy học một số văn bản thơ trong sách giáo khoa ngữ văn 12 theo định hướng phát triển năng lực thẩm mỹ cho học sinh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HUYỀN

DẠY HỌC MỘT SỐ VĂN BẢN THƠ
TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
THẨM MỸ CHO HỌC SINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HUYỀN

DẠY HỌC MỘT SỐ VĂN BẢN THƠ
TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
THẨM MỸ CHO HỌC SINH
Ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Văn - Tiếng Việt
Mã số: 8140111

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG HỮU BỘI


THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng Hữu Bội. Các nội dung nghiên cứu, kết
quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ
hình thức nào.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền

i


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp cuối khóa,
em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo khoa
Ngữ văn, khoa Sau Đại học, Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên. Đặc biệt, với tất cả tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin
chân thành cảm ơn TS. Hoàng Hữu Bội - Người đã hết lòng tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào
tạo tỉnh Hải Dương; Các thầy cô trong Ban Giám hiệu và các đồng nghiệp
trường THPT Nam Sách đã giúp đỡ nhiệt tình, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân yêu đã luôn bên em,
động viên, khích lệ em trong những ngày học tập ở trường.
Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 13 tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
DANH MỤC VIẾT TẮT .................................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. v
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6
7. Bố cục luận văn ............................................................................................... 7
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................. 8
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ...... 8
1.1.

Cơ sở lý luận .............................................................................................. 8

1.1.1. Khái niệm năng lực và năng lực cảm thụ thẩm mỹ ................................... 8
1.1.2. Vấn đề phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi dạy học các văn bản thơ ... 13

1.1.3. Đặc điểm thơ Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến nay ................................ 16
1.2.

Cơ sở thực tiễn......................................................................................... 20

1.2.1. Khái quát đặc điểm nội dung và nghệ thuật các văn bản thơ hiện đại
Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12............................................... 20
1.2.2. Năng lực cảm thụ thẩm mĩ của học sinh đối với các văn bản thơ hiện
đại Việt Nam trong SGK Ngữ văn 12 và các tiêu chí đánh giá năng
lực cảm thụ thẩm mỹ của HS .................................................................. 22
1.2.3. Thực trạng dạy học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách
giáo khoa Ngữ văn 12 của giáo viên ....................................................... 30
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 34
iii


Chương 2. ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC CÁC VĂN BẢN THƠ HIỆN
ĐẠI VIỆT NAM TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12
THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẢM THỤ THẨM
MỸ CHO HỌC SINH ........................................................................... 35
2.1.

Định hướng chung ................................................................................... 35

2.2.

Định hướng riêng cho từng bài thơ ......................................................... 36

2.2.1. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.......................................................... 36
2.2.2. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu .................................................................. 41

2.2.3. Đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca “Mặt Đường khát vọng”) của
Nguyễn Khoa Điềm ................................................................................. 47
2.2.4. Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh ................................................................ 54
2.2.5. Bài thơ Đàn Ghi ta của Lor-Ca của nhà thơ Thanh Thảo ....................... 59
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 66
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM....................................................... 67
3.1.

Thiết kế dạy học bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng theo
định hướng dạy học do luận văn đề xuất................................................. 67

3.2.

Dạy học thực nghiệm và đối chứng ở bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ... 80

3.2.1. Mục đích .................................................................................................. 80
3.2.2. Đối tượng thực nghiệm............................................................................ 80
3.2.3. Kế hoạch thực nghiệm ............................................................................. 80
3.2.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm ....................................................... 81
3.2.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm ................................................................. 81
3.2.6. Kết luận chung về thực nghiệm ............................................................... 85
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 87
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 90
PHỤ LỤC

iv


DANH MỤC VIẾT TẮT

GD

:

Giáo dục

Gs

:

Giáo sư

GV

:

Giáo viên

HS

: Học sinh

NL

: Năng lực

NXB

: Nhà xuất bản


SGK

: Sách giáo khoa

T.S

: Tiến sĩ

THPT

: Trung học phổ thông

TPVC

: Tác phẩm văn chương

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1.

Tâm lý HS THPT với các văn bản thơ hiện đại Việt Nam
trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 .................................................. 23

Bảng 1.2.

Năng lực cảm thụ các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong
sách giáo khoa Ngữ văn 12 của HS THPT ................................... 27


v


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về mặt lí luận
Vấn đề dạy học tác phẩm văn chương để làm phát triển năng lực thẩm
mỹ ở học sinh đã được thế hệ ông cha ta nói tới từ lâu.
Từ những năm 80 của thế kỉ trước trong cuốn “Những bài giảng văn ở
Đại học” (NXB Giáo dục - năm 1982), giáo sư Lê Trí Viễn đã viết: “Lâu nay
thường dùng thuật ngữ phát huy trí lực để chỉ việc khơi động học sinh tham gia
xây dựng bài.Trong giờ giảng văn có cái gì cao hơn, rộng hơn. Bởi vì đây không
phải chỉ kêu gọi những tính năng của trí tuệ mà cả con người. Đâu phải chỉ có
phán đoán, suy luận, phân tích, tổng hợp, tưởng tượng tái tạo và sáng tạo, mà còn
lắng mình nghe cho được nhịp đập cảu sự sống nằm im trong chữ nghĩa, để tim
mình rung cảm trở lại cái rung cảm của tác giả, cùng vui, buồn, căm giận, thương
nhớ, đợi chờ, nâng mình lên, xúc cảm với cái đẹp trong hình tượng thơ văn, nghe
nhạc mà thấy mùi hương, nghe tiếng động mà cảm thấy tĩnh mịch, thấy bóng đèn
mà bóng tối hóa thâm u… Tóm lại, đi vào thế giới tinh vi của thơ văn bằng cả con
người thông minh, nhạy cảm, tinh vi của mình” [34, tr.12].
Ngày nay giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ
chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học
cho nên trong việc dạy - học môn Ngữ văn, vấn đề dạy học tác phẩm văn học
làm phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh được đặt ra. Tài liệu Tập
huấn môn Ngữ văn cấp THPT của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2014 có ghi rõ:
“Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn với
tư duy hình tượng trong tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc với các
tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của
tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình”.
Như vậy, chương trình mới đặt ra một yêu cầu cao hơn trong việc dạy - học tác

phẩm văn chương nói chung và dạy học văn bản thơ nói riêng. Đó là phải hình
1


thành ở học sinh năng lực cảm thụ thẩm mĩ. Đây là vấn đề mới, chúng tôi mạnh
dạn lựa chọn đề tài này với mong muốn đóng góp dù rất nhỏ vào việc đổi mới
phương pháp dạy - học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông theo
yêu cầu của chương trình mới.
1.2. Về mặt thực tiễn
Ngành giáo dục của nước ta đang thực hiện việc chuyển đổi chương trình
từ giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Vấn đề này
đang được triển khai ở các trường phổ thông trong tất cả các môn học.
Dạy học TPVC nói chung, dạy học thể loại thơ nói riêng, chương trình mới
đòi hỏi phải hình thành và phát triển cho học sinh năng lực cảm thụ thẩm mỹ.
Khi thực thi đổi mới phương pháp dạy học để hình thành năng lực thẩm
mỹ, giáo viên và học sinh gặp nhiều lúng túng và khó khăn trong cả quá trình
dạy - học. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài này với hi vọng phát hiện ra những lung
túng, khó khăn của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học TPVH theo
hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh. Từ đó đề xuất được
những phương án dạy học cụ thể cho từng văn bản thơ trong SGK Ngữ văn 12
theo yêu cầu của chương trình mới.
2. Lịch sử vấn đề
Dạy học thơ theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học
sinh đã được bàn đến trong các tài liệu sau đây:
2.1. Trong cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại của
nhóm tác giả Trần Thanh Đạm, Hoàng Như Mai, Huỳnh Lý, Phan Sĩ Tấn, Đàm
Gia Cẩn có bài viết Thơ và giảng dạy thơ tác giả Trần Thanh Đạm đã đề cập
đến vai trò của thơ: “Tác dụng lớn lao của thơ đối với việc giáo dục con người.
Thơ như là một nghệ thuật của ngôn ngữ cân đối, hài hòa, du dương xưa nay
vốn gần gũi, dễ tiếp nhận, dễ quen thân đối với tâm hồn và trí tuệ của thé hệ

trẻ… thơ là nguồn suối mát phát triển những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp cũng
như nhiều năng khiếu quý báu khác về cảm xúc, tưởng tượng, ngôn ngữ… Tóm
2


lại khả năng giáo dục của thơ trong nhà trường cho các lứa tuổi, thật hết sức
phong phú và lớn lao” [9].
Bên cạnh đó, các tác giả cũng chỉ ra những hạn chế: “Tuy nhiên, hiện
nay ở trường phổ thông, ta thấy có hiện tượng các em học sinh còn thờ ơ, lãnh
đạm với thơ. Chúng ta thường hay băn khoăn về phương pháp dạy thơ, nghĩa
là băn khoăn tìm con đường làm cho các em hiểu thơ và yêu thơ. Thầy giáo
phải hiểu thơ, yêu thơ mới làm cho học sinh hiểu và yêu thơ được” [9].
Từ đó tác giả đề cập đến phương pháp dạy học thơ: “Dạy thơ phải phục
tùng những phép tắc và phương pháp của việc dạy một TPVH. Giảng thơ chủ yếu
là giảng hình tượng thơ, qua hình thức để giảng nội dung, làm sống dậy hình
tượng với tất cả vẻ đẹp và chiều sâu của nó. Dạy học thơ là phải đọc diễn cảm và
học thuộc lòng và đặc biệt là ngâm thơ. Ngâm thơ là đọc thơ có yếu tố âm nhạc.
Đó là làn gió nâng đôi cánh thơ bay cao và bay xa trong đời sống" [9].
Xuất phát từ đặc trưng của thơ, thầy giáo phải biết hé ra cho học sinh
thấy thế giới tư tưởng, tình cảm, sống, chứa đựng trong hình tượng ngôn ngữ
lắng đọng và ngân vang của những bài thơ qua lời bình giảng.
2.2. GS. Lê Trí Viễn (Những bài giảng văn ở Đại học - NXB GD, H.1982)
thì cho rằng: “Giảng văn tốt cũng như dạy bất cứ môn gì tốt phải nhằm góp phần
đào tạo con người theo mục tiêu cải cách giáo dục với chức năng của mình. Hơn
bất kỳ môn học nào thì môn Ngữ văn có lợi thế để giáo dục tư tưởng, tình cảm,
giáo dục cái đẹp, đặc biệt là rèn luyện óc thông minh sáng tạo. Giảng văn là một
cơ hội có một không hai để rèn luyện cho HS óc thông minh sáng tạo ấy. Văn thơ
là sự sống đã đọng lại im lìm trong chữ nghĩa. Tìm hiểu và cảm thụ là dựng lại sự
sống ấy. Chỗ nào cũng là phát hiện, suy nghĩ, xúc cảm, chỗ nào cũng là vận dụng
óc thông minh để tái tạo, mà tái tạo là một hình thái sáng tạo” [34, tr.12].

Tác giả cũng cho rằng: đã dạy văn thơ hay là phải dạy được những cái
đó, nói rõ hơn, phải từng bước rèn luyện được cho HS những cái trên. Được
như vậy mới gọi là dạy văn, mới giáo dục được tư tưởng, tình cảm, đạo đức,

3


thẩm mỹ bằng văn thơ. Như vậy là dạy được cái hay, dạy hay là đạt yêu cầu tối
đa của giảng văn tốt.
Cũng theo GS. Lê Trí Viễn (Đến với bài thơ hay - NXB GD, H.2004),
“Cảm thụ văn học là hoạt động nhận thức thẩm mỹ có tính đặc thù. Nó vừa có tính
chủ quan vừa có tính khách quan. Nó là một hoạt động tích cực và sáng tạo của chủ
thể cảm thụ. Nó huy động nhiều năng lực bên trong của con người. Nó đặt yêu cầu
là phải đi tới sự cảm xúc hóa nội dung cảm thụ. Nó cũng đòi hỏi con người vượt
giới hạn của mình để thật sự đạt khoái cảm thẩm mỹ, vô tư” [35, tr.31].
GS cũng cho rằng, đối với người đọc thơ, quá trình từ tri giác ngôn ngữ,
vận dụng vốn sống để liên tưởng, tưởng tượng, cảm xúc, suy tưởng đến khái
quát lên vấn đề của cuộc sống từ tác phẩm là cần nhưng chưa đủ. Phát hiện ra
cái hay nằm ở chỗ nào, vì sao mà hay thì cần phải có một sự lóe sáng, một sự
bùng nổ trong tâm lý cảm thụ…
2.3. Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp THPT do Bộ
Giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 cũng đã nêu ra lý thuyết về dạy học
vượt trội được sử dụng trong giáo dục hiện nay đó là thuyết kiến tạo của J.
Bruner và định hướng thiết kế bài học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực
HS và tiến trình của việc dạy học theo thuyết kiến tạo.
Tư tưởng cốt lõi của thuyết kiến tạo là: con người kiến tạo những sự hiểu
biết và tri thức về thế giới thông qua trải nghiệm và phản ánh… Trong mô hình
kiến tạo, HS được tạo cơ hội để hoạt động trong tiến trình học tập của mình.
Giáo viên đóng vai trò như là người cố vấn, giúp HS phát triển và đánh giá

những hiểu biết về việc học tập của các em, một công việc lớn nhất của GV khi
vận dụng thuyết kiến tạo vào dạy học là biết cách “hỏi những câu hỏi tốt”.
Tiến trình của dạy học kiến tạo bao gồm 3 bước:
Bước 1: Làm bộc lộ quan niệm của HS
Bước 2: Tổ chức điều khiển HS thảo luận
Bước 3: Tổ chức điều khiển HS vận dụng kiến thức

4


Theo tinh thần trên, tài liệu cũng đưa ra việc thiết kế bài học trong tài
liệu hướng dẫn theo mô hình trường học mới VNEN. Theo mô hình VNEN,
thiết kế bài học được biên soạn theo các chủ đề, tổ chức hoạt động cho HS theo
5 bước, bao gồm:
Bước 1: Hoạt động trải nghiệm
Bước 2: Hoạt động hình thành kiến thức mới
Bước 3: Hoạt động thực hành
Bước 4: Hoạt động ứng dụng
Bước 5: Hoạt động bổ sung
Trong mỗi chủ đề, các đơn vị kiến thức có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau theo một hệ thống gồm các hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm; hoạt
động của GV và gia đình. Mỗi hoạt động trong tiến trình học tập được xây
dựng với mục tiêu, nội dung và cách thức cụ thể.
Định hướng thiết kế bài học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực cho
HS cấp THPT trên là một hướng đi mới. Tham khảo định hướng này là một việc
làm cần thiết để đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THPT hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Phát hiện những khả năng tác động của các tác phẩm thơ đến cảm xúc
thẩm mỹ của người đọc. Từ đó khơi dậy năng lực cảm thụ thẩm mỹ của HS.
Phát hiện những khó khăn, lúng túng của giáo viên và học sinh khi dạy

học các tác phẩm thơ trong SGK Ngữ văn 12 theo hướng phát triển năng lực
cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh.
Trên cơ sở đó đề xuất phương án dạy học cho từng văn bản thơ trong
SGK Ngữ văn lớp 12 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho
học sinh.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Phương pháp dạy học các văn bản thơ trong SGK Ngữ văn
12 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh.

5


Phạm vi nghiên cứu: 05 văn bản thơ trong SGK Ngữ văn 12, bao gồm:
1. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.
2. Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu.
3. Đoạn trích “Đất Nước” (Trích Trường ca Mặt đường khát vọng) của
Nguyễn Khoa Điềm.
4. Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh.
5. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của Thanh Thảo.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài có 3 nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu vấn đề trên bình diện lý thuyết:
+ Khái niệm năng lực, năng lực cảm thụ thẩm mỹ
+ Vấn đề dạy các văn bản thơ theo hướng phát triển năng lực cảm thụ
thẩm mỹ.
+ Vấn đề đặc điểm thơ Việt Nam đương đại.
- Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn:
+ Khảo sát đặc điểm các văn bản thơ SGK Ngữ văn 12.
+ Khảo sát năng lực cảm thụ thẩm mỹ của học sinh đối với các văn bản
thơ SGK Ngữ văn 12.

+ Khảo sát thực trạng dạy - học của Giáo viên với các văn bản thơ trong
SGK Ngữ văn 12.
- Thực nghiệm sư phạm gồm:
+ Thiết kế bài học
+ Dạy học thực nghiệm đối chứng.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các vấn đề lí luận.
- So sánh, đối chiếu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra, khảo sát, thống kê, phân loại
- Thực nghiệm sư phạm.

6


7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.
- Chương 2: Định hướng dạy học các văn bản thơ hiện đại trong SGK
Ngữ văn 12 theo hướng phát triển năng lực học sinh.
- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

7


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Khái niệm năng lực và năng lực cảm thụ thẩm mỹ
1.1.1.1. Khái niệm “năng lực”
“Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng, 1998) có giải
thích: Năng lực là “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả
năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” [26].
Trong Tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định
hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành
năm 2014 thì “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có
tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân…
nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh
nhất định” [40, tr.49]. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố
(phẩm chất của người lao động, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua
các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực
bao gồm các yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi công dân đều cần phải
có, đó là các năng lực chung, cốt lõi”. Định hướng chương trình giáo dục phổ
thông (GDPT) sau năm 2015 đã xác định một số năng lực những năng lực cốt
lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có như:
- Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm:
+ Năng lực tự học;
+ Năng lực giải quyết vấn đề;
+ Năng lực sáng tạo;
+ Năng lực quản lí bản thân.
8


- Năng lực xã hội, bao gồm:
+ Năng lực giao tiếp;
+ Năng lực hợp tác.
- Năng lực công cụ, bao gồm:

+ Năng lực tính toán;
+ Năng lực sử dụng ngôn ngữ;
+ Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (ITC).
Như vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn năng lực là khả năng vận dụng tất
cả những yếu tố chủ quan (mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học
tập) để giải quyết các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống.
Các năng lực mà môn học Ngữ văn hướng đến bao gồm:
. Năng lực sáng tạo
. Năng lực giải quyết vấn đề
. Năng lực hợp tác
. Năng lực tự quản bản thân
. Năng lực giao tiếp tiếng Việt
. Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ
Trong cuốn Lý luận dạy học hiện đại, các nhà nghiên cứu Bernd Meier và
Nguyễn Văn Cường cho rằng: Chương trình dạy học định hướng năng lực
không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả
đầu ra mong muốn của quá trình đào tạo, trên cơ sở đó đưa ra những hướng dẫn
chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy
học nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu dạy học, tức là đạt được kết quả đầu ra
mong muốn. Trong chương trình định hướng năng lực, mục tiêu học tập - tức là
kết quả học tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các năng
lực. Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh
giá được [4]. Với nội dung, yêu cầu và cách vận hành như vậy, chương trình
giáo dục định hướng năng lực có ưu thế trong việc quản lý chất lượng sản phẩm
đào tạo ở đầu ra - tức năng lực vận dụng vào thực tiễn của HS.
9


Các tác giả của Từ điển giáo dục thì quan niệm “Năng lực là khả năng
được hình thành hoặc phát triển, cho phép con người đạt được thành công

trong một hoạt động thể lực, trí tuệ hoặc nghề nghiệp” [26].
Nhìn chung các quan niệm về năng lực đều giống nhau ở một điểm là khi
nói tới năng lực là nói tới kiến thức, kỹ năng và khả năng huy động các kiến
thức, kỹ năng đó để giải quyết thành công các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Một
người được xem là có năng lực phải là người có khả năng giải quyết thành công
các vấn đề trong cuộc sống thuộc lĩnh vực đang nói tới.
Trong bài viết Phác thảo chương trình Ngữ văn theo định hướng phát
triển năng lực, PGS.TS Bùi Mạnh Hùng cho rằng: "Môn Ngữ văn giúp HS phát
triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục
tiêu giáo dục của nhà trường Phổ thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực
tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học là những năng lực
tổng quát, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng
lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những năng lực đặc thù, trong
đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết sức quan
trọng trong học tập của học sinh và công việc của các em trong tương lai, giúp
các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp HS phát
triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục
tình cảm và nhân cách cho người học" [14].
Như vậy, muốn đánh giá một năng lực nào đó cần đánh giá hai vấn đề:
Một là kiến thức, kỹ năng; hai là khả năng sử dụng các kiến thức, kỹ năng đó
để giải quyết các vấn đề có liên quan đến cuộc sống.
1.1.1.2. Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ
Đây là một trong các năng lực mà môn học Ngữ văn hướng đến. Năng lực
cảm thụ thẩm mỹ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc nhận ra được
các giá trị thẩm mỹ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống, thông qua
những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó biết hướng những
10


suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. Như vậy, năng lực cảm thụ

(hay năng lực trí tuệ xúc cảm) thường dùng với hàm nghĩa nói về các chỉ số
cảm xúc của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng tự nhận thức để xác định,
đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của người khác, của các
nhóm cảm xúc.
Năng lực cảm xúc thẩm mỹ được thể hiện ở một số nội dung sau:
- Nhận thức được các cảm xúc của bản thân
Ý thức về bản thân - tức là có thể nhận biết các xúc cảm của mình - là cơ sở
của năng lực cảm xúc. Năng lực này có ý nghĩa căn bản đối với sự hiểu biết bản
thân và trực giác tâm lý. Những người không tự biết về những gì mình cảm nhận
sẽ thường phó mặc cho tình cảm của mình. Trái lại, những người biết làm cho
cuộc sống của mình tốt hơn sẽ thấy rõ được những hậu quả sâu xa trong các quyết
định của mình, dù đó là lựa chọn người bạn đời hay sự lựa chọn nghề nghiệp.
- Làm chủ các cảm xúc của bản thân
Đó là năng lực làm cho những tình cảm của mình thích nghi với mỗi hoàn
cảnh, điều này phụ thuộc vào sự tự ý thức về bản thân. Năng lực này giúp mỗi
người biết cách tự trấn an tinh thần của mình trong những tình huống căng
thẳng hoặc những thử thách của cuộc sống, thoát khỏi sự chi phối của lo âu,
buồn rầu và giận dữ, cũng như thấy được hậu quả tiêu cực của tình trạng tiêu
cực không đạt tới điều đó. Những người có năng lực làm chủ bản thân có thể
chấp nhận và vượt qua được một cách tốt nhất những thất bại và những sự trái
ý mà cuộc đời dành cho mình, biết ứng xử hết sức có hiệu quả trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống, đồng thời biết thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân phù
hợp trong những hoàn cảnh giao tiếp.
- Nhận biết các cảm xúc của người khác và những biểu hiện của cuộc
sống từ phương diện thẩm mỹ.
Sự đồng cảm, nhạy cảm trước những trạng thái cảm xúc của người khác
xuất phát từ ý thức về bản thân là yếu tố căn bản tạo nên mối quan hệ tương tác
11



giữa cá nhân và những người xung quanh. Những người đồng cảm biết tiếp
nhận hết sức nhanh nhạy những tín hiệu mà qua đó cho thấy nhu cầu và mong
muốn của người khác, cũng như sự nhạy cảm và sự tương giao giữa cảm xúc
của cá nhân với những biến thái rất tinh tế của các hình ảnh cuộc sống. Đó là
những người biết “Thương người như thể thương thân”, luôn biết “Mở lòng
đón lấy những vang động của cuộc sống”, biết thể hiện những tình cảm, thái độ
phù hợp trước những biểu hiện của cái đẹp, cái thiện cũng như cái ác, cái xấu
trong cuộc sống.
- Làm chủ những liên hệ, những giá trị của con người và cuộc sống
Luôn biết giữ những liên hệ tốt với những người xung quanh, đó chính là
biết chủ động điều khiển các cảm xúc của mình. Những người biết làm cho
mình có được sự cảm mến của mọi người, biết lãnh đạo và định hướng một
cách có hiệu quả những mối liên hệ của mình với người khác đều có sự làm chủ
cảm xúc ở mức cao nhất. Đó cũng là những người biết nhận thức được những
giá trị sống từ phương diện thẩm mỹ, biết hành động vì những gì tốt đẹp trong
môi trường sống của mình. Đây chính là yếu tố quan trọng tạo nên thành công
của mỗi người trong cuộc sống.
Năng lực cảm thụ thẩm mỹ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn
với tư duy hình tượng trong việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc
với tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng
của tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của
mình. Năng lực cảm xúc, như trên đã nói, được thể hiện ở nhiều khía cạnh;
trong quá trình người học tiếp nhận tác phẩm văn chương năng lực cảm xúc
được thể hiện ở những phương diện sau:
- Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những
hình ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người,
cuộc sống qua ngôn ngữ nghệ thuật.

12



- Nhận ra được những giá trị thẩm mỹ được thể hiện trong tác phẩm văn
học: cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi, cái cao cả, cái thấp hèn,… từ đó cảm nhận
được những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện
qua tác phẩm.
- Cảm hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác phẩm văn
học; hình thành và nâng cao nhận thức và xúc cảm thẩm mỹ của cá nhân; biết cảm
nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống; có những
hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội; hình thành thế giới quan
thẩm mỹ cho bản thân qua việc tiếp nhận tác phẩm văn chương.
Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, HS sẽ biết rung động trước cái
đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những
hiện tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho
cuộc sống tốt đẹp hơn.
Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát
triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn
luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Trong quá trình hướng dẫn
HS tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn còn giúp HS từng bước hình thành và
nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể là năng lực tiếp nhận văn
bản (gồm kỹ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kỹ năng nói
và viết).
1.1.2. Vấn đề phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi dạy học các văn bản thơ
Từ điển Văn học (bộ mới) (NXB Thế giới. 1998), tác giả Lại Nguyên Ân
cho rằng: Tiếp nhận thẩm mỹ là một dạng thức hoạt động thẩm mỹ, được thực
hiện ở dạng tiếp nhận (thưởng thức, cảm thụ) tác phẩm nghệ thuật với tư cách
một giá trị thẩm mỹ. Tiếp nhận thẩm mỹ không phải là sự tái hiện giản đơn tác
phẩm nghệ thuật trong ý thức, mà là một quá trình phức tạp: quá trình cùng
tham dự và cùng sáng tạo của chủ thể. Khác với hoạt động thẩm mỹ của nghệ
sỹ - người sáng tạo tác phẩm nghệ thuật, tiếp nhận thẩm mỹ không mang tính
13



công nghệ và nó vận hành theo hướng ngược: từ việc tiếp nhận kết quả (tác
phẩm nghệ thuật nói chung) đi đến tiếp nhận các ý tưởng chứa đựng trong đó.
Giữa tác phẩm và chủ thể tiếp nhận bao giờ cũng có một sự gián cách thẩm mỹ:
phải ý thức rằng trước mắt chỉ là sự miêu tả thực tại chứ không phải là bản thân
thực tại. Để vượt qua sự gián cách, ở chủ thể tiếp nhận phải có một trạng thái
tâm lý nhất định (tâm thế thẩm mỹ) để vừa cảm nhận tác phẩm nghệ thuật như
có thể là thực tại, đồng thời vừa không quên tính ước lệ của nó. Tiếp nhận thẩm
mỹ, vì vậy, mang tính hai chiều (tiếng Pháp: ambivalent): chủ thể tiếp nhận vừa
tin vừa không tin vào tính thực tại của cái được miêu tả [1].
Tiếp nhận thẩm mỹ được xác định phần lớn bởi tác phẩm nghệ thuật: tác
phẩm không chỉ là nguồn thông tin nghệ thuật chủ yếu, mà còn đề ra phương
thức “đọc”, “dịch” nó sang bình diện cảm xúc - hình tượng của chủ thể.
Tính phức tạp của tiếp nhận thẩm mỹ là ở chỗ các ý tưởng của tác phẩm
không thể dịch sang bình diện lời nói, khái niệm (theo lối nói hình ảnh của
Hêminguê, nó giống như 7/8 phần của tảng băng trôi bị chìm dưới nước). Đặc
tính trên là căn cứ để chủ nghĩa tượng trưng xây dựng quan niệm của họ, theo
đó tư tưởng thẩm mỹ bao giờ cũng tiềm ẩn so với ý thức thường ngày. Tuy
nhiên, ở văn bản nghệ thuật, ở hệ thống các phương tiện biểu hiện bao giờ cũng
có khóa mã cho phép giải ra các hàm nghĩa kín đáo của nó. Việc thâm nhập vào
hàm nghĩa của tác phẩm nghệ thuật còn phụ thuộc vào năng lực thẩm mỹ của
chủ thể, vào trình độ phát triển về tình cảm thẩm mỹ ở chủ thể tiếp nhận.
Tính chọn lọc và chiều sâu của tiếp nhận thẩm mỹ bị quy định bởi trạng
thái văn hóa xã hội, bởi tiềm năng văn hóa chung của cá nhân.
Sản phẩm của tiếp nhận thẩm mỹ là một hình tượng và một hàm nghĩa
“thứ sinh”, có thể trùng hoặc không trùng với hình tượng và tư tưởng mà tác
giả trù định.
Có thể phân chia một số điểm chủ chốt trong quá trình tiếp nhận thẩm mỹ:
- Tâm thế hướng vào tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật;

- Cảm xúc sơ bộ từ việc tiếp xúc với nó;

14


- Vui mừng nhận ra ở tác phẩm cái hình tượng chờ đợi, phát triển nó trên
cơ sở liên tưởng với các ý niệm hợp với kinh nghiệm sống và kinh nghiệm văn
hóa của chủ thể.
Do chỗ hình tượng nghệ thuật không bao giờ hoàn toàn phù hợp với sự
chờ đợi của chủ thể, cho nên sự nhận ra bao giờ cũng mang dạng thức một trò
chơi độc đáo: chiếm lĩnh hình tượng nghệ thuật của “kẻ khác” và truyền xúc
cảm của mình vào hình tượng ấy.
Trong trường hợp thông tin nghệ thuật vượt quá sự chờ đợi của chủ thể,
khi đó hoặc là sự tiếp nhận thẩm mỹ bị phá vỡ (chủ thể đánh giá tác phẩm là kỳ
quặc, lố lăng, phi lý, kém cỏi), hoặc là trên cơ sở tăng cường óc tưởng tượng, ở
chủ thể tiếp nhận sẽ hình thành một hình tượng - cảm xúc mới, trong đó tư
tưởng mà nghệ sĩ gửi vào tác phẩm sẽ được khám phá như mới nảy sinh.
Điểm cao nhất của tiếp nhận thẩm mỹ đi kèm với một cảm xúc thẩm mỹ
sâu sắc, có thể gọi là thanh lọc (catharsis), theo thuật ngữ Arixtôt. Hoàn tất quá
trình tiếp nhận thẩm mỹ là phán đoán thẩm mỹ.
Tiếp nhận thẩm mỹ không bao giờ có dạng khai triển; nó có thể dừng lại ở
cảm xúc sơ bộ hoặc ở mức nhận ra những hình tượng quen thuộc, nhưng có thể
đạt tới một độ căng cao, khi chủ thể cảm nhận niềm vui chẳng những do cái
hàm nghĩa được anh ta khám phá, mà còn do bản thân hành vi khám phá ấy.
Với lý thuyết tiếp nhận thẩm mỹ như thế, việc phát triển năng lực cảm thụ
thẩm mỹ trong dạy học Ngữ văn nói chung, dạy học các văn bản thơ nói riêng
là rất quan trọng. Đó chính là chìa khóa để mở tâm hồn, mang đến sự đồng điệu
và đưa học sinh đến với thế giới của Chân - Thiện - Mỹ, đúng như mục tiêu của
môn học.
Hơn nữa, thơ lại là một thể loại hội tụ của cảm xúc, sự thăng hoa trong

sáng tạo của người nghệ sĩ, phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi dạy học
các văn bản thơ chính là đưa người học vào thế giới tâm hồn của nhà thơ, để
cảm nhận những không gian của cái đẹp, đắm mình trong cảm xúc…

15


Trong xu thế mới của đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục, chúng ta
đang mở ra hướng lấy người học là trung tâm, phát triển các năng lực của
người học trong lĩnh hội tri thức, việc phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho
học sinh khi dạy học các văn bản thơ là hướng đi thiết thực dù còn nhiều trăn
trở, khó khăn. Muốn phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ trong dạy học các
văn bản thơ trong SGK Ngữ văn 12, trước hết phải hiểu đặc điểm của thơ Việt
Nam giai đoạn từ 1945 đến nay.
1.1.3. Đặc điểm thơ Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến nay
Từ sau cách mạng tháng Tám 1945, lịch sử dân tộc đã bước sang trang
mới, mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền văn học
cũng có sự chuyển mình kì diệu. Thơ ca tràn đầy cảm hứng lãng mạn công dân,
lòng yêu nước là tình cảm bao trùm và sâu rộng nhất, nó gắn bó mọi con người
Việt Nam trong khối thống nhất của tình đồng bào đã có từ ngàn xưa, nay lại
càng thêm thắm thiết trong cách mạng và kháng chiến. Trong thơ, tình cảm ấy
được thể hiện cụ thể thành muôn nghìn trạng thái. Lòng yêu nước cũng đi liền
với lòng căm giặc cướp nước, ý chí chiến đấu và chủ nghĩa anh hùng trong
cuộc kháng chiến, tinh thần lạc quan vượt lên mọi gian khổ, hi sinh. Lòng yêu
nước còn được thể hiện bằng lòng tự hào dân tộc và niềm tin vào chiến thắng.
Kế tiếp tinh thần ấy trong lịch sử, ở thời đại cách mạng giải phóng cho quần
chúng thì lòng tự hào dân tộc luôn gắn liền với ý thức làm chủ của nhân dân.
Đặc điểm thơ ca từ 1945 đến 1975
Thơ hướng vào thể hiện hình ảnh quần chúng nhân dân qua hình tượng cái
tôi trữ tình quần chúng và các nhân vật trữ tình. Cách mạng không chỉ giải

phóng cho đông đảo quần chúng nhân dân mà phải dựa hẳn vào lực lượng quần
chúng, phát huy sức mạnh vĩ đại và tiềm năng cách mạng của quần chúng để
thực hiện được sự nghiệp lớn lao.
Thơ kháng chiến đã tạo nên sự thay đổi về quan niệm thẩm mỹ và chất
liệu thi ca. Cách mạng và kháng chiến đưa thơ trở về hiện thực đời sống của đất
16


nước và nhân dân, giúp các nhà thơ tìm thấy chất thơ trong cuộc sống hàng
ngày, trong sinh hoạt, lao động và đấu tranh của quần chúng. Nhà thơ của thời
đại mới trước hết cũng là một công dân, một cán bộ, hay chiến sĩ, sống với
cuộc đời thực, với mọi gian khổ, buồn vui, lo lắng, hi vọng của con người
kháng chiến, cùng với đông đảo mọi người.
Về hình thức thể loại thơ kháng chiến sử dụng phổ biến các thể thơ có
nguồn gốc dân gian, dân tộc, đồng thời phát triển thể thơ tự do và lối thơ hợp
thể. Theo hướng dân tộc và đại chúng, thơ đã tìm về với các thể thơ quen thuộc
của dân gian và dân tộc, như lục bát, bốn tiếng, năm tiếng. Lục bát trong giai
đoạn này nghiêng về phía ca dao hơn là kế tục truyền thống lục bát cổ điển hay
Thơ Mới. Tố Hữu là nhà thơ vận dụng thành thục thể thơ lục bát ca dao mà
đỉnh cao là bài thơ Việt Bắc.
Cùng với sự biến đổi căn bản về nội dung tư tưởng, cảm xúc thì ngôn ngữ
thơ kháng chiến tất yếu cũng có những biến đổi mạnh mẽ so với ngôn ngữ thơ
thời kì trước cách mạng. Xu hướng chung là đưa ngôn ngữ thơ phát triển về
phía hiện thực đời sống, trước hết là đời sống lao động, đấu tranh của quần
chúng nhân dân, về gắn với tiếng nói hàng ngày, tự nhiên, bình dị, sinh động.
Cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước để giải phóng miền Nam, bảo vệ
miền Bắc kéo dài hơn mười năm với nhiều giai đoạn và diễn biến phức tạp, với
nhũng hi sinh to lớn và thắng lợi trọn vẹn, xứng đáng là một trong những cuộc
kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta. Như
một lẽ tất yếu trong truyền thống văn học dân tộc, thơ đã trở thành vũ khí tinh

thần, thành sức mạnh tham gia vào cuộc chiến đấu, gắn bó với vận mệnh của
dân tộc, nhân dân. Chủ đề kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước dường
như là sự vận động tự nhiên, liên tục của nền thơ. Giặc Mỹ càn phá miền Bắc
đã chạm đến tình cảm sâu xa và thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, làm
bừng dậy sức mạnh lớn lao của lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Những tình
cảm lớn lao ấy đã trở thành nguồn mạch dồi dào cho cảm hứng thơ ca.
17


×