BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần giáo
dục để thế hệ trẻ trở thành những con người“...năng động, sáng tạo, có năng
lực giải quyết vấn đề”. Để đáp ứng sự phát triển về trình độ nhận thức của học
sinh đòi hỏi giáo viên phải tiếp nhận phương pháp dạy học dựa trên hoạt động
dạy và học. Vì thế cần có sự quan tâm đồng bộ cả phương pháp dạy và
phương pháp học mới tạo được sự chuyển biến hướng tới việc nâng cao chất
lượng.
Mỗi môn học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ,
cung cấp cho các em những tri thức cần thiết để phục vụ cho cuộc sống, học
tập và sinh hoạt sao cho tốt nhất và có hiệu quả cao.
Môn Tiếng Việt rất quan trọng đối với học sinh cấp bậc tiểu học nói
chung, ở lớp tôi nói riêng. Nếu học tốt bộ môn này nó sẽ giúp các em học tốt
hơn các phân môn của bộ môn Tiếng Việt như: Nó sẽ giúp thêm cho phân
môn Tập làm văn, vế câu sẽ chau chuốt hơn, diễn đạt bằng ngôn ngữ rõ ràng
mạch lạc, biết sàng lọc để đưa hình ảnh hay vào trong bài. Nó còn giúp cho
phân môn chính tả như viết đúng, ít lỗi hơn. Trong phân môn kể chuyện, các
em sẽ biết cách kể hay, hấp dẫn người nghe hơn. Học tốt bộ môn này nó còn
giúp cho việc học và nắm bắt kiến thức các môn học khác một cách dễ dàng
hơn. Trong thời đại hiện nay - thời đại của sự bùng nổ công nghệ thông tin, đất
nước ta đang trên đà hội nhập và phát triển thì việc dạy và học môn học này
càng trở nên cần thiết. Học tốt môn Tiếng Việt sẽ bồi dưỡng cho các em học
sinh tình yêu quê hương đất nước, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng
Việt và bản sắc văn hoá dân tộc..
Trong nhiều năm qua, mặc dù đã đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt
nhưng một số giáo viên vẫn còn nặng tâm lý đây là môn học chính nên trong
quá trình giảng dạy họ rất chú trọng việc truyền thụ kiến thức với mục đích
giúp học sinh học tốt môn này. Việc sử dụng trò chơi học tập đối với một số
giáo viên còn là hình thức hoặc có sử dụng trò chơi thì cũng ở mức gượng ép,
miễn cưỡng. Mặt khác, còn một số giáo viên khi sử dụng các trò chơi học tập
thì chưa chọn lọc kỹ, không có tác dụng thiết thực phục vụ mục tiêu của bài
học nên việc tổ chức trò chơi chưa đạt hiệu quả. Thực tế cho thấy, vẫn còn
một số đối tượng học sinh thụ động, tự ti, chưa mạnh dạn tham gia vào các
hoạt động học tập.
Trước thực trạng đó, tôi thiết nghĩ, mình cần phải thay đổi một cách thức
dạy học mới sao cho học sinh hứng thú, say mê và tích cực chủ động hơn khi
học Tiếng Việt. Qua đó, những kĩ năng giao tiếp ở các em sẽ ngày càng hoàn
thiện và phát triển. Và việc vận dụng trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt là
1
hết sức cần thiết.
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi nhận thấy nếu kết hợp sử dụng
hình thức trò chơi trong học tập môn Tiếng Việt sẽ mang lại hiệu quả cao.
Trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục. Vậy
làm thế nào để tổ chức được các trò chơi học tập thật sự hiệu quả trong những
giờ Tiếng Việt. Đó là điều tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi nên tôi đã mạnh dạn chọn
đề tài: “Phương pháp sử dụng trò chơi trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 4,
5 ”.
2. Tên sáng kiến
“Phương pháp sử dụng trò chơi trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 4, 5 ”.
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Nguyễn Thị A
- Địa chỉ : Trường Tiểu học A, huyện A, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại:
E_mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
- Giáo viên: Nguyễn Thị A
- Địa chỉ : Trường Tiểu học A, huyện A, tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Môn Tiếng Việt lớp 4, 5
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Tháng 9 năm 2013.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
*Về nội dung của sáng kiến
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG
1. Cơ sở lí luận.
Hiện tại, đổi mới giáo dục là một vấn đề không còn xa lạ. Nó đã được
khởi động rất nhiều năm trước đây, từ cấp Mầm non đến cấp Đại học và sau
Đại học. Mục tiêu của những cải cách đó là nhằm làm cho chất lượng giáo dục
đào tạo ngày càng nâng cao, đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của xã
hội từ đó đạt được hiệu quả kinh tế. Phong cách giảng giải, thầy đọc trò chép
trong thời gian dài trước đó đã không còn phù hợp với nhiều ngành học, môn
học khác nhau. Sự bùng nổ của internet, kéo theo sự chia sẻ thông tin mạnh
mẽ từ cộng đồng mạng khiến những kiến thức mà người thầy nắm giữ không
còn là độc tôn. Thực tế đòi hỏi các thầy giáo, cô giáo cần phải không ngừng
tìm tòi, tích lũy kinh nghiệm, sáng tạo ra những ý tưởng hay, để từ đó có thể
tạo ra một giờ giảng sinh động, ấn tượng và chuyển tải kiến thức đến học sinh
2
một cách hiệu quả nhất. Đặc biệt với học sinh Tiểu học vui chơi là một hoạt
động không thể thiếu được. Bởi lẽ, nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của
lứa tuổi này. Vui chơi không những giúp cho các em được rèn luyện thể lực,
rèn luyện các giác quan mà nó còn tạo cơ hội cho các em được giao lưu với
nhau, được hợp tác với bạn bè, đồng đội trong nhóm, trong tổ....thông qua đó,
các em sẽ dần được hoàn thiện những kĩ năng giao tiếp.Với các em, chúng ta
biết rằng mỗi môn học đều có vị trí, vai trò quan trọng riêng. Xong để học
được các môn học đó thì trước tiên chúng ta phải học tiếng mẹ đẻ đó là Tiếng
Việt. Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người Việt Nam, nó
phản ánh tư duy của con người. Đồng thời môn Tiếng Việt còn góp phần lớn
giúp học sinh phát triển toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mỹ. Do vậy môn Tiếng
Việt trong trường Tiểu học chiếm một khối lượng kiến thức lớn nhất và thời
lượng nhiều nhất so với các môn học khác. Môn Tiếng Việt bao gồm rất nhiều
phân môn khác nhau như: tập đọc, luyện từ và câu, chính tả, tập làm văn. Mỗi
một phân môn giáo viên cần phải sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
để học sinh có thể tiếp thu kiến thức một cách chủ động.
“Trò chơi học tập” là sự lựa chọn của rất nhiều thầy cô trước áp lực thay
đổi phương pháp dạy học để thu hút học sinh và đạt mục tiêu bài giảng. Nó là
chiếc cầu nối đắc lực, hữu hiệu và tự nhiên giữa giáo viên và học sinh. Thông
qua trò chơi, ý nghĩa của nội dung bài học được truyền tải đến người nghe một
cách nhẹ nhàng nhưng đầy sâu sắc dễ hiểu. Thông thường con người chỉ nhớ:
10% những gì họ ĐỌC, 20% những gì họ NGHE, 30% những gì họ THẤY,
50% những gì họ NGHE VÀ THẤY, 80% những gì họ NÓI, 90% những gì họ
NÓI VÀ LÀM, tức là khi họ TỰ KHÁM PHÁ ( theo nghiên cứu của các nhà
khoa học ). Vì vậy, nếu người thầy tạo được cảm xúc, sự ham thích thì động
cơ và thay đổi của sinh viên sẽ được kích thích và thúc đẩy. Trò chơi không
những giúp sinh viên gần gũi, cởi mở và tạo sự chú ý của sinh viên đối với nội
dung bài giảng, mà còn khuyến khích sinh viên tiếp thu bài một cách tự nhiên,
không gượng ép và khô cứng. Từ đó, nó thúc đẩy sinh viên hành động, áp
dụng bài học vào thực tiễn.
2. Cơ sở thực tiễn
Học sinh Tiểu học có trí thông minh khá nhạy bén sắc sảo, có óc tưởng
tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy nhưng rất dễ
phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng quá tải . Hơn nữa học sinh Tiểu học
không thể ngồi quá lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó nhiều thời
gian vì thế giáo viên có thể thay đổi hoạt động học của các em trong giờ học,
cho các em thảo luận, làm bài tập thông qua trò chơi.
Lứa tuổi tiểu học là lứa tuổi hồn nhiên, vô tư, hiếu động. Cùng với học,
chơi là nhu cầu không thể thiếu được của các em. Để làm sao cho giờ học vui,
thu hút các em, giúp cho các em“chơi mà học - vui mà học” ? Đây là vấn đề
mà tôi cần đưa ra để giải quyết.
3
Vận dụng trò chơi học tập vào môn Tiếng Việt giúp cho học sinh nắm được
kiến thức. Trò chơi học tập còn có mục đích giúp cho học sinh mạnh dạn tham
gia (kể cả học sinh yếu). Trong quá tham gia trò chơi giúp học sinh rèn luyện
được kĩ năng giao tiếp, giao tiếp với các đối tượng: HS với HS; HS với GV.
Qua thực tế, hoạt động học tập được tổ chức với hình thức trò chơi sẽ được
học sinh hưởng ứng tích cực.
Trò chơi học tập sẽ được học sinh tích cực tham gia hơn nữa nếu giáo viên
tích cực sáng tạo thêm các ĐDDH phục vụ cho trò chơi: như thẻ từ, thẻ hình,
thẻ màu, thẻ trống (Thẻ trống ép nhựa dùng bút dạ để viết .
3. Thực trạng Tiếng Việt của học sinh lớp 4, 5 hiện nay
Đầu năm học 2013 – 2014, tôi được nhà trường phân công dạy lớp 4C và tiếp
tục dạy đuổi lên lớp 5C trong năm học 2014 - 2015. Qua quá trình giảng dạy
và qua việc dự giờ, để học tập chuyên môn ở các đồng nghiệp. Tôi nhận thấy
việc dạy và học Tiếng Việt lớp 4, 5 còn gặp một số khó khăn:
3.1. Về phía giáo viên.
- Gv có thói quen đọc - chép, thuyết giảng, lệ thuộc sách giáo khoa. Căn bệnh
cố hữu là chây ỳ, ngại thay đổi, thậm chí lười biếng khiến nhiều GV trong đó
có cả những GV lâu năm, đã thuộc làu từng nội dung kiến thức trong sách
giáo khoa nên khi giảng thường đọc luôn cho học sinh (HS) chép lại các ý
chính. Điều này tạo ra thói quen thụ động của trò. Thầy nói sao, trò ghi vậy, và
chỉ biết học thuộc lòng.
- Từ lối quen thuyết giảng, không ít người chỉ “chạy” theo khối lượng kiến
thức có trong sách giáo khoa, không quan tâm đến việc tìm ra những biện
pháp tác động đến quá trình nhận thức của học sinh.
- Một số giáo viên vẫn còn nặng tâm lý đây là môn học chính nên trong quá
trình giảng dạy họ rất chú trọng việc truyền thụ kiến thức với mục đích giúp
học sinh học tốt môn này. Việc sử dụng trò chơi học tập đối với một số giáo
viên còn là hình thức hoặc có sử dụng trò chơi thì cũng ở mức gượng ép, miễn
cưỡng. Giáo viên còn ngại khó trong việc sáng tạo các đồ dùng học tập.
- Mặt khác, còn một số giáo viên khi sử dụng các trò chơi học tập thì chưa
chọn lọc kỹ, không có tác dụng thiết thực phục vụ mục tiêu của bài học nên
việc tổ chức trò chơi chưa đạt hiệu quả.
3.2. Về phía học sinh
- Một số học sinh còn thụ động, tự ti, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt
động học tập.
- Hầu như học sinh không hứng thú khi học môn Tiếng Việt.
Chính vì những khó khăn và hạn chế nêu trên nên chất lượng Tiếng Việt học
sinh lớp tôi chưa đạt kết quả như mong muốn.
4
Qua khảo sát chất lượng làm văn của học sinh lớp tôi đầu năm lớp 4C,
năm học 2013- 2014, tôi đã thu được kết quả như sau với tổng số học sinh của
lớp là 38 học sinh:
Kết quả khảo sát đầu năm lớp 4C. Năm học 2013 -2014
Điểm
9-10
7-8
5-6
3- 4
1-2
Kết quả
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
4
10,5
9
23,7
12
31,6
11
28,9
2
5,3
Sau một năm vận dụng phương pháp sử dụng trò chơi trong dạy – học
trong môn Tiếng Việt .Tôi đã nhận được kết quả môn Tiếng Việt lớp tôi đã
được nâng cao hơn và nhà trường đã áp dụng cho cả khối 4 – 5 trong năm học
2014 - 2015.
Kết quả khảo sát đầu năm lớp 5C và các lớp khác trong khối 4 - 5
Năm học 2014 -2015
Điểm
Lớp
SS
5C
38
5A
5B
4A
4B
39
34
40
38
9-10
7-8
5-6
3-4
1-2
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9
23,7
15
39,5
7
18,4
6
15,7
1
2,7
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
13
33,3
17
43,5
7
17,9
2
5,3
0
0
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
10
28,5
12
34,2
8
22,8
4
14,5
0
0
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8
20
25
62,5
5
12,5
2
5
0
0
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6
15,7
20
52,6
7
18,4
5
13,3
0
0
5
4C
35
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
4
11,4
19
54,2
8
22,8
3
8,5
1
3,1
Lớp
Đây cũng chính là một thực trạng khiến tôi luôn băn khoăn, trăn trở về việc
Tiếng Việt của học sinh lớp 4, 5 và của cả những năm học trước. Trước thực
trạng đó, tôi thiết nghĩ, mình cần phải thay đối một cách thức dạy học mới sao
cho học sinh hứng thú, say mê và tích cực chủ động hơn khi học Tiếng Việt.
Qua đó, những kĩ năng giao tiếp ở các em sẽ ngày càng hoàn thiện và phát
triển. Và việc vận dụng trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt là hết sức cần
thiết. Tôi đã áp dụng những trò chơi này vào việc dạy Tiếng Việt cho học sinh
lớp 4C trường Tiểu học mình đang dạy trong năm học 2013- 2014 và tiếp tục
đưa vào áp dụng cho cả khối 4 - 5 trong năm học 2014 - 2015. Thật đáng
mừng qua hai năm áp dụng chất lượng môn Tiếng Việt của học sinh khối 4 - 5
trường tôi đã được nâng cao một cách rõ rệt.
CHƯƠNG II.
CÁC BIỆN PHÁP VẬN DỤNG VÀ THIẾT KẾ TRÒ CHƠI HỌC TẬP
TIẾNG VIỆT LỚP 5 ĐẠT HIỆU QUẢ.
Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi luôn thích thú những điều mới lạ. Vì
vậy để mỗi giờ học Tiếng Việt hấp dẫn, thu hút học sinh, đòi hỏi mỗi giáo viên
phải luôn tâm huyết, sáng tạo, kiên trì và bền bỉ trong việc vận dụng những trò
chơi học tập. Đối với bản thân tôi:
- Khi vận dụng các trò chơi học tập vào giảng dạy Tiếng Việt thì tôi luôn
nghiên cứu kĩ môn học, bài học, bài tập, xem bài học đó thì bài tập nào tổ
chức được trò chơi và dạng trò chơi nào là thích hợp. Đồng thời tôi tìm tòi,
học hỏi, học hỏi ở đồng nghiệp, ở các tài liệu tham khảo. Song song đó, tôi cố
gắng nắm bắt khả năng của từng học sinh để việc phân nhóm chơi cho phù
hợp.
- Khi vận dụng các trò chơi trong học tập Tiếng Việt, tôi luôn hoạch định trước
việc sử dụng những phương tiện nào để nâng cao hiệu quả của trò chơi, như:
+ Phương tiện theo nội dung trò chơi quy định (ví dụ: trang phục cho các
nhân vật sắm vai, … dùng trong phân môn Tập đọc, Kể chuyện… giúp học
sinh tái hiện lại nội dung câu chuyện hay nội dung bài đọc. Các thẻ: thẻ từ, thẻ
hình, thẻ màu, thẻ trống, …)
+ Phần thưởng cho đội thắng cuộc như bông hoa thưởng, tràng pháo tay, …
Đó chính là động lực để các em tham gia trò chơi nhiệt tình, năng động hơn.
Sau mỗi trò chơi, tôi thường đặt những câu hỏi gợi ý để học sinh rút ra nội
dung,
6
kĩ năng mà các em đã học được qua trò chơi. Đây chính là hoạt động “chơi
mà học, vui mà học”. Đồng thời giao cho học sinh tự nhận xét, đánh giá và
tổng kết trò chơi để phát huy tối đa khả năng của các em (giáo viên chỉ tháo
gỡ những vướng mắc của các em), giúp các em rèn luyện óc suy luận, kĩ năng
tư duy, kĩ năng giao tiếp. Từ đó các em sẽ trở nên tự tin, mạnh dạn hơn .
Qua tìm hiểu, nghiên cứu, bản thân tôi thường tổ chức vận dụng các trò
chơi học
tập vào môn Tiếng Việt như: Trò chơi Tìm bạn, Tiếp sức, Chọn ô số, Hoa
nhiều cánh, Xếp cánh hoa, Hái hoa dân chủ, Chung sức, Lật thẻ tìm từ, …
1. Cách vận dụng phương pháp sử dụng trò chơi trong dạy - học
môn Tiếng Việt lớp 4 - 5 .
1.1. Cấu trúc của trò chơi học tập.
- Tên trò chơi.
- Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức,
kĩ năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ quy định hành động chơi được thiết kế
trong trò chơi.
- Đồ dùng, đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong trò chơi học
tập.
- Nêu lên luật chơi: Chỉ rõ qui tắc của hành động chơi qui định đối với người
chơi, quy định thắng thua của trò chơi.
- Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia chơi.
1.2. Cách tổ chức chơi:
- Thời gian tiến hành thường từ 5 - 7 phút ( tiến hành ngay đầu tiết học hoặc
có thể lồng ghép trong mỗi bài tập, cuối bài học) nhằm thu hút sự chú ý và
củng cố kiến thức một cách vững chắc hơn qua mỗi loại bài tập tương ứng với
mỗi loại kiến thức.
- Quy trình tổ chức 1 trò chơi:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi.
Bước 2: Hướng dẫn chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
- Tổ chức người tham gia trò chơi: Số người tham gia, số đội tham gia
( mấy đội chơi ), quản trò, trọng tài.
- Các dụng cụ để chơi ( giấy khổ to, quân bài, thẻ từ, cờ….)
- Cách chơi: Từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội chơi, thời
gian chơi, những điều người chơi không được làm…..
- Cách xác nhận kết quả và cách tính điểm chơi.
Bước 3: Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi (nếu cần thiết).
Bước 4: Thực hiện trò chơi.
Bước 5: Nhận xét sau cuộc chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
7
- Giáo viên hoặc trọng tài là học sinh nhận xét về thái độ tham gia trò chơi của
từng đội, những việc làm chưa tốt của các đội để rút kinh nghiệm.
- Trọng tài công bố kết quả chơi của từng đội, cá nhân và trao phần thưởng
cho đội đoạt giải.
- Một số học sinh nêu ý kiến, kỹ năng trong bài học mà trò chơi đã thể hiện.
Lưu ý: Thưởng - phạt: phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp
nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của
học sinh.Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản,
vui như hát một bài, nhảy cò cò,…
1.3. Phân loại trò chơi :
Cách 1: Theo mục đích sử dụng:
- Trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức.
- Trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức.
- Trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy.
Cách 2: Theo yêu cầu rèn kĩ năng:
- Nghe.
- Nói.
- Đọc.
- Viết.
Cách 3: Theo phân môn:
- Luyện từ và câu
- Tập làm văn
- Chính tả
- Kể chuyện
- Tập đọc
Để việc vận dụng có hiệu quả, trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm
này, tôi xin trình bày các trò chơi được phân loại theo mục đích sử dụng:
1.3.1. Các trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức:
Trò chơi hái quả, trò chơi tìm bạn, trò chơi tập trung….
Ví dụ 1: Trò chơi “Tập trung” khi dạy bài “ Từ trái nghĩa”, Tiếng Việt 5, tập
1, trang 38. Trò chơi được vận dụng khi tìm hiểu:
Muc tiêu:
-Giúp học sinh bước đầu hiểu được thế nào là từ đồng nghĩa.
-Khơi gợi sự tập trung chú ý để tìm tòi kiến thức mới.
Chuẩn bị: Đây là khâu khá quan trọng, khâu này quyết định 90% việc tổ chức
trò chơi có thành công hay không. Chính vv́ thế giáo viên phải thực hiện một số
việc sau đây:
8
- Chuẩn bị các đồ dùng phục vụ để tố chức trò chơi. Đối với trò chơi này, giáo
viên cần phải chuấn bị: 1 bộ thẻ ghi các cặp từ có nghĩa trái ngược nhau:
To lớn
Xấu
Vui
Đoàn kết
Đen
Buồn
Gần
Đẹp
Nhỏ bé
Khéo léo
Dũng cảm
Trắng
Vụng Xa
về
Chia rẽ
(có thế lấy từ ngữ liệu cần phân tích trong phần nhận xét của bài học ở sách
giáo khoa.)
- Chuẩn bị hệ thống câu hỏi dẫn dắt sau khi kết thúc trò chơi để học sinh rút ra
được thế nào là từ trái nghĩa.
- Xác định rõ các bước tiến hành trò chơi.
Tiến hành:
Bước 1: Bộ thẻ từ được đính lên bảng lớpp (đặt úp thẻ xuống theo 2 dãy).
Bước 2: Giáo viên chia lớp thành 2 đội chơi. Mỗi đội cử 1 bạn đại diện lật thẻ
và oản tù tì để giành quyền lật trước.
Bước 3: Đại diện mỗi đội lần lượt lật một thẻ từ ở mỗi dãy lên và trình bày
với lớp đây có phải là một cặp thẻ phù hợp hay không. Nếu hai thẻ từ tạo
thành một cặp thẻ từ có nghĩa trái ngược nhau thì người chơi được giữ cặp
thẻ. Nếu hai thẻ không phù hợp, người chơi đặt úp hai thẻ này vào lại chỗ cũ.
• Trò chơi kết thúc khi tất cả các cặp thẻ đồng nghĩa được xác định. Đội
thắng cuộc sẽ là đội có nhiều cặp thẻ trái nghĩa nhất.
To lớn
Nhỏ bé
Xấu
Đẹp
Vui
Buồn
Đoàn kết
Chia rẽ
Đen
Trắng
Khéo léo
Vụng về
9
Xa
Gần
Lưu ý
- Giáo viên cần phải cân nhắc thật kĩ số lượng thẻ từ để thời gian chơi không
quá dài, làm mất sự tập trung chú ý của học sinh. Thời gian tiến hành tốt nhất
là khoảng 5 phút. Sau đó giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh
hình thành kiến thức trong vòng 5 phút tiếp theo là hợp lí. Thời gian còn lại
nên dành cho việc luyện tập hình thành kĩ năng.
- Giáo viên phổ biến cách chơi càng rõ ràng bao nhiêu thì việc tiến hành chơi
càng đỡ mất thời gian bấy nhiêu.
- Cần chú ý đến màu sắc của thẻ từ và độ lớn của chữ ghi trên thẻ từ sao cho
phù hợp, gây được sự chú ý của học sinh, học sinh ngồi cuối lớp vẫn có thế
nhìn thấy được.
Ví dụ 2: Trò chơi” Chọn ô số”.
Trò chơi được vận dụng vào phân môn Tập làm văn, bài: “Luyện tập tả
người, Tiếng Việt 5, tập 1, trang 132.
Muc tiêu: Giúp học sinh :
• Phát triển vốn từ ngữ miêu tả người, đặc biệt là các từ miêu tả về ngoại
hình.
• Phát triển kĩ năng trình bày.
Chuẩn bị:
•
Một bộ ảnh chụp nhiều người ở các độ tuổi, giới tính, nơi chốn khác nhau
có đánh số từ 1 đến n (n là số ảnh chuẩn bị được).
•
Bảng phụ có kẻ sẵn ô số như sau :
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Tiến hành:
Bước 1: Giáo viên gọi một học sinh lên bảng tham gia trò chơi (khuyến khích
học sinh xung phong).
10
Bước 2: Học sinh được gọi lên chọn một số bất kì trên bảng phụ. Sau đó giáo
viên (hoặc cử một học sinh khác) dán bức ảnh có số tương ứng lên bảng,
người chơi có nhiệm vụ miêu tả về người trong ảnh (từ 2-3 câu).
Bước 3: Giáo viên gọi tiếp một số học sinh khác tham gia trò chơi (số lượng
phụ thuộc vào thời gian dành cho trò chơi).
Bước 4: Khi trò chơi kết thúc, giáo viên và cả lớp bình chọn người chơi miêu
tả hay nhất. Học sinh nào có số phiếu bình chọn nhiều nhất sẽ là người thắng
cuộc.
Lưu ý:
•
Trò chơi này còn có thể vận dụng vào phân môn luyện từ và câu bài: “Nối
các vế câu ghép bằng quan hệ từ”. Giáo viên chỉ cần thay thế các ảnh chụp
bằng những phiếu yêu cầu như: Em hãy đặt câu có sử dụng cặp từ quan hệ
nguyên nhân - kết quả, điều kiện - kết quả, tương phản.
•
Giáo viên có thế thay đổi hình thức chơi bằng cách chia số học sinh trong
lớp thành 3 dãy thi đua với nhau.
1.3.2. Các trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức:
Trò chơi tìm bạn, trò chơi câu cá, trò chơi tha thơ, trò chơi sắm vai, trò chơi
ô, trò chơi tập trung.
Tôi xin trình bày cách vận dụng trò chơi “ Chọn ô số ” vào bài “ Bốn anh
tài ”
(Tiếng việt lớp 4, tập 2, trang 4 - 5).
Vật liệu:
Bảng trò chơi Ô của câu chuyện “ Bốn anh tài ”.
11
- Các thẻ chơi hay các vòng nhựa có màu khác nhau đủ cho số học sinh trong
một nhóm ( Các thẻ này có thể làm từ giấy màu. Giáo viên có thể tô nhiều
màu khác nhau trên giấy bìa màu trắng và cắt thành hình tròn).
- Xúc xắc.
- Bộ thẻ câu hỏi.
12
Cách thực hiện:
Bước 1: Các nhóm nhận một bảng trò chơi ô, bộ thẻ câu hỏi, các vòng nhựa
màu khác nhau đủ cho các em trong nhóm và một xúc xắc.
? trên bảng trò chơi
Bước 2: Các nhóm đặt úp bộ thẻ câu hỏi vào vị trí
Ô. Tất cả các em trong nhóm cùng đặt các vòng nhựa của mình vào vị trí
XUẤT PHÁT dưới số 1.
Bước 3: Trong nhóm, từng em lần lượt đổ xúc xắc. Tùy theo số trên mặt xúc
xắc mà em này sẽ di chuyển vòng nhựa của mình theo các số trên bảng trò
chơi Ô sao cho phù hợp.
Trường hợp 1: Nếu vòng nhựa của em vào số có dấu ? , thì em sẽ rút một
câu hỏi theo thứ tự từ trên xuống của bộ thẻ câu hỏi.
- Em này đọc và trả lời câu hỏi.
+ Nếu trả lời đúng, em sẽ được đi tiếp.
+ Nếu trả lời sai, em sẽ không được đi tiếp.
Khi trả lời xong câu hỏi, em cần đặt thẻ câu hỏi vào vị trí cuối cùng của bộ
thẻ.
Trường hợp 2: Nếu vòng nhựa của em vào số không có dấu hỏi , thì em hết
lượt đi.
Bước 4: Em nào về đến số 20 đầu tiên sẽ là người thắng cuộc. Ví dụ: Nếu một
em đang ở số 17, đổ được số 3 thì em này mới về được số 20. Nếu chỉ đổ được
các số còn lại thì em sẽ không được đi.
Thông qua trò chơi, các em sẽ rèn được kĩ năng giao tiếp, biết nói thành câu,
13
mạnh dạn tham gia trò chơi (kể cả HS yếu). Trong quá trình tham gia trò chơi
như thế, giáo viên kiểm soát được chặt chẽ hoạt động của từng em, có điều
kiện giúp đỡ được học sinh, nắm bắt được khả năng nói thành câu của từng
em. Từ trò chơi chuyển qua viết đoạn văn vào vở giúp các em tự tin hơn, viết
tốt hơn.
Lưu ý:
•
Trò chơi này có thể vận dụng ở nhiều phân môn khác nhau như: Kể
chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập đọc (đọc hiểu), tập làm văn, chỉ cần thay
đổi bộ thẻ hình hoặc câu hỏi ở nơi đặt thẻ.
•
Mục tiêu của trò chơi sẽ thay đổi khi ta vận dụng trò chơi này ở những
phân môn khác nhau.
1.3.3. Các trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy:
Trò chơi truyền điện, trò chơi tập trung, trò chơi tìm bạn, trò chơi thi viết
câu ghép, trò chơi những hình ảnh biết nói .
Sau đây tôi xin giới thiệu cách vận dụng trò chơi “truyền điện” trong bài
Sắc màu em yêu, Tiếng việt lớp 5 Tập 1 trang 19.
Thời điểm chơi cuối tiết tập đọc - học thuộc lòng hoặc tiết ôn tập học
thuộc lòng.
Muc tiêu :
- Rèn kĩ năng đọc trôi chảy, diễn cảm bài thơ.
- Rèn khả năng tập trung suy nghĩ cao độ.
- Rèn phản xạ nhanh nhạy.
- Tạo hứng thú và không khí sôi nổi trong học tập.
Chuẩn bị:
•
Học sinh hai nhóm A & B ngồi quay vào nhau (hoặc đứng thành hai hàng
đối diện).
Tiến hành:
Bước 1: Giáo viên nêu tên bài thơ sẽ đọc truyền điện, nêu cách chơi: hai
nhóm bắt thăm (hoặc oan tù tì) đế giành quyền đọc trước.
Bước 2: Đại diện nhóm đọc trước (nhóm A) đọc câu đầu tiên của bài thơ rồi
chỉ định thật nhanh (truyền điện), một bạn bất kì của nhóm kia (nhóm B), bạn
được chỉ định đọc tiếp câu thơ thứ 2 của bài.
Bước 3: Nếu đọc thuộc được chỉ định một bạn của nhóm A đọc tiếp câu thơ
thứ 3, cứ như vậy cho đến hết bài.
Ví dụ: Học sinh A1: Em yêu màu đỏ.
Học sinh B1: Như máu trong tim.
Học sinh A2: Lá cờ tổ quốc.
Học sinh B2: Khăn quàng đội viên.
14
Lưu ý:
•
Trường hợp học sinh được“ truyền điện” chưa thuộc, các bạn nhóm đối
diện sẽ hô từ 1 đến 5. Nếu không đọc được phải đứng yên tại chỗ (bị điện
giật). Lúc đó học sinh AI chỉ tiếp học sinh B2... Nhóm nào có nhiều người
phải đứng (bị điện giật) là nhóm thua cuộc.
•
Ta có thể vận dụng trò chơi này để kiểm tra kiến thức ở nhiều phân môn
khác nhau như: Tập đọc, chính tả, luyện từ và câu. Vận dụng như thế nào là
tùy vào từng bài, tùy vào mục đích và nội dung cần kiểm tra, củng cố.
•
Giáo viên cần thống nhất quy ước cho học sinh dễ đọc: 1 câu thơ là 1
dòng thơ.
Mỗi một trò chơi đều có thể vận dụng với mục đích sử dụng khác nhau.
Chẳng hạn như trò chơi” Tập trung” được vận dụng để dẫn dắt học sinh hình
thành kiến thức mới như đã giới thiệu ở phần trên nhưng đồng thời cũng có
thể vận dụng để rèn kĩ năng thực hành, củng cố kiến thức hoặc ôn tập tổng
hợp kiến thức. Điều ấy còn phụ thuộc vào mục tiêu của từng bài tập.
Tóm lại, việc vận dụng trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt là rất cần
thiết.Thông qua trò chơi, các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói được rèn luyện,
đồng thời kích thích khả năng ứng xử ngôn ngữ của học sinh, rèn luyện tư duy
linh hoạt và tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin cho học sinh. Tuy nhiên,
việc vận dụng trò chơi học tập phải luôn đi kèm với việc sáng tạo thiết kế ra
trò chơi mới bởi học sinh tiêu học luôn ham thích những cái mới lạ.
2. Thiết kế trò chơi học tập:
Ngoài vận dụng, giáo viên phải biết thiết kế hoặc chuyển đổi một số trò chơi
đế giảng dạy. Khi thiết kế thì cần:
- Xác định rõ mục tiêu của bài tập để chọn trò chơi phù hợp.
- Việc xác định yêu cầu của bài tập rất quan trọng, mục tiêu của bài tập là cơ
sở để lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp. Một bài tập có thể tạo nên những trò
chơi khác nhau.
Ví dụ: Vận dụng trò chơi Du lịch trên bản đồ Việt Nam trong bài Luyện từ và
câu “ Luyện tập viết tên người, tên địa lý Việt Nam ” ( Tiếng việt lớp 4, tập 1,
trang 74 – 75 ).
Mục tiêu: Ngoài việc giới thiệu với học sinh tên của một số danh lam thắng
cảnh, di tích lịch sử nổi tiếng hay các tỉnh, thành phố. Thực hiện trò chơi bản
đồ và các câu đố sẽ giúp các em nhận thức cụ thể hơn về các địa danh này của
Việt Nam
Vật liệu:
- Bộ thẻ câu hỏi (12 thẻ)
15
- Một xúc xắc và các vòng nhựa màu khác nhau đủ cho số học sinh trong một
nhóm.
- Bản đồ Việt Nam có dán các thẻ số từ 1 đến 20 và các hình của các danh lam
thắng cảnh hay nơi chốn nổi tiếng.
16
?
Cách thực hiện:
Bước 1: Các nhóm nhận một bản đồ, bộ thẻ câu hỏi, các vòng nhựa màu khác
nhau đủ cho các em trong nhóm và một xúc xắc.
Bước 2: Các nhóm đặt úp bộ thẻ câu hỏi vào vị trí
trên bản đồ. Tất cả các
em trong nhóm cùng đặt các vòng nhựa màu của mình vào vị trí XUẤT PHÁT
dưới số 1.
Bước 3: Trong nhóm, từng em lần lượt đổ xúc xắc. Tùy theo số trên mặt xúc
xắc mà em này sẽ di chuyển vòng nhựa của mình theo các số trên bản đồ sao
cho phù hợp.
Trường hợp 1: Nếu vòng nhựa của em vào số có dấu ? , thì em sẽ rút một
câu hỏi theo thứ tự từ trên xuống của bộ thẻ câu hỏi.
- Em này đọc và trả lời câu hỏi.
+ Nếu trả lời đúng, em sẽ được đi tiếp.
+ Nếu trả lời sai, em sẽ không được đi tiếp.
17
Khi trả lời xong câu hỏi, em cần đặt thẻ câu hỏi vào vị trí cuối cùng của bộ
thẻ.
Trường hợp 2: Nếu vòng nhựa của em vào số không có dấu hỏi, thì em hết
lượt đi.
Bước 4: Em nào về đến số 20 đầu tiên sẽ là người thắng cuộc. Ví dụ: Nếu một
em đang ở số 17, đổ được số 3 thì em này mới về được số 20. Nếu chỉ đổ được
các số còn lại thì em sẽ không được đi.
2.1. Tiến hành thiết kế trò chơi
Một số nguyên tắc thiết kế trò chơi học tập
Tổ chức trò chơi học tập mỗi chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều
kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù hợp,
song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy Tiếng Việt có hiệu quả cao thì đòi
hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo
các yêu cầu sau:
- Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục.
- Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học.
- Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lí của học sinh lớp, phù hợp với
khả năng người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường.
- Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú.
- Trò chơi phải chuẩn bị chu đáo .
- Trò chơi phải gây hứng thú với học sinh.
- Nội dung thực hiện trò chơi phải đảm bảo nội dung bài tập của Sách
giáo khoa hoặc bố sung thêm nội dung tùy vào việc xác định mục tiêu bài tập
cần rèn của giáo viên.
- Đồng thời thông qua đó rèn những kĩ năng cần thiết cho học sinh.
Lưu ý: Một nội dung trò chơi có thể được thể hiện thành các hình thức tổ
chức trò chơi khác nhau.
Ví dụ: Nội dung trò chơi xếp các từ trong tập hợp sau thành hai nhóm: một
nhóm gồm các từ chỉ người, cơ quan, tố chức thực hiện công việc bảo vệ trật
tự - an ninh, một nhóm gồm các từ chỉ hoạt động bảo vệ trật tự, an ninh hoặc
yêu cầu của việc bảo vệ trật tự, an ninh.
Ta có thể có các hình thức tổ chức chơi như sau :
Trò chơi chung sức.
Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy. Theo lệnh của giáo viên, từng
nhóm bàn bạc với nhau đế thực hiện yêu cầu của trò chơi. Khi nhóm đã thống
nhất thì ghi kết quả vào giấy. Ghi xong, dán tờ giấy của nhóm lên bảng lớp.
18
Giáo viên sẽ tính điểm các nhóm theo hai chuẩn: Chuẩn chính xác và chuẩn
nhanh nhẹn.
Trò chơi thi tài.
Đơn vị chơi bây giờ là cá nhân. Từng em nhận yêu cầu của trò chơi và ráng
sức tự mình giải quyết yêu cầu của trò chơi. Giáo viên sẽ tìm điểm thi đua cho
cá nhân.
Hai người ba chân.
Đây là biến tướng của trò chơi tiếp sức. Cứ 2 em trong nhóm phải dùng dây
buộc chân trái của mình với chân phải của một bạn khác. Hai bạn sẽ chỉ hoạt
động được ba chân. Từng cặp hai em phải đi bằng ba chân lên bảng để thực
hiện thao tác xếp từ theo nhóm.
2.2. Tiến hành làm các đồ dùng phục vụ trò chơi :
Để tổ chức được các trò chơi thì cần phải có những đồ dùng phục vụ nên khi
thiết kế các trò chơi, người giáo viên cần phải làm thêm các đồ dung dạy học
phục vụ cho trò chơi đó. Đồ dùng dạy học cần phải đảm bảo được tính thấm
mỹ và khoa học.
3. Sau đây là một số trò chơi mà tôi đã thực hiện :
3.1. Trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức :
Trò chơi “ Đuổi hình bắt chữ”
Ví dụ 1: Vận dụng cho bài Luyện từ và câu “ Luyện tập viết tên người, tên địa
lí Việt Nam ” ( Tiếng việt lớp 4, tập 1, trang 74 - 75 )
Mục tiêu:
- Ôn lại cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam
- Viết đúng tên người, tên địa lí Việt Nam trong mọi văn bản
19
Vật liệu: Một bộ thẻ hình và một bộ thẻ từ.
- Giáo viên và học sinh có thể sưu tầm các tranh ảnh từ các tạp chí hay
bưu thiếp. Giáo viên nên có thêm một vài tranh ảnh của thành phố hay
địa phương nơi học sinh đang sống.
- Các thẻ từ có thể được viết trên các giấy bìa có kẻ khung hay tô màu
làm nổi bật các từ.
20
Cách thực hiện
Bước 1: Học sinh trong nhóm nhận bộ thẻ hình và bộ thẻ từ. Các em có ít
phút xem hình và đọc các thẻ từ . Các em có thể thảo luận về các hình.
Bước 2: Các em đặt úp các thẻ xuống mặt bàn , xáo đều và xếp thành 2 dãy .
21
Bước 3 : Các em trong nhóm thay phiên nhau lật một thẻ hình và một thẻ từ
của mỗi bộ lên. Tất cả các em trong nhóm phải đọc các căp thẻ khi chúng
được lật lên. Nếu 2 thẻ này tạo thành một cặp thẻ phù hợp, thì người chơi giữ
cặp thẻ này. Nếu 2 thẻ không phù hợp, người chơi đặt 2 thẻ này vào chỗ cũ.
Ví dụ : Các cặp thẻ từ và hình phù hợp và không phù hợp.
Tổng kết trò chơi: Người thắng cuộc là người có nhiều cặp thẻ phù hợp nhất.
Các cặp thẻ này cần được các bạn trong nhóm cùng đọc và đánh giá trong khi
thực hiện trò chơi.
Ví dụ 2 : Trò chơi “ Đếm số cánh hoa ”
Trò chơi được vận dụng đế củng cố lại kiến thức của bài chính tả ở sách Tiếng
Việt 5, tập 1, trang 87.
22
Bài tập 3: Thi tìm nhanh :
- Các từ láy âm đầu 1.
- Các từ láy vần có âm cuối ng .
Mục tiêu: Giúp học sinh :
•
Ôn lại cách viết những từ ngữ có tiếng chứa âm đầu 1 và âm cuối ng.
•
Nhằm đế khắc phục lỗi chính tả n/1, n/ng.
Chuẩn bị:
•
Nhiều miếng bìa cắt theo hình cánh hoa (hình 1a)
Vẽ trực tiếp lên một tờ giấy to 2 vòng tròn làm hai nhị hoa. Trong mỗi nhị hoa
ghi: các từ láy âm đầu 1; các từ láy vần có âm cuối ng.(hình l b)
Các từ láy
vần có âm
cuối ng
Hình la: Cánh hoa
Hình 1 b: Nhị hoa
Tiến hành:
Bước 1: Giáo viên chia học sinh thành nhiều nhóm chơi tùy theo số bộ nhị
hoa và cánh hoa chuẩn bị được.
Bước 2: Khi trò chơi bắt đầu, các nhóm chơi có nhiệm vụ ghi từ theo yêu cầu
vào các cánh hoa (mỗi cánh hoa chỉ ghi một tù’) rồi dán vào nhị hoa cho phù
họp.
Bước 3: Sau 5-7 phút, giáo viên hô: “Dừng chơi !” Nhóm nào dán được nhiều
cánh hoa đúng và đẹp sẽ thắng cuộc.
Lưu ý:
- Trò chơi này còn có thể vận dụng vào phân môn luyện từ và câu ở các bài:
Từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, ôn tập về từ loại chỉ cần thay đổi yêu cầu ghi
trên nhị hoa.
- Khi kết thúc trò chơi, để khắc sâu kiến thức của bài, giáo viên có thể yêu cầu
học sinh đặt câu với một vài tù' tìm được và chuẩn bị sẵn các phiếu khen
thưởng để động viên các em.
3.2. Trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức :
Ví dụ 1: Trò chơi “ Tiếp sức ” bài: Tổng kết vốn từ: (Bài tập 1b, Tiếng Việt
lớp 5 tập I trang 159).
23
Mục tiêu:
- Tự kiểm tra được vốn từ của mình theo các nhóm từ đồng nghĩa đã cho.
- HS tự kiểm tra được khả năng dùng từ của mình.
- HS yêu thích môn học
Chuẩn bị:
- Chúng ta sử dụng những cánh hoa bằng giấy bìa cứng.Giáo viên ghi từ cho
sẵn vào cánh hoa các từ: đen, thâm, mun, huyền, ô, mực được ghi lần lượt vào
các cánh hoa, các cánh hoa được xếp thành hình một bông hoa.
- Nội dung bài tập thì ghi sẵn vào bảng phụ:
- Bảng màu đen gọi là bảng……
- Mắt màu đen gọi là mắt………
- Ngựa màu đen gọi là ngựa …...
- Mèo màu đen gọi là mèo……..
- Chó màu đen gọi là chó ……...
- Quần màu đen gọi là quần……
Tiến hành:
Trò chơi này cho học sinh đua 2 dãy, mỗi dãy cử 6 em tiếp sức nhau để hoàn
thành bài tập
Bước 1: Lần lượt các em sẽ chọn lần lượt các cánh hoa, chọn cánh hoa có từ
nào thì đính vào phần bài tập cho phù hợp.
Bước 2: Học sinh đọc lại toàn bộ bài tập đã làm để cả lớp nhận xét. Dãy nào
đúng, hoàn thành trước là thắng cuộc.
Ví dụ 2: Trò chơi “ Nhìn tranh, kể đoạn ” trong phân môn Kể chuyện sách
Tiếng Việt lớp 4 bài “ Sự tích hồ Ba Bể ” trang 8.
Mục đích:
- Rèn kĩ năng kể đúng nội dung từng đoạn của câu chuyện dựa vào tranh
vẽ gợi ý trong SGK hoặc tranh có sẵn của bộ đồ dung dạy học.
- Luyện trí nhớ, trau dồi năng lực diễn cảm mạch lạc, đủ ý chính trong
câu chuyện mình định kể.
Chuẩn bị:
- Bộ tranh kể chuyện, ghi rõ tranh 1,2,3,4.
- 4 học sinh làm ban giám khảo và 1 thư kí.
- Các tiêu chuẩn cho điểm chi tiết.
- Bảng điểm chi tiết sẵn.
Tranh số
Tên học
sinh
Nhận xét
GK1
GK2
GK3
GK4
Xếp
loại
24
1
2
3
….
…
Cách tiến hành:
Bước 1: Giáo viên tổ chức cho học sinh thi kể từng đoạn theo tranh của câu
chuyện mà giáo viên đưa ra (4 học sinh thi kể).
Bước 2: Ban giám khảo ghi nhận xét của từng người thi kể.
Bước 3: Kết thúc cuộc thi thư kí xếp hạng nhất, nhì theo từng tranh và đánh
giá cả 4 bức tranh của câu chuyện.
Lưu ý: Tùy điều kiện thời gian và hoàn cảnh cho phép mà giáo viên có thể
cho thi kể theo từng tranh hoặc cả 1 câu chuyện.
3.3. Trò chơi nhằm ôn tập tống hợp và rèn óc tư duy :
Trò chơi “Phân tích nhân vật ”
Ví dụ: Vận dụng cho bài : “ Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi ” ( Tiếng việt 4, tập
1, trang 115 - 116 )
Mục tiêu:
- Hỗ trợ hiệu quả việc đọc hiểu của học sinh
- Giúp học sinh phát triển kĩ năng miêu tả nhân vật trong bối cảnh của các sự
kiện , xung đột hay mâu thuẫn.
- Giúp học sinh hình thành các kĩ năng phân tích nhân vật bằng cách xem xét
các khía cạnh như tính cách, ngoại hình, hoàn cảnh xuất than , công việc hay
các thành tựu và quan niệm sống của các nhân vật này trong bối cảnh của câu
chuyện.
25