Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

So sánh cơ chế bảo hiến hoa kỳ, pháp và kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.37 KB, 54 trang )

SO SÁNH CƠ CHẾ BẢO HIẾN HOA KỲ, PHÁP
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................4
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo hiến, cơ chế bảo hiến...............................................5
1.1 Khái niệm................................................................................................................. 5
1.1.1 Khái niệm về bảo hiến.........................................................................................5
1.1.2 Khái niệm cơ chế bảo hiến..................................................................................6
1.2 Các mô hình bảo hiến của một số quốc gia trên thế giới......................................6
1.2.1 Mô hình giám sát Hiến pháp phi tập trung (Decetrllised Constitutional
control) - hay còn gọi là mô hình bảo hiến của Mỹ......................................................6
1.2.2 Mô hình giám sát Hiến pháp tập trung (Concentrated system)............................7
1.2.3 Mô hình giám sát Hiến pháp hỗn hợp (Mô hình bảo hiến hỗn hợp kiểu ÂuMỹ).............................................................................................................................. 7
1.2.4 Mô hình cơ quan lập hiến có chức- năng bảo hiến đồng thời là cơ quan giám
sát Hiến pháp...............................................................................................................8
Chương 2: Cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và Pháp..........................................................9
2.1 Cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ...................................................................................9
2.1.1 Cơ sở hình thành.................................................................................................9
2.1.2 Chủ thể có quyền yêu cầu bảo hiến...................................................................11
2.1.3 Chủ thể tiến hành bảo hiến................................................................................11
2.1.4 Thẩm quyền của các cơ quan tiến hành bảo hiến..............................................12
2.1.5 Quy trình bảo hiến.............................................................................................15
2.1.6 Hậu quả pháp lý................................................................................................17
2.2 Cơ chế bảo hiến của Pháp.....................................................................................18
2.2.1 Cơ sở hình thành...............................................................................................18
2.2.2 Chủ thể có quyền yêu cầu bảo hiến...................................................................19
2.2.3 Chủ thể tiến hành bảo hiến................................................................................19
2.2.4 Thẩm quyền của cơ quan tiến hành bảo hiến.....................................................20
2.2.5 Quy trình Bảo hiến............................................................................................24


2.2.6 Hậu quả pháp lý của phán quyết:......................................................................26
2.3 So sánh cơ chế bảo hiến của Pháp và Hoa Kỳ.....................................................26
2.3.1 Điểm tương đồng giữa cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và Pháp...........................26
2.3.2 Điểm khác biệt giữa cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và Pháp...............................29
Chương 3: Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam....................................................................34
3.1 Sơ lược về vấn đề bảo hiến trong lịch sử lập hiến Việt Nam..............................34
3.2 Thực trạng bảo hiến ở Việt Nam..........................................................................34
3.3 Thực trạng cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay:..............................................42
3. 4 Phương hướng đổi mới cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay.............................48
3.4.1 Sự cần thiết phải đổi mới...................................................................................48
3.4.2 Các mô hình đổi mới:........................................................................................55


KẾT LUẬN..................................................................................................................62


LỜI MỞ ĐẦU
Ở bất kỳ quốc gia nào, Hiến pháp cũng được tôn vinh như một đạo luật có hiệu
lực pháp lý tối cao trong toàn bộ hệ thống pháp luật cũng như đời sống xã hội. Hiến
pháp là văn bản giới hạn quyền lực Nhà nước nhằm bảo vệ quyền con người, quyền
công dân bằng những chuẩn mực pháp lý. Đó là đạo luật đặt nền tảng cho việc xây
dựng tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong khi đó hoạt động của các cơ
quan công quyền, phạm vi điều chỉnh quan trọng của Hiến pháp luôn chứa đựng nguy
cơ cao trong việc xâm hại những ranh giới hiến định. Chính hoạt động bảo hiến sẽ là
sự bảo đảm để quyền con người, quyền công dân không bị xâm phạm bởi sự vi phạm
đó.
Hiến pháp là đạo luật gốc của quốc gia, là kim chỉ nam cho tất cả các đạo luật
khác ban hành trên tất cả các lĩnh vực. Bởi vị trí đặc biệt quan trọng của Hiến pháp mà
Hiến pháp được xem là đạo luật cơ bản. Điều đó được thể hiện thông qua tác phẩm của
Látxan, ông viết: “Hiến pháp…phải trở thành không chỉ là một đạo luật, mà phải hơn

một đạo luật. Hiến pháp không phải là một đạo luật thông thường như những đạo luật
khác, mà là đạo luật cơ bản của một nước”.
Hiến pháp không phải là một văn bản nhà nước mang tính cá biệt,chỉ được áp
dụng một lần, mà nó là một văn bản pháp quy, tức là một văn bản nhà nước mà nội
dung của nó chứa đựng quy phạm pháp luật, những quy định không phải áp dụng một
lần mà là nhiều lần, không nhằm một cá nhân xác định mà có tính chất chung. Tuy
nhiên,chủ thể ban hành văn bản pháp luật suy cho cùng cũng là những con người,
không thể tránh khỏi những sai sót. Trong khi đó, hậu quả của một đạo luật trái với
Hiến pháp có khả năng gây thiệt hại rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
Do vậy,bảo hiến sẽ góp phần kiểm soát hoạt động của các chủ thể, đặc biệt là cơ
quan Nhà nước trong giới hạn của Hiến pháp, loại bỏ những đạo luật vi hiến khỏi đời
sống xã hội. Vì tầm quan trọng đặc biệt đó, Hiến pháp đòi hỏi phải được mọi chủ thể
trong xã hội tôn trọng, thực hiện và bảo vệ.
Bảo hiến là một yêu cầu cốt lõi của nhà nước. Sự vi phạm Hiến pháp dễ dàng
dẫn đến phá vỡ thể chế, làm mất ổn định chính trị. Và cũng vì thế, bảo vệ Hiến pháp
bằng một có chế bảo hiến chặt chẽ luôn là sứ mệnh hàng đầu của nhà nước nhằm bảo
vệ chế độ nhà nước, chế độ xã hội.
Vì vậy, để hiểu rõ hơn về cơ chế bảo hiến, dưới đây nhóm chúng tôi sẽ trình bày hai cơ
chế bảo hiến điển hình:


- Cơ chế bảo hiến Hoa Kỳ
- Cơ chế bảo hiến Pháp
Đồng thời từ cơ chế bảo hiến của 2 quốc gia này, nhóm chúng tôi sẽ nêu ra thực trạng
bảo hiến ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện trong thời gian sắp tới..

Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo hiến,
cơ chế bảo hiến
1.1 Khái niệm

1.1.1 Khái niệm về bảo hiến
Bảo hiến (giám sát hiến pháp hay bảo vệ Hiến pháp) có thể được hiểu theo nghĩa
rộng và theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, bảo hiến là tổng hợp cơ chế chính trị, cơ chế pháp lý, cơ chế xã
hội, cơ chế kinh thế, cơ chế hỗn hợp nhằm bảo đảm sự tôn trọng Hiến pháp.
Theo nghĩa hẹp, bảo hiến là sự bảo vệ Hiến pháp trước các hoạt động (thể hiện
qua văn bản luật) đã được thực hiện hoặc sẽ được thực hiện (từ thời điểm thông qua)
bởi một cơ chế bên ngoài. Ý nghĩa cốt lõi của bảo hiến theo nghĩa hẹp được hiểu là
kiểm soát tính hợp hiến các đạo luật. Tức là điều tra, xem xét những đạo luật - tức là
những hành vi pháp lý ở một địa vị kém hơn Hiến pháp - có phù hợp với tinh thần
cũng như nội dung của Hiến pháp hay không.1
1.1.2 Khái niệm cơ chế bảo hiến
Cơ chế bảo hiến được hiểu là hệ thống các thiết chế (tổ chức), hình thức và
phương pháp (biện pháp) hoạt động, khách thể và đối tượng tác động, được quy định
bởi hệ thống văn bản pháp luật, trước hết là Hiến pháp vận hành trong một nhà nước
và xã hội nhất định (với những tác động đa chiều thuận nghịch...), bảo đảm bộ máy
nhà nước nói chung, từng cơ quan nhà nước nói riêng và các chủ thể khác trong xã hội
tuân thủ Hiến pháp, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp. Vì vai trò đặc biệt quan trọng
của Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền, nên hiệu quả của cơ chế bảo Hiến có vai
trò rất quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Cơ
chế bảo hiến là công cụ, phương thức quan trọng trong việc tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước.2
1

Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học, Sài gòn, 1967
TS. Vũ Văn Nhiêm, ThS. Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang (2012), Cơ chê giám sát Hiến pháp với việc
bảo đảm quyền con người, Nxb Hồng Đức, năm 2013,Tr.15.
2



1.2 Các mô hình bảo hiến của một số quốc gia trên thế giới
Để bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp các quốc gia trên thế giới xây dựng những
mô hình bảo vệ Hiến pháp khác nhau. Theo đó, có bốn mô hình giám sát Hiến pháp:
mô hình giám sát Hiến pháp tập trung; mô hình giám sát Hiến pháp phi tập trung; mô
hình giám sát Hiến pháp hỗn hợp; mô hình cơ quan bảo hiến đồng thời là cơ quan
giám sát Hiến pháp.
1.2.1 Mô hình giám sát Hiến pháp phi tập trung (Decetrllised Constitutional
control) - hay còn gọi là mô hình bảo hiến của Mỹ.
Đây là mô hình mà Tòa án tối cao và tòa án các cấp đều có chức năng và thẩm
quyền giám sát tính hợp hiến được xây dựng trên cơ sở của thuyết phân chia và kiềm
chế đối trọng giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các nước theo mô hình
này: Nhật Bản, Thụy Điển, Canada,...
Mô hình giám sát Hiến pháp phi tập trung thẩm quyền giám sát được trao cho hệ
thống cơ quan tư pháp. Với phương pháp giám sát cụ thể gắn liền với sự việc đang
tranh chấp nên quá trình giám sát không ảnh hưởng nhiều đến quy trình lập pháp của
Nghị viện, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được bảo vệ hữu hiệu và linh hoạt.
Tuy nhiên, hoạt động giám sát chỉ phát sinh sau khi văn bản đã được ban hành và
có hiệu lực nên hoạt động giám sát không có ý nghĩa trong việc thống nhất hệ thống
pháp luật; phạm vi tác động của phán quyết giám sát hẹp. Giao quyền bảo hiến cho tòa
án các cấp nên thủ tục dài dòng. Đây là điểm hạn chế ở mô hình giám sát Hiến pháp
phi tập trung. Nhược điểm này sẽ được khắc phục trong mô hình giám sát tập trung.
1.2.2 Mô hình giám sát Hiến pháp tập trung (Concentrated system)
Khác với mô hình kiểu Mỹ, các nước lục địa Châu Âu không trao cho Tòa án tư
pháp thực hiện giám sát Hiến pháp mà thành lập một cơ quan đặc biệt để thực hiện
chức năng bảo hiến, có vị trí độc lập với quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cơ
quan này gọi là Tòa án Hiến pháp hoặc là Hội đồng bảo hiến. Các nước theo mô hình
này gồm Đức, Áo , Pháp,…
Theo mô hình này, Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền như sau: xem xét tính hợp
hiến của các văn bản luật, các Điều ước quốc tế, các sắc lệnh của Tổng thống và Nghị
định của Chính phủ.

Có thể tuyên bố một văn bản luật, văn bản dưới luật là vi hiến và làm vô hiệu hóa
văn bản đó
Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa các nhánh quyền lực lập pháp,
hành pháp và tư pháp, giữa chính quyền địa phương và trung ương,…
Vậy, mô hình giám sát Hiến pháp tập trung với việc thành lập cơ quan giám sát
Hiến pháp chuyên trách (Tòa án Hiến pháp, Hội đồng bảo hiến) với phương pháp giám


sát trừu tượng có ý nghĩa trong hoạt động thống nhất hệ thống pháp luật, hiệu lực của
phán quyết giám sát có phạm vi tác động rộng đã khắc phục được nhược điểm của mô
hình giám sát phi tập trung.
Tuy nhiên, hạn chế của mô hình này là can thiệp quá sâu vào hoạt động của
ngành lập pháp.
1.2.3 Mô hình giám sát Hiến pháp hỗn hợp (Mô hình bảo hiến hỗn hợp kiểu
Âu-Mỹ).
Đây là kiểu mô hình kết hợp những yếu tố của cả hai mô hình kiểu Châu Âu và
kiểu Mỹ được áp dụng ở một số nước như: Bồ Đào Nha, Thụy Sỹ, Venezuela,…
Theo mô hình này, thẩm quyền bảo hiến được trao cho cả cơ quan bảo hiến
chuyên trách như Tòa án Hiến pháp lẫn tất cả các tòa án thuộc hệ thống tư pháp. Trong
đó, thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp và Tòa án tối cao đối với những vụ việc cụ thể
được quy định ngay trong Hiến pháp, các tòa án khác khi giải quyết một vụ việc cụ thể
có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và được quyền không áp dụng các
đạo luật được cho là không phù hợp với hiến pháp.
Mô hình giám sát này vừa khắc phục được những hạn chế, vừa phát huy được
những yếu tố tích cực của cả hai mô hình giám sát Hiến pháp tập trung và giám sát
Hiến pháp phi tập trung. Chính sự kết hợp các yếu tố được xem là tích cực của hai mô
hình tạo nên sự linh hoạt trong hoạt động giám sát Hiến pháp.
1.2.4 Mô hình cơ quan lập hiến có chức năng bảo hiến đồng thời là cơ quan
giám sát Hiến pháp.
Ở Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba và một số nước khác không có cơ quan bảo hiến

chuyên biệt. Các nước này đều có quan điểm chung là Quốc hội (Nghị viện) là cơ quan
đại diện cao nhất của nhân dân, không những là cơ quan lập hiến, lập pháp duy nhất
mà còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quốc hội phải tự quyết định
tính hợp hiến của một đạo luật. Nếu quốc hội trao quyền này cho một cơ quan khác
phán quyết thì quốc hội không còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nữa.
Quan điểm trên đây có hạt nhân hợp lý của nó. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận
rằng nếu một cơ quan vừa lập pháp vừa tự mình phán quyết đạo luật do mình làm ra có
vi hiến hay không thì cũng rất khó.
Cho nên khi xây dựng mô hình giám sát Hiến pháp các Quốc gia cần cân nhắc
lựa chọn và xây dựng mô hình giám sát cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội trên
cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia khác.
Nhìn chung, cơ chế giám sát trở thành một bộ phận không thể thiếu trong tổ chức
của đa số các nhà nước dân chủ hiện đại do tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được


thừa nhận rộng rãi với đặc điểm cơ bản nhất đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp. Tùy
theo nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước của mỗi Quốc gia mà mô hình giám sát sẽ
được thành lập khác nhau. Nhưng dù tồn tại ở mô hình nào đi chăng nữa thì tất cả mô
hình giám sát Hiến pháp đều hướng về mục đích cuối cùng là bảo vệ giá trị tối cao của
Hiến pháp; đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, thực hiện dân chủ trong đời
sống xã hội.

Chương 2: Cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ
và Pháp
2.1 Cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ
2.1.1 Cơ sở hình thành
Cơ chế bảo vệ hiến pháp của Hoa Kỳ là điển hình của mô hình bảo vệ hiến pháp
phi tập trung. Mô hình này được xây dựng trên cơ sở học thuyết phân chia giữa các
nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo quan điểm của học thuyết này,

hệ thống các cơ quan tòa án không những có chức năng xét xử các hành vi vi phạm
pháp luật của các công dân mà còn có chức năng kiểm soát, hạn chế quyền lực của các
cơ quan lập pháp và hành pháp. Theo đó, khi Tổng thống ban hành một sắc lệnh,
Chính phủ ban hành một nghị định, Nghị viện ban hành một văn bản quy phạm pháp
luật trái với nội dung hay tinh thần của Hiến pháp thì phải có một cơ quan nào đó làm
vô hiệu hóa các văn bản này. Cơ quan thực hiện chức năng này phải là một cơ quan
độc lập với hành pháp và lập pháp. Theo tư duy logic có thể thấy ngay rằng chỉ tòa án
mới có thể gánh vác được công việc này. Là một gia xây dựng bộ máy nhà nước theo
nguyên tắc phân chia quyền lực một cách rạch ròi, Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên trên thế
giới trao cho các tòa án quyền phán quyết về tính hợp hiến của các văn bản quy phạm
pháp luật và văn bản dưới luật. Mặc dù trong Hiến pháp Hoa Kỳ không có quy định
nào trao cho tòa án quyền phán quyết về tính hợp hiến của các văn bản luật và dưới
luật. Quyền giám sát Hiến pháp của Tòa án Tối cao Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là một
trong những nét đặc sắc của nền chính trị Hoa Kỳ.3
Việc tòa án phán quyết tính hợp hiến của các văn bản luật và văn bản dưới luật
được xác định sau vụ án nổi tiếng của nước Mỹ - vụ án Marbury kiện Madison năm
1803. Ngay trước khi rời khỏi vị trí tháng 3 năm 1801, Tổng thống John Adam đã cố
3

Xem: La presidence americam - Marie - France Toinet, Montrestien E.J.A 1991, p.7


gắng bổ nhiệm những người của đảng mình vào những vị trí mới trong ngành tư pháp.
Tổng thống mới, Thomas Jefferson đã bất bình với hành động mà ông cho là đã lạm
dụng quyền lực. Sau khi phát hiện ra một số bổ nhiệm chưa được thực hiện, ông đã ra
lệnh cho Bộ trưởng Ngoại giao của mình là James Madison bãi bỏ các sự bổ nhiệm đó.
William Marbury, một trong những người được bổ nhiệm bị bãi bỏ, đã kiện, yêu cầu
Tòa án buộc ông James Madison tuân thủ các quyết định bổ nhiệm ông làm thẩm phán
của Tổng thống John Adams. Ông cho rằng Đạo luật tư pháp năm 1789 đã trao cho
Tòa án tối cao liên bang quyền lực thực hiện nghĩa vụ của họ. Ông muốn Tòa án tối

cao buộc Madison chấp nhận việc bổ nhiệm chính đáng của mình. Vụ án này đã đặt
Tòa án tối cao vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu Tòa án yêu cầu cơ quan hành
pháp trao quyền cho Marbury thì rất có thể Tổng thống sẽ từ chối và uy tín của Tòa án
tối cao vì thế có thể giảm sút. Còn ngược lại, nếu Tòa án khước từ yêu cầu này thì vô
hình trung đã công khai thừa nhận tư pháp không có quyền gì đối với hành pháp. Tuy
nhiên, trong tình thế tưởng chừng bế tắc đó, Chánh án Tòa tối cao John Marshall (1755
- 1835) với sự thông thái của mình đã đưa ra một quyết định sáng suốt với sự giải thích
mà sau này đã trở thành dấu ấn trong lịch sử Hiến pháp Hoa Kỳ. Marshall đã tuyên bố
Tòa án tối cao liên bang không có quyền giải quyết vấn đề này, mặc dù mục 13 của
Đạo luật tư pháp liên bang trao cho tòa án thẩm quyền trong lĩnh vực đó nhưng quy
định này trái với Điều 3 của Hiến pháp Hoa Kỳ 1787. Ông cho rằng Hiến pháp là luật
cơ bản của nhà nước và có hiệu lực pháp lý tối cao. Vì khi một đạo luật thông thường
trái với Hiến pháp thì đạo luật đó phải bị tuyên bố là vô hiệu. 4 Giải quyết vụ án
Marbury - Madison 1803, Chánh án Tòa án tối cao Marshall đã đưa ra các tuyên bố
sau: 1) Hiến pháp là luật tối cao của đất nước; 2) Những luật hay quyết định được đưa
ra bởi cơ quan lập pháp là một bộ phận của Hiến pháp và không được trái với Hiến
pháp; 3) Thẩm phán, người đã từng tuyên thệ bảo vệ Hiến pháp, phải tuyên bố hủy bỏ
những luật, lệ quy định nào của cơ quan lập pháp mâu thuẫn với Hiến pháp. 5
Ba tuyên bố trên đây đã xác lập chức năng bảo hiến của tòa án và quyền tài phán
của tòa án về các quyết định của lập pháp và hành pháp liên quan đến Hiến pháp. Với
những tuyên bố trên đây và những đóng góp lớn lao cho ngành tư pháp, John Marshall
được coi là Chánh án Tòa án tối cao vĩ đại nhất Hoa Kỳ. 6 Bằng những ý kiến sinh
động, đầy sức thuyết phục và quyết tâm xây dựng cho bằng được một chính quyền liên
4

Xem: Hệ thống chính trị Mỹ - Chủ biên TS Vũ Đăng Hinh, Nxb.KHXH, Hà Nội 2001, tr.184.
Xem: TS Lê Vinh Danh, Chính sách công của Hoa Kỳ giai đoạn 1935 - 2001, Nxb. Thống kê 2001, Tr.42
6
Xem: 42 đời Tổng thống Hoa Kỳ, William A Degregorio, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 2001, tr.88
5



bang vững mạnh, ông đã có công đưa Tòa án tối cao liên bang trở thành một bộ phận
thứ ba, quan trọng trong bộ ba kiểm soát và cân đối mọi vấn đề của đất nước, không bị
rơi vào tình trạng tồn tại mà như không tồn tại. Ông đã củng cố và tăng cường thêm
ảnh hưởng của tòa án khi quyết định xóa bỏ thông lệ mỗi thẩm phán đều nêu ra một ý
kiến riêng, thay vào đó, ông quyết định chỉ chọn lấy một thẩm phán duy nhất phát
ngôn cho ý kiến đa số, mặc dù có những ý kiến bất đồng.7
2.1.2 Chủ thể có quyền yêu cầu bảo hiến
Chủ thể có quyền khởi kiện chỉ thuộc về các bên tranh chấp trong một vụ án cụ
thể (có thể theo lời tư vấn và yêu cầu của Luật Sư). Đương sự phải chứng minh rằng “
việc tuyên bố đạo luật đó là hợp hiến hay vi hiến sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi
của họ” và là cơ sở để giải quyết vụ án thông thường. Hay nói cách khác là bất kì chủ
thể nào cũng có quyền yêu cầu Tòa án xem xét lại tính hợp hiến của một đạo luật khi
nó ảnh hưởng đến quyền lợi trực tiếp của mình.
2.1.3 Chủ thể tiến hành bảo hiến
Bảo hiến ở Mỹ được thực hiện theo cơ chế giám sát tư pháp với mô hình phi tập
trung. Mô hình này theo hướng trao thẩm quyền trong giám sát việc bảo hiến theo hệ
thống các cơ quan tòa án, kể cả tòa án của các bang và hệ thống tòa án liên bang, trong
đó Tối cao pháp viện là cơ quan thẩm định tối cao tính hợp hiến của các đạo luật cụ
thể. Bất kỳ toà án nào cũng có thẩm quyền phán quyết tính hợp hiến của một đạo luật
nhưng các quyết định của tòa cấp cao nhất có ưu thế hơn vì chỉ những quyết định đó
mới có tính bắt buộc đối với mọi tòa khác, đặc biệt là phán quyết của Tối cao pháp
viện – cấp tòa án cao nhất của hệ thống tòa án Mỹ. Chỉ sau khi tòa cấp cao nhất phủ
nhận tính hợp hiến của văn bản luật thì văn bản đó sẽ thực chất mất hiệu lực. Thẩm
quyền này của tòa án không được quy định trong Hiến pháp mà được hình thành từ
chức năng giải thích Hiến pháp được chánh án J. Marshall - Tối cao pháp viện sáng tạo
ra năm 1803 sau vụ án Marbury kiện Madison: “chỉ có tòa án mới có quyền và nghĩa
vụ tuyên bố cái gì được gọi là luật”, “một văn bản trái với hiến pháp không phải là
luật”. Tiền lệ này đã đặt nền tảng cho Mỹ về hoạt động bảo hiến với đặc điểm chính là

sự giám sát bảo hiến do chính các tòa án có thẩm quyền chung thực hiện. 8
Như vậy, ở đây luật pháp không xác định cụ thể phạm vi thẩm quyền của các toà
có thẩm quyền chung trong lĩnh vực hiến pháp. Phạm vi đó phụ thuộc vào tính chất
của vụ việc được xem xét và trong nhiều trường hợp – vào sự suy xét của toà. Toà án
7

TS. Vũ Văn Nhiêm, ThS. Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang (2012), Cơ chê giám sát Hiến pháp với việc
bảo đảm quyền con người, Nxb Hồng Đức, năm 2013, tr. 53
8
TS. Vũ Văn Nhiêm, ThS. Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang (2012), Cơ chê giám sát Hiến pháp với việc
bảo đảm quyền con người, Nxb Hồng Đức, năm 2013, tr.57


có thể né tránh không xem xét các vấn đề hiến pháp do những nguyên nhân khác nhau.
Ví dụ như Toà án tối cao Hoa Kỳ lập nên một số nguyên tắc hạn chế thẩm quyền của
Toà trong lĩnh vực hiến pháp. Một trong những nguyên tắc đó là từ chối xem xét
những vấn đề “có tính chất chính trị”. Đó là những vấn đề tác động đến chính sách
ngoại giao, chiến tranh, vị trí pháp lý của các bộ lạc da đỏ.
2.1.4 Thẩm quyền của các cơ quan tiến hành bảo hiến
Như đã nói ở trên, Tối cao pháp viện là cơ quan thẩm định tối cao tính hợp hiến
của các đạo luật cụ thể. Bất kỳ tòa án nào cũng có quyền phán quyết tính hợp hiến của
một đạo luật nhưng phán quyết của Tối cao pháp viện - cấp Tòa án cao nhất của hệ
thống Tòa án Mỹ mới có tính bắt buộc đối với các tòa còn lại.
Hoạt động bảo hiến không tách rời khỏi hệ thống Tòa án nói chung, ở đây không
có dạng vụ việc cụ thể về các vấn đề hiến định mà có thể có mặt ở bất cứ vụ việc dân
sự, hình sự, hành chính, thương mại nào. Ở Mỹ không có sự phân chia cụ thể về phạm
vi thẩm quyền trong lĩnh vực hiến pháp mà phạm vi này phụ thuộc vào tính chất của
vụ việc được xem xét. Các Tòa án ở Hoa Kỳ có thể thực hiện tất cả các thẩm quyền
thuộc lĩnh vực bảo hiến như:
- Thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các văn bản pháp luật: đây là thẩm

quyền cơ bản, quan trọng hàng đầu của các tòa án được trao chức năng bảo hiến.
Trong lĩnh vực này, thẩm quyền của Tòa án tối cao liên bang là độc tôn. Cả Tổng
thống và Nghị viện không thể can thiệp vào quyết định của Tòa án tối cao liên bang về
việc xem xét giá trị pháp lý hay việc giải thích một đạo luật. Do đó, Tòa án tối cao liên
bang có thẩm quyền rất lớn trong việc phán xét tính hợp hiến của các văn bản quy
phạm pháp luật. Ví dụ, năm 1850, trên cơ sở tiền lệ của vụ án Marbury kiện Madison,
căn cứ vào quy định của Hiến pháp, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã tuyên bố bác bỏ những
biểu quyết của Nghị Viện nhằm duy trì chế độ nô lệ cho miền Nam. Trong giai đoạn
1861 - 1937, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã tiếp tục làm vô hiệu hóa 72 dự luật của Nghị
Viện và hàng trăm luật khác của các tiểu bang. Tính tối cao của Hiến pháp được bảo
vệ ngay trong cả giai đoạn nước Mỹ tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
một số văn bản quy phạm pháp luật trong thời kỳ này mâu thuẫn với Hiến pháp cũng
bị Tòa án tối cao Hoa Kỳ tuyên bố là vi hiến như Luật Phục hồi công nghiệp quốc gia,
Luật Điều chỉnh nông nghiệp và nhiều dự luật khác trong chương trình cả gói F.D.
Roosevelt khởi sướng.9
9

Xem: TS Lê Vinh Danh, Chính sách công của Hoa Kỳ giai đoạn 1935 - 2001, Nxb. Thống kê 2001, Tr.42


- Thẩm quyền giải thích Hiến pháp và các đạo luật: do Mỹ sử dụng hệ thống án
lệ, nó giữ vị trí chủ yếu trong các nguồn luật, mặc dù không được quy định chính thức
trong các văn bản luật, nhưng tòa án thường xuyên phải giải thích Hiến pháp và các
đạo luật. Bởi vì, trong nhiều trường hợp các quy định của Hiến pháp và luật mới dừng
lại ở những nguyên tắc chung. Việc giải thích Hiến pháp và các đạo luật của tòa án
phải đúng theo tinh thần các quy định của Hiến pháp và văn bản luật đó. Tòa án tối cao
liên bang có vị trí quan trọng trong việc thực hiện thẩm quyền này. Tòa án tối cao liên
bang giải thích các đạo luật của liên bang, phân giải việc giải thích không đúng tinh
thần Hiến pháp, luật, giải quyết mâu thuẫn giữa các tòa án tiểu bang trong việc giải
thích Hiến pháp, luật. Quá trình này thường được tiến hành khi xem xét những vụ việc

cụ thể và gắn liền với việc giải quyết các vụ việc đó. Nội dung giải thích Hiến pháp và
các đạo luật của tòa án có giá trị bắt buộc thực hiện đối với các bên tham gia vụ việc
và trở thành một khuôn mẫu cho các vụ việc tương tự.10
- Các thẩm quyền khác: Quyền bảo hiến của tòa án Hoa Kỳ ngoài việc có thẩm
quyền xem xét và tuyên bố một đạo luật nào đó do Nghị Viện ban hành là vi hiến thì
còn có thẩm quyền xem xét và tuyên bố bất kỳ một quyết định nào đó của Tổng thống
và Chính phủ là vi hiến. Năm 1952 Tòa án tối cao liên bang đã tuyên bố rằng việc
Tổng thống Truman ra lệnh trưng dụng ngành công nghiệp thép là vi hiến vì đã vượt
quá thẩm quyền mà Hiến pháp xác định. Tòa án tối cao Hoa Kỳ cũng đã xem xét hành
động trái Hiến pháp của Tổng thống Nixon khi ông này quyết định sử dụng trái mục
đích những khoản tiền mà Nghị viện đã phân bổ để chi dùng cho việc ban hành những
đạo luật đặc biệt. Đặc biệt năm 1974, trong vụ án Watergate vai trò của Tòa án tối cao
đã nổi bật trong việc ra quyết định buộc Tổng thống Nixon phải nộp các tài liệu liên
quan đến vụ Watergate, mặc dù Nixon đã phải dùng chiêu bài cuối cùng là đặc quyền
của Tổng thống trong việc giữ bí mật các tài liệu của mình theo quy định tại chương II
của Hiến pháp. Chính quyền này của Tòa án tối cao đã mở đường cho Nghị Viện với
thủ tục đàn hạch (impeachment) cách chức Tổng thống trước thời hạn. 11 Ngoài ra Tòa
án còn có thẩm quyền ra tuyên bố về tính hợp hiến, hợp pháp về các cuộc bầu cử Tổng
thống, bầu cử Nghị viện.
Ở đây ta làm rõ thẩm quyền bảo vệ hiến pháp của tòa án tối cao: thông qua hoạt
động xét xử, tòa án tối cao có quyền tuyên bố một đạo luật hay hành động vi hiến; có
10

TS. Vũ Văn Nhiêm, ThS. Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang (2012), Cơ chê giám sát Hiến pháp với việc
bảo đảm quyền con người, Nxb Hồng Đức, năm 2013, tr. 61
11
Xem: Bùi Ngọc Sơn, Chế độ bảo hiến của Mỹ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số tháng 2 năm 2007.


quyền giải thích hiến pháp. Hệ quả là các quy định của hiến pháp có hiệu lực trực tiếp

chứ không chỉ dừng lại ở những quy định mang tính tuyên ngôn. Trong quá trình xét
xử, tòa án tối cao trực tiếp vận dụng hay giải thích những vấn đề được quy định trong
hiến pháp để đưa ra phán quyết. Đây là một vấn đề mang ý nghĩa vô cùng đặc biệt bởi
hiến pháp đã trở nên gần gũi với đời sống xã hội chứ không đơn thuần như một đạo
luật cơ bản rồi căn cứ vào đó các văn bản pháp luật triển khai chi tiết cụ thể hơn để
điều chỉnh xã hội như một số hiến pháp khác.
2.1.5 Quy trình bảo hiến
a) Phương pháp bảo hiến:
Hệ thống tòa án ở Mỹ tiến hành bảo hiến qua hai phương pháp: Giám sát sau và
giám sát cụ thể.
- Giám sát sau: Hệ thống tòa án Mỹ chỉ có quyền ra tuyên bố một đạo luật của
Nghị viện ban hành là hợp hiến hay vi hiến khi đạo luật đã có hiệu lực áp dụng trong
thực tế cuộc sống và có những ảnh hưởng, thiệt hại đối với lợi ích các bên tranh chấp.
Điều này có nghĩa là một đạo luật đang nằm trong dự án, nằm trong vòng thảo luận
của hai viện của Mỹ đều có dấu hiệu vi hiến thì cũng không được can thiệp.
- Giám sát cụ thể: Một vụ án ở Mỹ luôn gắn liền một vụ án cụ thể như Hình sự,
dân sự, hành chính...và nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của các bên tranh chấp
trong vụ án đó. Nghĩa là, khi Tòa án giải quyết vụ án, tòa án phải áp dụng đạo luật do
Nghị viện ban hành để giải quyết và nếu như các bên tranh chấp có nghi ngờ cho rằng
đạo luật này có dấu hiệu trái với Hiến pháp, yều cầu Tòa án cho biết đạo luật này là
hợp hiến hay vi hiến. Khi đó, Tòa án xem xét, tuyên bố là hợp hiến hay vi hiến của đạo
luật. Việc tuyên bố đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi các bên tranh chấp. Điều này
có nghĩa là nếu một đạo luật giả định là vi hiến đã có hiệu lực trong cuộc sống nhưng
nếu các bên tranh chấp không có ý kiến gì thì tòa án Mỹ cũng không can thiệp. Tòa án
Mỹ chỉ ra tuyên bố tính hợp hiến hoặc vi hiến khi mà có yêu cầu của đương sự trong
một vụ án cụ thể và đương sự phải chứng minh được rằng là vi hiến ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền lợi của họ trong một vụ án cụ thể đó.
b) Trình tự thủ tục:
Quá trình xem xét tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật tại tòa khu
vực (Tòa án sơ thẩm, Tòa án phân khu, Tòa án quận)

Không có thủ tục tố tụng hiến pháp riêng mà tố tụng hiến pháp Mỹ gắn liền với
tố tụng thông thường. Không giống như các nước theo mô hình cơ quan chuyên trách
bảo vệ hiến pháp (Hội đồng bảo hiến hoặc Tòa án hiến pháp ), tại các cơ quan tư pháp
đồng thời là cơ quan bảo hiến, Tòa án có thủ tục đặc biệt để xem xét tính hợp hiến của


các văn bản luật hoặc giải quyết những vụ việc liên quan đến hiến pháp theo thẩm
quyền. Ở Mỹ, việc xem xét tính hợp hiến của một văn bản luật và giải quyết đến vấn
đề của hiến pháp được thực hiện theo thủ tục thông thường. Điều đó có ý nghĩa là
trong khi xét xử một vụ việc cụ thể, nếu vấn đề xem xét tính hợp hiến của các đạo luật
được đặt ra và tòa án cho rằng đạo luật được áp dụng có dấu hiệu trái với hiến pháp thì
theo yêu cầu của các bên liên quan hoặc Tòa án tự mình đệ đơn lên Tòa án tối cao yêu
cầu kiểm tra tính hợp hiến của đạo luật đó. Như vậy, việc giám sát tính hợp hiến của
các đạo luật được thực hiện ngay trong quá trình thực hiện thủ tục thông thường tại
Tòa án. Trong phán quyết của tòa án thường có phần nhận định, đánh giá về tính hợp
hiến của đạo luật mà tòa án cho là vi hiến và không thể được áp dụng để xem xét vụ
việc mà tòa án đang giải quyết.12
Khi một đạo luật bị tuyên bố là vi Hiến thì đạo luật đó không còn giá trị áp dụng.
Tuy nhiên, Tòa án tư pháp không có thẩm quyền hủy bỏ hay tuyên bố đạo luật đó vô
hiệu như trong hệ thống giám sát Hiến pháp tập trung. Tòa án chỉ không áp dụng đạo
luật đó trên thực tế. Phán quyết của Tòa án cấp trên có hiệu lực bắt buộc đối với các
tòa án cấp dưới, phán quyết của Tòa án tối cao có giá trị bắt buộc đối với cả hệ thống
tư pháp. Như vậy, về hình thức đạo luật vẫn còn hiệu lực, nhưng thực tế không được
áp dụng nữa.
Quá trình xem xét tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật tại tòa án
tối cao.
Quá trình xem xét tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật tại tòa án tối
cao chủ yếu thực hiện theo thông lệ. Sau khi phân công người chuẩn bị cho từng vụ án,
các thẩm phán tổ chức một buổi họp kín để quyết định những vụ án nào sẽ được đưa ra
tranh luận và những vụ án nào xét xử mà không cần tranh luận. Trường hợp được ít

nhất 4 thẩm phán đồng ý thì thì vụ án được đưa ra tòa án xét xử mà không cần tranh
luận. Nếu có tranh luận, tòa án sẽ giành khoảng 1 giờ để các bên tranh luận về vụ việc
và trả lời các câu hỏi của thẩm phán. Sau đó, các thẩm phán họp kín và quyết định theo
đa số. Một số đặc điểm dễ nhận biết trong quá trình ra các phán quyết của tòa án trong
hệ thống Common Law là việc xét xử thẩm phán đóng vai trò là trung gian. Chính các
luật sư mới là người dẫn dắt vụ án đi đến thời điểm tòa án ra phán quyết. Phán quyết
của tòa án tối cao có giá trị pháp lí cao nhất và có tính hướng dẫn cho tất cả các tòa án
khi xem xét những vu việc tương tự.
12

TS. Vũ Văn Nhiêm, ThS. Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang (2012), Cơ chê giám sát Hiến pháp với việc
bảo đảm quyền con người, Nxb Hồng Đức, năm 2013, tr. 63


2.1.6 Hậu quả pháp lý
Hệ quả pháp lý cuối cùng của những phán quyết của tòa án trong lĩnh vực bảo
hiến dẫn đến tới sự vô hiệu của một đạo luật nào đó trên thực tế. Hậu quả là cơ quan
hành pháp không thể đưa văn bản vi hiến đó áp dụng vào cuộc sống, bởi lẽ không
được tòa án công nhận. Tuy nhiên Tòa án lại không có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung.
Đặc điểm này xuất phát từ nguyên tắc phân quyền, cơ chế kiểm soát và cân bằng
quyền lực giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có nhánh quyền lực nào
chiếm ưu thế. Quyền lập pháp thuộc về nghị viện nên sửa đổi, bổ sung cũng là thẩm
quyền của nghị viện chứ không phải cơ quan tư pháp. Do vậy, tòa án không có thẩm
quyền hủy bỏ hiệu lực cũng như sửa đổi, bổ sung đạo luật được phán xét là vi hiến.
Về nguyên tắc việc tuyên bố một đạo luật hợp hiến hay vi hiến chỉ có giá trị pháp
lý trong một vụ việc cụ thể nhưng trên thực tế do hệ thống pháp luật Hoa Kỳ tôn trọng
nguyên tắc Stare Decisis (tuân thủ các phán quyết trước đây và không phá vỡ những
quy phạm luật được thiết lập trong án lệ) cho nên khi Tòa án tối cao ra một phán quyết
tuyên bố hành vi lập pháp, hành pháp là vi hiến thì tòa án cấp dưới sẽ từ chối áp dụng
hành vi vi hiến đó, từ đó hành vi vi hiến không bị bãi bỏ nhưng cũng không còn phát

sinh hiệu lực trên thực tế.
Do thủ tục xem xét hành vi lập pháp, hành pháp có vi hiến hay không là thủ tục
thông thường, được xem xét theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc tố tụng hình sự tùy theo
tính chất vụ việc, nên khi tòa án đưa ra một phán quyết tuyên bố một hành vi lập pháp,
hành vi vô hiệu thì phán quyết này không có giá trị chung thẩm mà có thể bị kháng
cáo, kháng nghị bởi một cơ quan cao hơn và bị cưỡng chế thi hành như là một vụ án
thông thường.
Ưu điểm: việc chỉ cho phép tòa án phán quyết về một đạo luật là vi hiến mà
không bãi bỏ sẽ giảm đi một quy trình không cần thiết và tốn thời gian bởi về mặt
nguyên tắc, phán quyết này tuy chỉ có giá trị pháp lý trong một vụ việc cụ thể nhưng
lại không thể được áp dụng bởi các tòa án cấp dưới. Đồng thời, việc cho phép cơ quan
có địa vị pháp lý cao hơn so với tòa án đưa ra phán quyết có thể kháng cáo, kháng nghị
sẽ khắc phục được sai lầm của tòa án cấp dưới trong việc đạo luật đó không vi hiến
nhưng lại bị tòa án phán quyết vi hiến, đảm bảo được quyền và nghĩa vụ giữa các bên
tham gia vụ việc.
Nhược điểm: gây khó khăn trong việc nghiên cứu pháp luật và ảnh hưởng đến
khả năng tranh tụng của luật sư. Việc không bãi bỏ các đạo luật bị phán quyết là vi
hiến dễ dẫn đến tình trạng gây nhầm lẫn đối với các đối tượng muốn nghiên cứu về hệ


thống pháp luật Hoa Kỳ hoặc các luật sư muốn dùng án lệ làm bằng chứng phải tốn
nhiều thời gian hơn để lọc bỏ bớt các vụ việc vi hiến. Việc cho phép kháng cáo, kháng
nghị của cơ quan cấp cao hơn đối với phán quyết vi hiến của tòa án sẽ làm giảm tính
tối cao của hiến pháp.
2.2 Cơ chế bảo hiến của Pháp
2.2.1 Cơ sở hình thành
Ở Pháp, các quy định về giám sát Hiến Pháp đã sớm được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 1799 và Hiến pháp năm 1852. Nguyên tắc tối cao của Nghị viện và của pháp
luật đã được duy trì liên tục trong suốt lịch sử lập hiến của quốc gia này, ngoại trừ thời
gian cầm quyền của một số chế độ độc tài. Theo quy định của các bản Hiến pháp này,

Thượng viện có quyền thực hiện việc giám sát Hiến pháp. Một ý định về hạn chế tính
tối cao của Nghị viện đã được đưa ra xem xét dưới nền Cộng hòa thứ IV với sự ra đời
của Ủy ban giám sát Hiến pháp. Ủy ban giám sát Hiến pháp bao gồm Tổng Thống,
Chủ tịch hai viện và 10 thành viên khác do Tổng thống làm Chủ tịch Ủy ban. Trên
thực tế, Ủy ban này chưa bao giờ hoạt động. Năm 1958, cùng với sự ra đời của Hiến
pháp mới, Hội đồng bảo hiến đã được thành lập. Hội đồng bảo hiến được coi là sáng
tạo lớn của các nhà lập pháp thuộc nền Cộng hòa thứ V. Kể từ đó, mô hình Hội đồng
bảo hiến của Pháp trở thành một mô hình giám sát Hiến pháp tiêu biểu của Châu Âu
mà các nhà Luật học thường gọi là mô hình giám sát Hiến Pháp kiểu Pháp.
Nói theo cách khác, Hội đồng bảo hiến Cộng hòa Pháp được thành lập ở Pháp
năm 1958 cũng chính là toan tính chính trị của Tổng thống Cộng hòa Pháp lúc bấy giờ
(Charles Dergaulle) với mục đích làm suy yếu Nghị Viện của Cộng Hòa Pháp, có thể
xem Hội đồng bảo hiến Cộng hòa Pháp như một công cụ trong tay Tổng thống Cộng
hòa Pháp để đương đầu và làm suy yếu Nghị Viện trước ảnh hưởng tâm lý suy tôn
Nghị Viện của người Pháp trong cuộc CMTS 1789-1958. Khi Charles Dergaulle nhận
thấy lí thuyết Nghị Viện tối cao không còn phù hợp và lỗi thời ( sau cách mạng tư sản,
giai cấp tư sản giành quyền lực và lật đổ chế độ phong kiến với việc đề cao Nghị viện,
Châu âu lục địa đều suy tôn chính thể Cộng hòa Nghị viện (Cộng hòa Đại Nghị).
Nhưng nước Pháp theo chế độ đa Đảng và không có Đảng nổi trội dẫn đến Nghị viện
phức tạp, Nghị viện trở thành nơi mà các đảng phái tranh giành quyền lực với nhau.
Bên cạnh đó, Chính thể đại nghị lại không đề cao Tổng thống (vai trò của nguyên thủ
quốc gia khá mờ nhạt ). Chính vì thế, năm 1958, Charles Dergaulle lên làm Tổng
thống, thiết lập nền Cộng hòa thứ V ở Pháp, với quyết tâm làm suy yếu Nghị Viện,
tăng cường quyền lực của Tổng Thống. Và để Tổng Thống có thể đương đầu với Nghị


Viện, buộc Tổng Thống phải có quyền lực vô hiệu hóa một đạo Luật do Nghị Viện ban
hành bằng quyền đặc trưng của Tổng thống là phủ quyết luật, chứng minh một đạo luật
là vi hiến. Charles Dergaulle đã thành lập Hội đồng bảo hiến Cộng hòa Pháp bao gồm
những chuyên gia, những người có uy tín, hiểu biết và sử dụng Hội đồng bảo hiến như

một công cụ trong tay để đương đầu với Nghị viện.
2.2.2 Chủ thể có quyền yêu cầu bảo hiến
Quyền khởi kiện lúc mới thành lập chỉ thuộc về 4 chủ thể: Tổng thống Cộng Hòa
Pháp, Thủ tướng, Chủ tịch Thượng viện, Chủ tịch Hạ Viên được yêu cầu Hội đồng bảo
hiến xem xét về tính hợp hiến của một đạo luật. Đến năm 1974 quyền khởi kiện được
mở rộng, các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ được quyền đề nghị Hội đồng xem xét tính
hợp hiến của các văn bản luật với điều kiện phải có 60 hạ nghị sĩ, 60 thượng nghị sĩ
yêu cầu. Tháng 3 năm 2010 quyền khởi kiện được mở rộng cho công dân Cộng hòa
Pháp.
2.2.3 Chủ thể tiến hành bảo hiến
Hội đồng bảo hiến Cộng hòa Pháp gồm 9 thành viên được hình thành theo
nguyên tắc: Tổng thống bổ nhiệm 3 người; Chủ tịch Thượng Viện bổ nhiệm 3 người;
Chủ tịch Hạ viện bổ nhiệm 3 người. Như vậy, có một vài nhánh quyền lực tham gia
vào việc hình thành các cơ quan giam sát Hiến pháp, ở Pháp, Hội đồng bảo hiến được
hình thành với sự tham gia của nhánh lập pháp và hành pháp. Việc phân chia quyền
hạn giữa các nhánh quyền lực khi thành lập cơ quan giám sát Hiến pháp chuyên trách
có mục đích nhằm đa dạng hóa thành phần, tạo ra sự độc lập cần thiết của cơ quan này
và tránh khả năng phải phục tùng một nhánh. Ngoài ra ở mức độ nào đó, nó đưa lại
cho cơ quan giám sát Hiến pháp tính chất đại diện chính trị, nhất là với sự tham gia
của Nghị viện có thành phần chủ yếu theo các đảng phái chính trị. Sự thể hiện trên
thực tế quan điểm này là việc phân chia các ghế thẩm phán giữa các đảng phái chính
trị chủ chốt theo thỏa thuận trước.13
- Nhiệm kỳ của Hội đồng bảo hiến: 9 năm; qua 3 năm thì bổ nhiệm 1/3 thành
viên HĐ. Ở mô hình bảo hiến tập trung, Hiến pháp phần lớn các nước đều quy định
số lượng thành viên của cơ quan này. Để thay đổi về thành phần số lượng thì phải thay
đổi Hiến pháp-điều không hề đơn giản.
- Tổng Thống Cộng hòa Pháp sẽ chỉ định 1 trong 3 thành viên do ông bổ nhiệm
là Chủ tịch Hội đồng bảo hiến Cộng hòa Pháp ( đây có thể xem là biểu hiện của việc
Tổng thống sử dụng Hội đồng bảo hiến Cộng hòa Pháp như một công cụ trong tay để
13


Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp, Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam, Ths. Nguyễn Mạnh Hùng - Lưu Dức
Quang - Ths. Nguyễn Văn Trí, Nxb Hồng Đức, Năm 2014 Tr.228


nâng cao quyền lực). Ngoài ra, các Tổng thống pháp khi hết nhiệm kỳ sẽ là thành viên
đương nhiên của Hội đồng bảo hiến Cộng hòa Pháp.
2.2.4 Thẩm quyền của cơ quan tiến hành bảo hiến
- Hội đồng bảo hiến Cộng hòa Pháp lúc mới thành lập được trao thẩm quyền giải
thích Hiến pháp, xem xét về tính hợp hiến của một đạo luật do Nghị viện ban hành.
Việc giải thích Hiến pháp của Hội đồng bảo hiến mang tính chính thức và bắt buộc đối
với mọi cơ quan ( lập pháp, hành pháp, tư pháp), tổ chức, cá nhân và với chính Hội
đồng bảo hiến. Đây là thẩm quyền rất quan trọng bởi lẽ các quy định của Hiến pháp
thường mang tính tuyên ngôn và xác lập nguyên tắc hơn là các quy định cụ thể. Nhìn
chung thẩm quyền của Hội đồng bảo hiến hẹp hơn so với Tòa án Hiến pháp, thẩm
quyền của Hội đồng bảo hiến chủ yếu tập trung vào việc giám sát trước, giám sát các
cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý. Mục đích của việc giám sát trước nhằm hạn chế việc
thông qua những văn bản không hợp hiến, tránh việc phải bãi bỏ những văn bản vi
hiến, trên cơ sở đó đảm bảo sự ổn định trong quá trình lập pháp, tránh lãng phí thời
gian, công sức cả Nghị viện và các cơ quan có trách nhiệm. Giám sát trước luôn là
giám sát trừu tượng, giám sát về nội dung và sự phù hợp với Hiến pháp, không phải là
giám sát cụ thể vì đạo luật xem xét cụ thể ở đây chưa có hiệu lực. Hoạt động này nhằm
đảm bảo các đạo luật khi có hiệu lực không mâu thuẫn với Hiến pháp, không phá vỡ
tính thống nhất, trật tự của hệ thống pháp luật và xâm phạm các quyền cơ bản của
công dân. Đối tượng giám sát Hiến pháp là các đạo luật đã được Nghị viện thông qua,
đang trong thời gian chờ công bố và các điều ước quốc tế đang trong thời gian chờ ký
kết hoặc phê chuẩn. Hội đồng bảo hiến thường không có quyền tự mình giám sát, kiểm
tra tính hợp hiến của các đạo luật mà thẩm quyền này được thực hiện trên cơ sở yêu
cầu của Tổng thống, Chính phủ, Chủ tịch Nghị viện hoặc một số Nghị sỹ nhất định.
Khi có cơ sở cho rằng một đạo luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp về mục đích, nội

dung, thủ tục ban hành…chủ thể có quyền yêu cầu Hội đồng bảo hiến sẽ yêu cầu Hội
đồng bảo hiến xem xét về tính hợp hiến của đạo luật đó.
- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về bầu cử và trưng cầu ý dân: Điều 58 Hiến
pháp Pháp quy định:”Hội đồng bảo hiến kiểm soát sự hợp lệ của cuộc bầu cử Tổng
thống. Hội đồng xem xét đơn khiếu nại và công bố kết quả”. 14 Hội đồng bảo hiến thực
hiện quyền này rất chặt chẽ. Khi bầu cử Tổng thống, Chính phủ phải thông báo cho
Hội đồng bảo hiến toàn bộ tiến trình của cuộc bầu cử như: thời gian biểu, việc bỏ
phiếu…Hội đồng bảo hiến có trách nhiệm kiểm tra quá trình lựa chọn cũng như tư
14

Nguyễn Đăng Dung, Luật Hiến pháp đối chiếu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, tr.567


cách của các ứng cử viên Tổng thống. Bốn mươi tám giờ sau khi kết thúc bỏ phiếu
vòng một, Hội đồng bảo hiến phải công bố tên của người thắng cử hoặc hai ứng cử
viên có số phiếu cao nhất. Trong vòng mười ngày sau khi kết thúc bỏ phiếu vòng hai,
Hội đồng bảo hiến phải công bố tên Tổng thống đắc cử. Hội đồng bảo hiến có trách
nhiệm kiểm tra khoản tiền mà các ứng cử viên sử dụng để tranh cử trong thời gian hai
tháng sau cuộc bầu cử, trường hợp Tổng thống mới có bất cứ sai phạm nào trong việc
sử dụng khoản tiền này thì Hội đồng bảo hiến sẽ tuyên bố việc mất tư cách Tổng
thống; các ứng cử viên khác nếu có vi phạm sẽ chịu trách nhiệm cá nhân. Trong việc
giám sát bầu cử, vận động bỏ phiếu, Hội đồng bảo hiến tham gia với tư cách là cơ
quan tham vấn. Bên cạnh đó, Hội đồng bảo hiến còn có quyền kiểm soát các cuộc bầu
cử Thượng viện và Hạ viện.
- Thẩm quyền tư vấn: Trong Hiến pháp 1958 của Cộng hòa Pháp, tuy thẩm quyền
tư vấn của Hội đồng bảo hiến không được dự kiến trước nhưng nó đã được quy định
cụ thể trong đạo luật về tổ chức và hoạt động của Hội đồng bảo hiến. Cụ thể: Hội đồng
bảo hiến tham gia vào quá trình thiết lập vị trí Tổng thống khi Tổng thống đương
nhiệm không thực thi được nhiệm vụ của mình.Hội đồng bảo hiến đưa ra ý kiến cho
Tổng thống quyết định những biện pháp đặc biệt trong những hoàn cảnh đặc biệt .Điều

16 của Hiến pháp Pháp năm 1958 đã quy định: “Khi nào những chế định của nền
Cộng hòa, sự độc lập của quốc gia, sự toàn vẹn của đất đai hay sự thi hành hiệp ước
quốc tế bị đe dọa nghiêm trọng và khẩn cấp, nếu hoạt động điều hòa của các cơ quan
công quyền bị ngưng trệ thì Tổng thống có thể áp dụng những biện pháp đặc biệt sau
khi đã tham khảo ý kiến của Thủ tướng, Chủ tịch Nghị viện và Chủ tịch Hội đồng bảo
hiến, đồng thời phải thông báo cho nhân dân biết về những quy định của Tổng thống”.
Trong khi sử dụng quyền của mình để ban bố tình trạng khẩn cấp, Tổng thống không
thể giải tán hay hoãn phiên họp của Nghị viện: Vì vậy, Hiến pháp đã trù liệu: “Các
biện pháp trên phải nhằm mục đích đảm bảo cho các cơ quan nhà nước đủ phương
tiện thi hành phận sự trong thời gian ngắn”.15 Trên thực tế, quy định này chỉ được áp
dụng một lần ở Pháp vào năm 1961 khi bốn tướng Pháp ở Angiêri nổi dậy.
- Thầm quyền giám sát Hiến pháp trong việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền
ban hành văn bản giữa Nghị viện và Chính Phủ: Ở Pháp, Hội đồng bảo hiến giải quyết
tranh chấp về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Nghị viện và
Chính phủ, xác định các lĩnh vực do văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ điều
15

Nguyễn Đăng Dung, Luật Hiến pháp đối chiếu, sđd, tr.556.


chỉnh trong trường hợp có xung đột. Quyền được yêu cầu Hội đồng bảo hiến giải
quyết tranh chấp giao cả cho Chính phủ và Nghị viện. Hội đồng bảo hiến đưa ra phán
quyết về vấn đề này ở giai đoạn soạn thảo các đạo luật. Chính phủ có thể phản đối quá
trình chuẩn bị một đạo luật ở Nghị viện vì cho rằng đạo luật này quy định những vấn
đề không thuộc thẩm quyền của Nghị viện được xác định tại Điều 34 của Hiến pháp
1958 CH Pháp. Trong trường hợp này, trước hết Chính phủ và Nghị viện phải thỏa
thuận với nhau để giải quyết vấn đề, trường hợp không thỏa thuận được, Hội đồng bảo
hiến sẽ giải quyết theo yêu cầu của các bên và ra quyết định trong thời hạn 8 ngày.
Trong thời gian này, việc thảo luận hay sửa đổi các đạo luật đó bị đỉnh chỉ. Cơ quan đề
nghị Hội đồng bảo hiến giải quyết tranh chấp phải thông báo cho cơ quan nhà nước có

liên quan. Hội đồng bảo hiến có thể hủy bỏ đạo luật nếu xét thấy nội dung văn bản
không thuộc thẩm quyền của Chính Phủ.16 Hội đồng bảo hiến Cộng hòa Pháp trong
quá trình phát triển của mình đã dần dần được tư pháp hóa. Năm 1974, quyền yêu cầu
xem xét tính hợp hiến được mở rộng ra cho một nhóm các nghị sĩ. Đặc biệt, kể từ ngày
1 tháng 3 năm 2010, Công dân thường cũng có quyền yêu cầu xem xét về tính hợp
hiến của các đạo luật được áp dụng trong một vụ án cụ thể được xét xử bởi một tòa án
thường. Tòa án tối cao sẽ trình những yêu cầu hợp lý lên Hội đồng bảo hiến. Nếu Hội
đồng bảo hiến tuyên bố đạo luật bất hợp hiến, đạo luật đó sẽ không có hiệu lực. Với
những cải cách này, chứng tỏ Hội đồng bảo hiến đang dần dần chuyển sang giống như
Tòa án Hiến pháp: Khả năng khởi kiện vụ án Hiếp pháp mở rộng đến người dân,
không chỉ kiểm tra các đạo luật trước khi ban hành mà còn có khả năng tuyên bố vô
hiệu một đạo luật sau khi ban hành.
- Giám sát Hiến pháp về vấn đề quyền con người: Ở Lời nói đầu của Hiến pháp năm
1958, các quy định cụ thể về quyền con người không được ghi nhận trong Hiến pháp
của Pháp. Hội đồng bảo hiến căn cứ vào Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1958, Tuyên
ngôn về nhân quyền và dân quyền năm 1978 để kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật
liên quan đến vấn đế quyền con người. Như vậy, quyền xem xét tính hợp hiến của các
đạo luật không chỉ thu hẹp trong phạm vi các điều của Hiến pháp mà còn được mở
rộng sang cả phần lời nói đầu và các nguyên tắc chung về quyền con người. Các giáo
sư luật học Pháp đánh giá rất cao ý nghĩa pháp lí của sự kiện này. J.Robert đã nhận xét:
“Chưa bao giờ có một bước tiến quan trọng như vậy trong việc bảo vệ quyền con
16

Xem: Đặng Văn Chiến, Cơ chế bảo hiến, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2005.


người và tự do công dân. Hội đồng bảo hiến đã làm một cuộc các mạng khi công nhận
hiệu lực pháp lí của Lời nói đầu”.17
2.2.5 Quy trình Bảo hiến
Khác với thủ tục giải quyết các vụ án thường khác. Pháp luật của cộng hòa Pháp

cũng giống như của các nước đều có những điều khoản quy định về thủ tục xem xét và
giải quyết vụ việc tại Tòa án Hiến pháp. Cụ thể như sau:
Hội đồng bảo hiến là cơ quan thường trực. Hội đồng tổ chức các phiên họp để
xem xét và ra phán quyết trên cơ sở các đơn gửi đến. Thành viên của Hội đồng làm
việc tập thể và quyết định theo đa số. Đối với từng loại việc cụ thể, mà Hội đồng bảo
hiến thực hiện quyền giám sát Hiến pháp của mình theo các trình tự, thủ tục khác
nhau:
a) Phương pháp bảo vệ Hiến pháp:
- Hội đồng bảo hiến sử dụng hai phương pháp sau để tiến hành bảo vệ Hiến pháp:
Kiểm tra, giám sát tính hợp Hiến trước khi một đạo luật được ban hành: Tức là,
xem xét tính hợp Hiến, hợp pháp của một đạo luật khi đạo đạo luật đó còn là dự luật
và còn nằm trong vòng thảo luận, xem xét của hai viện. Khi đạo luật đó đã có hiệu lực,
đi vào thực tế cuộc sống thì không còn là đối tượng xem xét của Hội đồng bảo hiến.
Kiểm tra, giám sát tính hợp Hiến của một đạo luật theo yêu cầu của Tổng thống
hay còn gọi là giám sát trừu tượng : Nếu như có yêu cầu của Tổng thống Cộng hòa
Pháp hoặc của thủ tướng Chính phủ thì Hội đồng bảo hiến sẽ có ý kiến xem xét theo
yêu cầu của Tổng thống theo Điều 54 của Hiến pháp Cộng hòa Pháp.
b) Quy trình, thủ tục:
Bước 1: Thụ lý
Việc thụ lý các yêu cầu liên quan đến giám sát Hiến pháp được giao cho Tổng
thư kí. Trong giai đoạn này, Tòa án Hiến pháp kiểm tra về quyền yêu cầu của chủ thể,
sự phù hợp giữa yêu cầu với thẩm quyền xét xử của Tòa án Hiến pháp, cơ sở pháp lí
của yêu cầu, những vấn đề liên quan đến thời hạn
Bước 2: Nghiên cứu hồ sơ vụ án
Sau khi thụ lý, Chủ tịch Hội đồng bảo hiến chỉ định một số thành viện Hội đồng
bảo hiến nghiên cứu hồ sơ vụ việc. Các thành viên này có trách nhiệm thu thập chứng
cứ, tài liệu cần thiết và lấy ý kiến của Chính phủ.
Bước 3: Ra quyết định
Sau đó, Hội đồng bảo hiến mở các phiên họp và ra quyết định. Trước đây, các
phiên họp của Hội đồng bảo hiến là các phiên họp kín. Hôi đồng xem xét, quyết định

các vấn đề thuộc thẩm quyền trên cơ sở các tài liệu viết do các bên cung cấp và thu
17

Dẫn theo Nguyễn Đức Lam, Cơ chế bảo hiến: góc nhìn tham khảo, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2003.


thập.Từ khi bắt đầu xem xét vụ việc đến khi công bố quyết định, tất cả các tài liệu
cũng như tiến trình giải quyết vụ việc đều giữ bí mật và trong các phiên họp này không
có sự tham gia tranh luận của các bên có liên quan. Tuy nhiên, đến năm 1983 quyết
định khởi tố vụ việc và quyết định của Hội đồng bảo iến đã được đăng trên Công báo.
Chủ tịch Hội đồng bảo hiến điều khiển phiên họp theo trình tự như tại phiên tòa
hành chính theo thủ tục hành chính- mệnh lệnh( không có nguyên đơn và bị đơn,
không có tranh luận và tranh tụng tại phiên tòa). Phiên họp của Hội đồng bảo hiến
được coi là hợp lệ khi có ít nhất 7/9 thành viên tham dự thì mới được tiến hành.Đạo
luật sẽ vi Hiến trong trường hợp có quá nửa tổng số thành viên tham dự biểu quyết tán
thành cho rằng đạo luật đó là vi hiến. Trong trường hợp biểu quyết ngang phiếu, Chủ
tịch Hội đồng bảo hiến có quyền quyết định. Hội đồng bảo hiến sẽ xem xét và cho ý
kiến trong hạn một tháng. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp, theo yêu cầu của
Chính phủ, thời hạn này có thể rút gọn còn 8 ngày ( Điều 61 Hiến pháp 1958 Cộng
hòa Pháp). Trong thời gian Hội đồng bảo hiến xem xét, việc công bố đạo luật bị tạm
dừng18. Do bản chất của bảo Hiến là những toan tính chính trị của Charles Dergaulle,
chủ tich Hội đồng bảo hiến là nhữngg người “thân cận” của Tổng thống nên phải chờ
trong khoảng thời gian để chủ tịch kịp trao đổi với Tổng thống Cộng hòa Pháp. Hội
đồng bảo hiến Cộng hòa Pháp chỉ có quyền ra tuyên bố về tình trạng hợp Hiến hay vi
Hiến của một đạo luật, một dự luật có giá trị tham khảo cho tổng thống để đương đầu
với Nghị viện. Khi có thành viên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch họ có
quyền ghi ý kiến của mình để phản đối Chủ tịch Hội đồng bảo hiến có thể trao đổi
thông tin, tài liệu với cơ quan có liên quan.
Trong trường hợp, thực hiện thẩm quyền tư vấn cho Tổng thống hoặc Chính phủ,
Hội đồng bảo hiến không ra quyết định mà chỉ đưa ra ý kiến tư vấn về những vấn đề

được đề nghị.
2.2.6 Hậu quả pháp lý của phán quyết:
Quy trình xét xử, giải quyết một vụ việc tại Tòa án Hiến pháp được kết thúc bằng
việc hội đồng xét xử đưa ra phán quyết dưới hình thức quyết định. Trường hợp, Hội
đồng bảo hiến tuyên bố đạo luật bị xem xét có một hoặc một số điều khoản trái với
Hiến pháp và các điều khoản này là phần không thể tách rời của đạo luật này vẫn có
thể được công bố nhưng các điều khoản vi hiến sẽ bị loại trừ. Tổng thống cũng có thể
yêu cầu Nghị viện thảo luận lại về các điều khoản đó. Trường hợp quy chế hoạt động
của Nghị viện có khoản vi hiến hoặc phải ban hành một quy chế mới để thay thế.
18

Xem: Đặng Văn Chiến, Cơ chế bảo hiến, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2005


Trường hợp điều ước quốc tế (ĐƯQT) có quy định trái với Hiến pháp thì việc gia nhập
hoặc phê chuẩn ĐƯQT đó không thể được thực hiện cho đến khi Hiến pháp được sửa
đổi. Trường hợp bầu cử Tổng thống, bầu cử Nghị viện phải trưng cầu dân ý không hợp
lệ thì phải tổ chức bầu cử lại theo quy định của pháp luật. Điều 62 Hiến pháp Cộng
hòa Pháp năm 1958 quy định: “Một điều khoản bị tuyên bố là không hợp hiến thì
không thể được ban bố hoặc đưa ra thi hành. Các quyết định của Hội đồng bảo hiến
không thể bị kháng nghị. Các cơ quan hành chính và tư pháp có nghĩa vụ phải chấp
hành”19. Như vậy, quyết định của Hội đồng bảo hiến là quyết định chung thẩm, không
thể bị xem xét hay xét xử lại bởi bất cứ cơ quan, tổ chức nào và có hiệu lực pháp lí bắt
buộc đối với tất cả các chủ thể.
2.3 So sánh cơ chế bảo hiến của Pháp và Hoa Kỳ
2.3.1 Điểm tương đồng giữa cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và Pháp.
Mục đích đặt ra cơ chế bảo Hiến
Thứ nhất là việc ghi nhận quyền tự nhiên của con người với mục đích khẳng
định với Nhà nước các quyền tự nhiên đó là luật tự nhiên, lẽ công bằng không do Nhà
nước ban phát thì cũng sẽ không do Nhà nước tước đoạt; bản Hiến pháp như một ranh

giới cấm, rào cản, một giới hạn tối thiểu để Nhà nước trong quá trình điều hành quản lí
không thể xâm phạm vào ranh giới đó – quyền tự do cơ bản của công dân.
Thứ hai chính do nguy cơ bị vi phạm bởi nhiều chủ thể, nhất là từ phía Nhà
nước, nhà cầm quyền, bởi bản tính tùy tiện, lạm quyền, tha hóa quyền lực, vì có sự
phân chia quyền lực Nhà nước nên cần có sự kiềm chế, đối trọng lẫn nhau giữa các
nhánh quyền lực nên vì vậy phải có cách bảo vệ Hiến pháp.
Như vậy, với mục đích ra đời nhằm bảo vệ nhân quyền, được xem là đạo luật cơ
bản của quốc gia, là luật gốc, có hiệu lực pháp lý cao nhất trong toàn bộ hệ thống pháp
luật quốc gia, đòi hỏi các văn bản pháp luật khác do các cơ quan Nhà nước ban hành
đều phải phù hợp với Hiến pháp. Tuy nhiên, vì Hiến pháp là văn bản ấn định quyền
lực, mà quyền lực là do con người thực hiện nên có nguy cơ bị tha hóa bởi các chủ thể
mang quyền lực Nhà nước, dễ dẫn đến tình trạng tùy tiện, lạm quyền, sai quyền,.. Vì
vậy mà rất cần một cơ quan để vô hiệu hóa, bảo vệ Hiến pháp khi mà quyền lực đó có
sự tranh chấp, bị lạm dụng.
Kết luận: Do mục đích bảo vệ nhân quyền, bảo vệ tính tối cao nhưng dễ bị xâm
phạm của Hiến pháp nên cần một cơ chế bảo vệ Hiến pháp, mục đích cuối cùng của cơ
chế bảo hiến của Mỹ cũng như Pháp là bảo vệ nhân quyền, bảo vệ Hiến pháp.
19

Nguyễn Đăng Dung, Luật Hiến pháp đối chiếu, sđd, tr.568.


Thẩm quyền của cơ quan tiến hành bảo Hiến
Về thẩm quyền của cơ quan bảo Hiến thì có thể nói, không chỉ cơ quan bảo Hiến
của Hoa Kì và Pháp mà tất cả các mô hình bảo Hiến của các cơ quan trên thế giới đều
có thẩm quyền trước hết và chủ yếu của mọi mô hình bảo hiến đều hướng đến là:
- Được tuyên bố một đạo luật do Nghị viện ban hành là hợp hiến hay vi hiến và
từ chối áp dụng đạo luật đó.
Ngoài ra, chức năng cơ bản của cơ quan tiến hành bảo hiến trong cơ chế bảo hiến
của Hoa Kỳ và Pháp cũng có những điểm tương đồng như:

- Chức năng giải quyết khiếu nại, khởi kiện của công dân liên quan đến quyền,
nhân quyền được Hiến pháp ghi nhận khi bị xâm hại.
- Kiểm tra, tuyên bố về tính hợp hiến, hợp pháp của việc trưng cầu dân ý, các
cuộc bầu cử Tổng thống, bầu Nghị viện và công bố kết quả. Quyết định của Hội đồng
Hiến pháp là quyết định cuối cùng bắt buộc thi hành với tất cả cơ quan nhà nước và
không được khiếu nại.
Quyền khởi kiện
Ở Hoa Kỳ, cơ chế bảo hiến quy định quyền khởi kiện thuộc về các bên tranh
chấp trong một vụ án cụ thể (có thể theo lời tư vấn, yêu cầu của Luật Sư). Đương sự
phải chứng minh được rằng nó vi hiến sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi gì của họ,
và nó là căn cứ, cơ sở để giải quyết một vụ án thông thường.
Còn ở Pháp, khi mới thành lập Hội đồng bảo hiến thì chỉ có Tổng Thống được
quyền nêu vấn đề, yêu cầu Hội đồng bảo hiến xem xét nhưng đến năm 1974 thì quyền
này mở rộng cho 60 Thượng Nghị Sĩ và Hạ Nghị Sĩ và đến tháng 3 năm 2010 thì
quyền này mở rộng hơn cho toàn thể công dân nước Pháp.
Như vậy có thể thấy, điểm tương đồng ở đây là quyền khởi kiện – quyền tiếp cận
công lý hiến pháp của hai cơ chế nước Hoa Kỳ và nước Pháp đều trao cho công dân.
Công dân có quyền khởi kiện những vấn đề liên quan đến nhân quyền được Hiến pháp
ghi nhận cho.
Hậu quả pháp lý của các phán quyết
- Ở Hoa Kỳ, Tòa án chỉ có quyền ra tuyên bố một đạo luật của Nghị Viện hợp
hiến hoặc không hợp hiến, không có quyền yêu cầu Nghị Viện sửa đổi, bổ sung hay
làm lại luật đó. Về nguyên tắc, các phán quyết về Hiến pháp của Tòa án trong mô hình
phi tập trung có giá trị rất hẹp
- Ở Pháp, Hội đồng bảo hiến của Pháp chỉ có quyền ra tuyên bố về tình trạng hợp
Hiến hay không hợp hiến của một dự luật, không có quyền yêu cầu Nghị Viện sửa đổi,
bổ sung hay làm lại luật đó.
Như vậy, có thể thấy điểm tương đồng giữa hai cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và
Pháp ở đây là hậu quả pháp lý của phán quyết về tính hợp hiến của đạo luật do Nghị



Viện ban hành, cơ quan bảo hiến chỉ có quyền tuyên bố một đạo luật của Nghị Viện là
vi hiến hay hợp hiến chứ không có quyền yêu cầu Nghị Viện sửa đổi, bổ sung, làm lại
hay hướng dẫn làm lại như thế nào cho hợp hiến.
2.3.2 Điểm khác biệt giữa cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ và Pháp

Tiêu chí
Mô hình bảo

Hoa Kỳ
Phi tập trung.

Pháp
Tập trung.

Bắt đầu từ việc Chánh án Tối

Do Hiến pháp quy định và trao

cao Marshall đưa ra phán quyết

cho nhưng thực tế Hội đồng

giải quyết vụ án Marbury kiện

bảo hiến Cộng hòa Pháp là

Madison năm 1803: Marshall đã

công cụ làm suy yếu Nghị viện


đưa ra các tuyên bố sau: 1) Hiến

để tăng cường quyền lực cho

hiến

pháp là luật tối cao của đất nước; Tổng thống.
2) Những luật hay quyết định
được đưa ra bởi cơ quan lập
pháp là một bộ phận của Hiến
Cơ sở hình
thành

pháp và không được trái với
Hiến pháp; 3) Thẩm phán, người
đã từng tuyên thệ bảo vệ Hiến
pháp, phải tuyên bố hủy bỏ
những luật, lệ quy định nào của
cơ quan lập pháp mâu thuẫn với
Hiến pháp => Ba tuyên bố trên
đã xác lập chức năng bảo hiến
của tòa án và quyền tài phán của
tòa án về các quyết định của lập
pháp và hành pháp liên quan đến

Chủ thể tiến
hành bảo hiến

Hiến pháp.

Giao cho hệ thống các Tòa án,

Hội đồng bảo hiến- cơ quan

kể cả Tòa án các bang và hệ

duy nhất có thẩm quyền bảo

thống Tòa án liên bang thẩm

hiến. Gồm 9 thành viên được

quyền phán quyết tính hợp hiến

hình thành theo nguyên tắc:


×