Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

SKKN Sử dụng thơ – văn để tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ học Lịch sử Việt Nam lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.17 KB, 22 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
Mục lục

1

Phần 1 : MỞ ĐẦU

2

1. Lý do chọn đề tài

2

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3

4. Phương pháp nghiên cứu

3

5. Điểm mới của đề tài

3



Phần 2 : NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận

4

2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

4

3. Một số giải pháp thực tế gây hứng thú học tập lịch sử bằng việc sử dụng
thơ – văn
6
a) Phương pháp sử dụng thơ – văn

6

b) Cách sử dụng tài liệu thơ - văn trong dạy học lịch sử Việt Nam
lớp 11
7
4. Kết quả đạt được

11

5. Một số lưu ý khi sử dụng tài liệu thơ – văn
trong giờ học lịch sử

12

Phần 3: KẾT LUẬN


13

Tài liệu tham khảo

14

Phụ lục

15

Giáo án tham khảo

15

Danh sách học sinh và điểm số chứng minh

22


2

Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, dạy và học lịch sử đang thu hút sự quan tâm chú ý
của toàn xã hội. Trước sự quan tâm ấy , chúng tôi – những giáo viên dạy môn lịch
luôn trăn trở về việc dạy của mình. Làm sao để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử,
làm sao để các em yêu thích môn lịch sử và học môn lịch sử ngày càng có hiệu quả
hơn.
Là môn học có nhiều ưu thế trong việc giáo dục tư tưởng tình cảm đối với thế

hệ trẻ, những kiến thức lịch sử không chỉ đơn thuần dạy cho các em biết yêu, ghét
trong đấu tranh giai cấp, biết yêu quý lao động, trân trọng cái đẹp mà còn góp phần
định hình cho học sinh cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống bởi “Bắt nguồn từ một
sự thực là trong khoa học Lịch sử có những yếu tố nghệ thuật”.
Ngày nay, dưới sự phát triển của khoa học kĩ thuật thì vai trò môn Lịch sử
trong các trường học đã dần bị mờ nhạt bởi các môn học khoa học tự nhiên khác. Sở
dĩ có điều đó là vì trong ý nghĩ của nhiều người thì môn Lịch sử thực sự không cần
thiết, mà chỉ là một môn học phụ. Thực tế trong những năm gần đây, chất lượng thi
vào đại học của khối C rất thấp mà chủ yếu là ở môn Lịch sử, các điểm cao trong môn
Lịch sử ngày càng hiếm, thậm chí số điểm liệt trong môn này lại có xu thế gia tăng.
Vậy làm thế nào để nâng cao hơn chất lượng dạy và học của môn này? Làm thế nào
để thu hút sự chú ý của học sinh trong giờ dạy học lịch sử? Làm thế nào để giúp học
sinh dễ dàng ghi nhớ các sự kiện lịch sử?… Đó là vấn đề được đặt ra không chỉ đối
với mỗi thầy cô giáo mà cả đối với các em học sinh và các ban ngành khác.
Để giải quyết vấn đề trên, giáo viên phải tổ chức một cách linh hoạt các hoạt
động của học sinh từ khâu đầu tiên đến khâu kết thúc giờ học, áp dụng nhiều phương
pháp dạy học, ví như: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan; phương pháp hướng
dẫn học sinh ghi nhớ sự kiện lịch sử, phương pháp liên môn, nắm vững và sử dụng
sách giáo khoa, vở bài tập, tiến hành công tác ngoại khoá... Trong đó việc dạy học
liên môn được xem là một trong những phương pháp thu hút sự chú ý của học sinh
vào nội dung bài học lịch sử, đồng thời giúp học sinh nắm vững hơn những kiến thức
lịch sử.
Nhằm góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch
sử nói riêng, đồng thời giảm bớt số lượng học sinh yếu kém trong nhà trường và phát
huy hết năng lực của các em khá giỏi nắm chắc được kiến thức bài học và hiểu sâu
hơn các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử, tôi đã chọn chủ đề: “Sử dụng thơ – văn
để tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ học Lịch sử Việt Nam lớp 11” để thực
hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm trong năm học 2014 - 2015 vừa qua.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu



3

Qua việc nghiên cứu đề tài bản tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ về
phương pháp dạy học lịch sử nhằm tăng cường sự hứng thú của học sinh trong giờ
học lịch sử. Đồng thời qua đề tài sẽ giúp chúng ta xác định được những nội dung văn
thơ nào có thể và cần sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu việc “Sử dụng thơ – văn để tạo sự hứng thú cho học
sinh trong giờ học Lịch sử Việt Nam lớp 11”. Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng
cho đề tài này là lớp 11a4 và 11a10 của trường THPT Trần Văn Bảy.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng học môn lịch sử của học sinh.
- Khảo sát kiến thức Lịch sử của học sinh thông qua bài kiểm tra.
- Sưu tầm tư liệu về thơ – văn có liên quan đến những nội dung, sự kiện, nhân
vật lịch sử.
- Áp dụng các nội dung sưu tầm tương ứng, phù hợp với từng tiết dạy Lịch sử.
- Đánh giá kết quả thực hiện qua các bài kiểm tra.
5. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Trong những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa ra ý tưởng dạy học liên
môn và việc dạy này đã được áp dụng ở một số nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, dạy học
liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng. Tuy nhiên việc áp dụng cụ thể
trong từng môn học, trong từng bài học thì vẫn còn lẻ tẻ, rời rạc. Đề tài sáng kiến kinh
nghiệm: “Sử dụng thơ – văn để tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ học Lịch
sử Việt Nam lớp 11” sẽ góp một phần nhỏ vào việc hệ thống lại những mảnh rời rạc
ấy, tìm tòi nội dung giao thoa giữa các môn học, bổ sung cho nhau, làm sáng tỏ hơn
những kiến thức mà học sinh được học trong mỗi môn. Áp dụng việc dạy học liên
môn sẽ nâng cao chất lượng học tập và làm tăng thêm hiệu quả dạy học lịch sử.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã có nhiều thuận lợi và cũng gặp không ít
khó khăn do sự chi phối của công việc, đặc biệt là ở một số nội dung, nguồn tư liệu

tham khảo ứng dụng còn ít nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong được quí đồng nghiệp góp ý để cho đề tài được thực hiện ngày càng hoàn thiện
hơn!
Xin trân trọng cảm ơn!


4

Phần 2: NỘI DUNG
1 Cơ sở lý luận
Chúng ta đã biết, trong nhà trường phổ thông, cũng như các môn Khoa học tự
nhiên, các môn thuộc Khoa học xã hội như Văn học, Lịch sử,… có vai trò hết sức to
lớn trong việc hình thành và giáo dục nhân cách, đạo đức đối với học sinh nên giữa
các môn này lại càng liên quan và hệ thống hơn.
Đối tượng nghiên cứu của Văn học cũng như Sử học đều là Con người, những
vấn đề xã hội,…..Văn học ngợi ca vẻ đẹp của non sông, đất nước, ca ngợi những con
người mang phẩm chất tốt đẹp, cao quý cũng như đã kích lên án cái xấu của họ thì
Lịch sử cũng ghi nhận công lao, đóng góp của những con người ấy (nhân vật lịch sử)
và phán xét nghiêm minh đối với những người có tội với dân, với nước. Trong thực tế
có không ít người vừa là nhà văn, nhà thơ đồng thời là nhà sử học mà Bác Hồ kính
yêu của chúng ta là một ví dụ điển hình. Người vừa là nhà giáo dục lớn vừa là nhà
nghiên cứu lịch sử nổi tiếng, là tác giả của rất nhiều tác phẩm thơ văn nổi tiếng:
Tuyên ngôn độc lập, Vi hành, Ngục trung nhật kí,….. Người đã từng dạy chúng ta
rằng:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Là một giáo viên giảng dạy đòi hỏi chúng ta phải có lòng nhiệt huyết với nghề
để góp phần đào tạo thế hệ trẻ cho quê hương đất nước. Giảng dạy với phương pháp
phù hợp sẽ giúp cho học sinh tiếp nhận được những giá trị tri thức quí báu của lịch sử,
đồng thời qua đó góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho các em. Và để làm

được điều đó chúng ta phải dạy cho học sinh hiểu biết những sự kiện lịch sử, những
qui luật lịch sử qua các thời đại. Dạy lịch sử tốt sẽ cho các em học sinh say mê với
dân tộc, say mê và tự hào về những giá trị truyền thống của dân tộc.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
Trường THPT Trần Văn Bảy tọa lạc cạnh quốc lộ 1A, trường được trang bị cơ
sở vật chất khá đầy đủ và khang trang, tuy nhiên một số phương tiện dạy học còn hạn
chế, nhất là đối với các môn xã hội. Bên cạnh đó, nhiều học sinh nhà xa hoặc có hoàn
cảnh gia đình khó khăn nên phần nào cũng ảnh hưởng đến việc học tập. Mặc dù vậy
nhưng thầy và trò trường THPT Trần Văn Bảy đã không ngừng phấn đấu vươn lên và
đã đạt được nhiều thành tích trong thời gian qua.
Ở trường, trong việc dạy học nói chung, mỗi người giáo viên đều rất quan tâm
đến việc tiếp thu kiến thức của học sinh về chính bộ môn mình phụ trách.Đại đa số
giáo viên đều cố gắng tìm hiểu đưa ra những phương pháp dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học: Nêu vấn đề, giải


5

quyết vấn đề, thảo luận nhóm, trực quan, lập niên biểu, vấn đáp,… Thông qua trình
bày sinh động giàu hình ảnh của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện hoặc
nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử; giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh trao đổi,
thảo luận nhóm, so sánh, giải thích một cách tích cực. Giúp học sinh dễ dàng nắm bắt
kiến thức, hiểu sâu hơn về bản chất, vai trò và ý nghĩa của sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Trong quá trình giảng dạy giáo viên đã kết hợp các đồ dùng dạy học, khai thác một
cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như: tranh ảnh, bản đồ, lược đồ
SGK, hiện vật, phim đèn chiếu,…từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học lịch sử.
Riêng đối với môn Lịch sử, mặt dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng
trong giáo dục thế hệ trẻ nhưng hiện nay việc dạy học lịch sử chưa hoàn thành đầy đủ
hết vai trò của mình và một thực tế đáng buồn là nhiều học sinh không thích học môn

Lịch sử, xem nhẹ môn Lịch sử. Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, thiếu
chính xác, thiếu hệ thống vì đa phần các em cho rằng học Lịch sư phải ghi nhớ quá
nhiều sự kiện khô khan, Lịch sử là một môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá khứ
là những cái đã qua không thể thay đổi nên chỉ học cho qua chứ không có gì để vận
dụng vào thực tế.
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do bản
thân môn Lịch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa đáp
ứng yêu cầu môn học đề ra; trong tiết học Lịch sử nhiều giáo viên chỉ tường thuật,
nhồi nhét các sự kiện lịch sử cho học sinh làm cho giờ học trở nên cứng nhắc và khô
khan, làm cho học sinh chán nản và thậm chí không yêu thích bộ môn Lịch sử, dẫn
đến kết quả của bộ môn không cao; nhiều học sinh chưa đầu tư cho môn học Lịch sử
vì cho rằng môn học này là môn học phụ... nên chất lượng dạy học của bộ môn chưa
cao, chưa đáp ứng yêu cầu giáo dục.
Thực tế đầu năm học 2014 - 2015, tôi được phân công dạy môn Lịch sử lớp
11a4 và 11a10 . Kết quả kiểm tra đầu năm môn Lịch sử đạt tỉ lệ điểm dưới trung bình
còn nhiều, cụ thể :
Lớp

Tổng số HS Điểm giỏi Điểm khá

11a4

31

06(19.4%) 10(32.2%)

11a10

30


01(3.4%)

13(43.3%)

Điểm TB

Điểm dưới TB

9(29%)

06(19.4%)

13(43.3%)

03(10%)

Theo bảng thống kê trên thì tỉ lệ học sinh có điểm dưới trung bình còn cao, nhất
là ở lớp 11a4 có đến 19,4% học sinh đạt điểm dưới trung bình.
Những bộ môn lân cận sẽ làm phong phú tri thức học sinh về bộ môn Lịch sử
và chính bộ môn Lịch sử sẽ hỗ trợ cho các bộ môn láng giềng khác. Người giáo viên
Lịch sử cần quan tâm tới sự tác động lẫn nhau của các môn học.


6

Qua thực tế trên, tôi nhận thấy rằng sự mâu thuẫn giữa nhận thức là môn học
Lịch sử bổ ích cho kiến thức người học nhưng các em lại không thích học.
Từ đó, để việc dạy học môn lịch sử đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn cải
tiến nội dung, phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học bằng việc áp
dụng các phương pháp dạy học, trong đó việc “Sử dụng thơ – văn để tạo sự hứng

thú cho học sinh trong giờ học Lịch sử Việt Nam lớp 11” là một trong những yếu tố
góp phần quyết định đến việc nâng cao chất lượng dạy học của tôi ở trường THPT
Trần Văn Bảy.
3. Một số giải pháp thực tế gây hứng thú học tập lịch sử bằng việc sử dụng
thơ – văn
Trong giảng dạy bộ môn lịch sử, người giáo viên đóng vai trò quan trọng trong
việc làm sống lại các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những kiến thức
trong SGK thì khó có thể tạo dựng lại không khí lịch sử cần thiết. Để thu hút các em
đi sâu tìm hiểu khám phá quá khứ của dân tộc tạo nên những cảm xúc thực sự trước
những sự kiện thì việc vận dụng kiến thức thơ-văn vào giảng dạy lịch sử là điều cần
thiết góp phần làm cho bài giảng trở nên sinh động và hấp dẫn , nâng cao hứng thú
học tập của các em.
Để đáp ứng những vấn đề nêu trên trong bài viết này, tôi xin thể hiện lại một số nội
dung ứng dụng liên môn, tức “Sử dụng thơ – văn để tạo sự hứng thú cho học sinh
trong giờ học Lịch sử Việt Nam lớp 11” năm học 2014 – 2015 để giảm bớt sự khô
khan trong dạy học Lịch sử ở trường THPT theo chương trình hiện hành.
a) Phương pháp sử dụng thơ - văn
Trong thực tiễn dạy học, các tác phẩm văn học dân tộc cũng như thế giới có vai
trò to lớn đối với việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Trước hết các tác phẩm văn
học bằng những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm người
đọc, trình bày những nét đặc trưng điển hình của các hiện tượng kinh tế, chính trị
những qui luật của của đời sống xã hội. Trong khi sáng tác một tác phẩm nhà văn phải
nghiên cứu các tài liệu lịch sử, không ít tác phẩm văn học tự nó là tư liệu lịch sử . Ví
dụ như Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, tập
thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh…
Trong việc giảng dạy, giáo viên thường sử dụng các loại tài liệu thơ - văn chủ
yếu: văn học dân gian, các tác phẩm ra đời vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử, truyện,
tiểu thuyết, thơ….
Văn học dân gian ra đời sớm với nhiều thể loại như : thần thoại, truyền thuyết,
cổ tích dân ca, ca dao, tuyện trạng, truyện cười…. Đây là tài liệu phản ánh nhiều sự

kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc. Ví dụ như truyện Thánh Gióng, qua câu
chuyện ta xác định được những yếu tố hiện thực của lịch sử là thời Hùng Vương thứ 6
(tương ứng với thời nhà Ân ở Trung Quốc), đồ sắt phát triển với vũ khí công cụ dùng
đều bằng sắt (nón sắt, giáp sắt, gậy sắt, ngựa sắt), đồng thời nêu cao truyền thống


7

đoàn kết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ (cả làng góp gạo thổi cơm cho Gióng
ăn) hay Sơn Tinh – Thủy Tinh là biểu tượng đoàn kết, đồng lòng của dân tộc ta đắp đê
chống bão, lũ lụt đặc trưng rất rõ của cư dân trồng lúa nước của nhân dân ta trong
buổi đầu lịch sử vừa dựng nước và giữ nước.
TK XVI – XVIII, thể loại văn học dân gian phát triển, các tác phẩm đã kích chế
sự thối nát và lạc hậu của chế độ phong kiến đồng thời nói lên mơ ước của người dân
có cuộc sống tốt đẹp hơn. Chẳng hạn như truyện “Trê Cóc”, một câu chuyện ngụ
ngôn chủ ý bày tỏ cái thói "tranh hơi tức khí" gây nên những cuộc kiện tụng và chỉ
trích cái tệ nhũng lạm của bọn sai nha cùng cái bọn thầy cò. Ở truyện Trê Cóc còn có
ý nghĩa về luân lý, bởi tác giả đã phô bày lắm nét hủ bại và nực cười ở xã hội xưa,
chung quanh những vụ kiện tụng trước cửa quan, người ta thấy trở đi trở lại những
chữ “lo lót, lễ vật, lễ mọn, phí tổn”. Chung quy thì chỉ người dân là phải chịu thiệt
hại, thua cũng thiệt mà được cũng thiệt. Cóc sù sì, thô kệch giống như là những người
dân chất phác hiền lành. Trê nhẵn nhụi, trơn tru hay chui luồn, có thể tiêu biểu cho
những người có nết láu lĩnh, hay làm việc mờ ám...
Sử dụng tài liệu văn học dân gian, không chỉ góp phần làm cho bài giảng sinh
động, tạo được không khí gần gủi với bối cảnh lịch sử, sự kiện đang học mà giáo viên
tiến hành có thể đạt được kết quả giáo dục tư tưởng đạo đức nói chung giáo dục
truyền thống dân tộc nói riêng
Các tác phẩm văn học vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử có ý nghĩa đối với
việc khôi phục hình ảnh quá khứ. Khi nói cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nông dân
Việt Nam đầu thế kỉ XX dưới chế độ thực dân nửa phong kiến thì phải kể đến tác

phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố. Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là chị Dậu và
gia đình, một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sưu cao thuế nặng mà chế độ
thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm này đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất
nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời. Đỉnh điểm của cơn cùng cực là
việc chị Dậu phải bán con, khoai và bán cả bầy chó để lấy tiền nộp sưu thuế cho
chồng và cảnh chị Dậu chạy ra giữa màn trời đêm tối đen như mực và như cái tiền đồ
của chị.
Khi sử dụng tài liệu thơ - văn phải đảm bảo tiêu chuẩn cơ bản là giá trị giáo dục
– giáo dưỡng và giá trị văn học, các tài liệu đó phải giúp học sinh khôi phục lại bối
cảnh lịch sử, hình ảnh các sự kiện, nhân vật của quá khứ để phục vụ được yêu cầu của
nội dung bài học, phù hợp trình độ nhận thức của học sinh, không làm loãng nội dung
bài học lịch sử.
b) Cách sử dụng tài liệu thơ - văn trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 11
Đưa một đoạn thơ, một đoạn văn ngắn nhằm minh họa những sự kiện đang học
làm cho nội dung bài học thêm phong phú, giờ học thêm sinh động. Cụ thể:
Khi dạy bài 19 “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống xâm lược (từ năm
1858 đến trước năm 1873)” khi nói đến tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp


8

xâm lược thì chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng kéo theo khủng hoảng về
kinh tế, xã hội như nông nghiệp sa sút, đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ,
dân phiêu tán khắp nơi. Giáo viên có thể trích một bài vè nói về tình cảnh của nhân
dân ở giai đoạn này:
Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng không
Đất trắng xóa ngoài đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Còn một bộ xương sống

Vơ vất đi ăn mày.
Trong khi phong trào chống Pháp diễn ra khắp nơi thì triều đình nhà Nguyễn lại
lần lược kí với Pháp từ hiệp ước Nhâm Tuất đến các hiệp ước Giáp Tuất, Hác măng,
Pa-tơ-nốt làm cho nhân dân vô cùng phẫn nộ, giáo viên có thể minh họa:
Tan nhà cám nổi câu ly hận
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười hết nói nổi quan ta
( Cảm khái – Phan Văn Trị)
Ngày 17/2/1859, Pháp nổ súng đánh thành Gia Định, quân triều đình nhanh
chóng tan rã, Nguyễn Đình Chiểu đã ghi lại sự kiện bi thảm này qua bài thơ “Chạy
giặc”
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ tẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này.
Khi Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kì rồi chiếm luôn 3 tỉnh miền
Tây Nam Kì, Nguyễn Trung Trực đã đấu tranh anh dũng qua hai trận đánh: đánh chìm
tàu Ét-pê-răng của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (10/12/1861), tiêu diệt đồn kiên
Giang (16/6/1868), ông đã được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen ngợi qua 2 câu thơ sau:


9

Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần

Hay giáo viên có thể lấy câu nói của Nguyễn Trung Trực khi ông bị giặc đem
đi hành hình: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì khi hết người Nam đánh
Tây” Vừa là ý chí chống giặc của ông cũng đồng thời là ý chí chống giặc của toàn dân
Việt Nam.
Cũng có thể sử dụng đoạn trích của Gosselin người Pháp nói về tinh thần chiến
đấu của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc:
“Đứng trước vũ khí của chúng ta, những người An Nam chỉ có một phương
sách duy nhất là hi sinh cho sự bảo vệ các quyền tự do của họ. Họ đã bình tĩnh đương
đầu cái chết với một sự can đảm tột đỉnh và trong số rất đông những người ngã xuống
vì những viên đạn của các đơn vị hành hình hay dưới làn gươm của các tên đao phủ,
chúng tôi không bao giờ ghi nhận được một sự yếu đuối nào”.
Hoặc để nói lên khí thế chống giặc của người dân Nam Bộ nói chung, 3 tỉnh
miền Tây Nam Kì nói riêng, giáo viên có thể trích một đoạn trong văn tế Nghĩa sĩ Cần
Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu như:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn: Toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu , ở trong làng
bộ…
….Bữa thấy bòng bong che trắng lấp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói
chạy đen xì, muốn ra cắn cỏ.
….Hỏa mai đánh bằng rom con cúc.....gươm đeo dùm bằng lưỡi dao phay, cũng
chém rớt đầu quan hai nọ….
Trong bài 20 “Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta
từ năm 1873 đến 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng”. Chiến thắng tiêu biểu trong cuộc đấu
tranh của quân dân Bắc Kì là chiến thắng Cầu Giấy lần nhất (21/12/1873) và chiến
thắng Cầu Giấy lần hai (19/5/1883), chiến thắng này công lớn thuộc về đội quân cờ
đen của Lưu Vĩnh Phúc, để khắc họa về tài cũng như tinh thần chống Pháp của Lưu
Vĩnh Phúc như sau:
Cung kiếm tài cao ít kẻ lường
Đáo để anh hùng lòng bất khuất

Về Tàu còn nguyện giết Tây dương.
Sau hiệp ước Giáp Tuất 1874, nhân dân phản đối mạnh mẽ, nhân dân không chỉ
đánh Tây mà chống cả triều đình
Dập dìu trống đánh cờ xiêu


10

Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây
Trong bài 22 “Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân
Pháp”, dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân
Pháp đã làm cho kinh tế cũng như xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, khi phân
tích cuộc sống của người công nhân giáo viên có thể nhấn mạnh bằng các nội dung
sau:
Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủn beo
Hay:
Cao su xanh tốt lạ đời
Mỗi cây bón một xác người công nhân
Hoặc để mô phỏng cảnh nông dân ta phải nộp sưu thuế nặng nề, giáo viên có
thể sử dụng các câu ca dao như:
Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy
Vào đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản,
thực hiện phong trào cách mạng theo khuynh hướng mới mà tiêu biểu là Phan Bội
Châu và Phan Châu Trinh
Phan Bội Châu với xu hướng bạo động, thành lập hội Duy Tân với chủ trương
đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập, ngày 24/12/1913, Phan Bội Châu bị giới quân

phiệt Trung Quốc bắt giam tại nhà tù Quảng Đông (Trung Quốc). Để khắc họa hình
ảnh Phan Bội Châu giáo viên trình bày nội dung ngắn gọn tác phẩm “Những trò lố
hay là Varen và Phan Bội châu” của Nguyễn Ái Quốc:
“Trước khi Va-ren từ Pháp sang Đông Dương nhận chức Toàn quyền y hứa sẽ
chăm sóc cụ Phan Bội Châu. Khi gặp cụ Phan, Va-ren ra sức dụ dỗ, thuyết phục,
nhưng vẫn không mua chuộc được Phan Bội Châu, cụ Phan thì tỏ thái độ im lặng,
dửng dưng. Anh lính dõng thì quả quyết rằng có thấy đôi ngọn râu mép của cụ Phan
nhếch lên một chút. Nhân chứng thứ 2 lại quả quyết cụ Phan đã nhổ vào mặt Va-ren”.
Phan Châu Trinh theo xu hướng cải cách với nội dung chủ yếu là cải cách về
văn hóa – xã hội gắn liền với giáo dục lòng yêu nước, mở trường Đông Kinh nghĩa
thục tại Hà Nội, các buổi diễn thuyết hay bình văn thu hút được nhiều tầng lớp tham
gia như có quan lại, binh lính, viên chức, nông dân … một bài văn thời đó đã viết:
Buổi diễn thuyết, người đông như hội


11

Kì bình văn, khách đến như mưa
Trong bài 24 “Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914
– 1918), phần buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, từ rất sớm Người
đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào. Người rất khâm phục tinh
thần yêu nước của các chí sĩ như Phân Bội Châu, Phan Châu Trinh nhưng không tán
thành con đường cứu nước của họ nên quyết định tìm con đường cứu nước mới cho
dân tộc. Người quyết định sang phương Tây , đến nước Pháp để tìm hiểu xem nước
Pháp và các nước khác làm thế nào, rồi trở về giúp đồng bào mình. Giáo viên có thể
lấy một đoạn trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên để nhấn
mạnh ý này:
Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước”
Không phải hình một bài thơ đã tạc nên người
Một góc quê hương nửa đời quen thuộc

Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
Thế đi đứng của toàn dân tộc
Một cách vinh hoa cho hai mươi lăm triệu con người
Ngoài ra các tài liệu thơ - văn được sử dụng để tổ chức những buổi hoạt động
ngoại khóa cho môn lịch sử và cách dễ thực hiện, đạt hiệu quả cao là đọc sách, nhằm
cung cấp thêm kiến thức và phát triển tư duy cho học sinh. Muốn đưa các tài liệu thơ văn vào dạy lịch sử trong hoạt động ngoại khóa có hiệu quả thì giáo viên phải giúp
học sinh lập danh mục sách cần đọc, nêu một số tác phẩm truyện hoặc thơ có liên
quan để học sinh tìm dễ dàng. Giáo viên có thể khơi dậy tính hiếu kì và lòng ham hiểu
biết của học sinh bằng cách tóm tắt sơ lược nội dung trong sách, kể một vài chi tiết,
những đoạn nhỏ trong sách để kích thích học sinh tiếp tục đọc để tìm hiểu
4. Kết quả đạt được
Mặc dù còn một số hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này
vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân đã nhận thấy
rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới và với
những tiết dạy theo hướng đổi mới. Khi sử dụng một số câu thơ, câu văn, câu trích
dẫn… minh họa cho một sự kiện lịch sử, bài học lịch sử làm giờ học sinh động hơn,
hấp dẫn học sinh hơn, những sự kiện trong bài học lịch sử sẽ lưu lại trong kí ức các
em sâu hơn, lâu hơn, giờ học đạt hiệu quả cao. Trong dạy học dùng thơ - văn cho học
sinh có vai trò tích cực, chủ động trong việc học tập, qua đó các em chủ động tìm
những kiến thức đã học để hiểu sâu, toàn diện một sự kiện lịch sử, đồng thời học sinh
còn ôn tập, củng cố, tổng hợp kiến thức ở mức độ cao hơn. Tôi cũng hi vọng với việc
áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học
sinh sẽ yêu thích môn học này nhiều hơn nữa.


12

Kết quả cụ thể của đề tài được thể hiện qua số điểm kiểm tra của học sinh lớp
11a4 và 11a10 ở cuối năm học như sau :

Lớp
11a4
11a10

Tổng số

Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm TB

Điểm dưới TB

HK I

31

06(19.4%)

10(32.2%)

9(29%)

06(19.4%)

HK II

31


06(19.4%)

16(51.6%)

08(25.8%)

01(3.2%)

HK I

30

01(3.4%)

13(43.3%)

13(43.3%)

03(10%)

HK II

30

05(16.7%)

15(50%)

08(26.6%)


02(6.7%)

Như vậy, việc áp dụng đề tài trong năm học 2014 - 2015 đã góp phần nâng
cao chất lượng giạng dạy môn Lịch sử ở lớp 11a4 và 11a10. Theo bảng thống kê trên,
so với đầu năm, số lượng học sinh đạt điểm dưới trung bình cuối năm giảm đáng kể,
còn số lượng học sinh đạt điểm khá giỏi tăng. Vì vậy sáng kiến này có thể áp dụng
tiếp tục và mở rộng hơn.
5. Một số lưu ý khi sử dụng tài liệu thơ – văn trong giờ học lịch sử
Qua kinh nghiệm của bản thân, tôi thấy rằng sử dụng các tài liệu thơ – văn
trong dạy học lịch sử sẽ giúp giờ học trở nên sinh động, lôi cuốn học sinh, dễ dàng
đưa kiến thức lịch sử đến với các em đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dạy và
học, nhưng để sử dụng thơ – văn sao cho hiệu quả chúng ta cần tham khảo một số yêu
cầu sau:
- Trước hết, giáo viên phải hiểu cặn kẽ và thật tâm đắc với những tư liệu mình
đã lựa chọn.
- Tài liệu thơ – văn phải đảm bảo giá trị giáo dục
- Tài liệu thơ – văn ấy phải là một bức tranh sinh động về những sự kiện, nhân
vật lịch sử đang học, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
- Cần lựa chọn tài liệu thơ – văn, loại bỏ những yếu tố không phù hợp. Đặc biệt
là đối với các tài liệu văn học dân gian như thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ,...giáo
viên loại bỏ những yếu tố hoang đường, giữ lại những điểm cơ bản, khoa học để phục
vụ cho bài giảng.
- Khi sử dụng giáo viên chỉ đưa vào những nội phù hợp tránh lạm dụng quá
nhiều sẽ làm loãng nội dung bài học lịch sử. Biến giờ học sử thành giờ giới thiệu tác
phẩm văn học. Đồng thời giáo viên cần sử dụng ngữ điệu phù hợp với các tác phẩm
thơ – văn, với nội dung sự kiện lịch sử cần minh họa. Làm được điều đó sẽ có tính
thuyết phục, hấp dẫn hơn.


13


Phần 3. KẾT LUẬN
Thơ văn nói chung với ưu thế của nó: dễ thuộc, dễ đi vào lòng người… sẽ là
một thế mạnh, hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sư. Thông qua đó góp
phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn của học sinh đối với các lãnh tụ cũng như những
anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm rạng rỡ thêm lịch
sử nước nhà.
Việc vận dụng kiến thức thơ văn vào giảng dạy lịch sử, theo kinh nghiệm của
bản thân tôi cùng nhiều đồng nghiệp khác đã được tham khảo ý kiến là một việc làm
rất có hiệu quả nhằm gây hứng thú cho học sinh, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi
việc học lịch sử, tìm hiểu lịch sử, nhận thức lịch sử đang có nhiều hướng giảm sút,
xuống cấp, thái độ dạy học đối phó, qua loa, đại khái của không ít giáo viên đã và
đang là những trở ngại không nhỏ đối với việc giảng dạy nói chung và dạy bộ môn
lịch sử nói riêng.
Trong khoản thời gian có hạn, cùng với kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều nên
tôi chỉ mạnh dạn trình bày quan điểm của mình trong việc “Sử dụng thơ – văn để tạo
sự hứng thú cho học sinh trong giờ học Lịch sử Việt Nam lớp 11” trong chương
trình Lịch sử Việt Nam lớp 11 trong dạy học lịch sử THPT góp phần vào việc đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay. Với sáng kiến kinh nghiệm này , tôi hy vọng sẽ góp
một phần nhỏ vào việc giúp giáo viên và học sinh trường THPT Trần Văn Bảy nói
riêng, các đồng nghiệp và học sinh các trường nói chung có thêm một phương pháp
tham khảo nhằm đật hiệu quả cao hơn trong dạy và học Lịch sử. Về phía bản thân, tôi
xin hứa sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của việc thực hiện sáng kiến kinh
nghiệm trên, đồng thời không ngừng rút kinh nghiệm, khắc phục khó khăn để nâng
cao hơn nữa chất lượng dạy và học.
Qua kết quả điểm số học kì I và học Kì II như trên cho thấy rằng, việc áp dụng
đã mang lại hiệu quả ở hai lớp 11a4 và 11a10.
Hạn chế của đề tài là chỉ áp dụng ở hai lớp khối 11 phần lịch sử Việt Nam năm
học 2014 - 2015 chứ chưa phải là toàn bộ học sinh của trường THPT Trần văn Bảy.
Vì vậy, trong thời gian tới tôi sẽ mở rộng sáng kiến kinh nghiệm ra các khối THPT

khác khi có điều kiện.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy môn Lịch
sử, chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự góp ý chân thành
của quý đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Thạnh Trị, ngày 16 tháng 5 năm 2015
Người viết


14

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách giáo khoa lịch sử lớp 11 - Cơ bản
2. Sách giáo khoa lịch sử lớp 11 - Nâng cao
3. Sách giáo Viên lịch sử lớp 11 – Cơ bản
4. Sách giáo Viên lịch sử lớp 11 – Nâng cao
5. Chuẩn kiến thức lịch sử THPT
6. Sách giáo khoa Ngữ văn THPT
7. Ca dao Lịch sử
8. Những bài báo có liên quan
9. Một số tài liệu thông qua mạng Internet


15

PHỤ LỤC
GIÁO ÁN MINH HỌA

Bài 19 : NHÂN DÂN VIỆT NAM

KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC
(Từ năm 1858 đến trước năm 1873)
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Về kiến thức:
- Ý đồ xâm lược Việt Nam của tư bản phương Tây.
- Quá trình xâm lược Việt Nam của thực dn Pháp 1858 - 1873.
- Cuộc kháng chiến của nhân dân 1858 - 1873.
2. Về kĩ năng: Rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá sự kiện,
vấn đề Lịch sử. Biết liên hệ, rút ra bài học kinh nghiệm.
3. Về thái độ: Hiểu được bản chất xâm lược của chủ nghĩa thực dn v sự tàn bạo của
chúng. Tự hào về truyền thống chống xâm lược của cha ông. Có thái độ đúng mức khi
tìm hiểu nguyên nhân & trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước cuối TK
XIX. Có nhận thức đúng đối với các sự kiện, nhân vật Lịch sử cụ thể.
II. THIẾT BỊ, TÀI LIỆU DẠY-HỌC:
Lược đồ Việt Nam, tranh ảnh về cuộc kháng chiến chống xâm lược 1858-1873.
III. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY-HỌC:
1. On định lớp (1')
2. Kiểm tra bài cũ (5') Giới thiệu chương trình lịch sử Việt Nam lớp 11
3. Vào bài mới (1')
4. Dạy & học bài mới (35')
Hoạt động của thầy
Nội dung chính
I. LIÊN QUÂN PHÁP-TÂY BAN
NHA XÂM LƯỢC VIỆT NAM.
CHIẾN SỰ Ở ĐÀ NẴNG 1858:
 Sơ lược về chế độ phong kiến Việt Nam
1. Tình hình Việt Nam đến giữa
- Giữa thế kỉ XIX, trước khi thực dân Pháp xâm TK XIX trước khi thực dân Pháp
lược, Việt Nam là một quốc gia có chủ quyền và xâm lược:
đạt được những thành tựu nhất định về kinh tế, Giữa thế kỉ XIX, phong kiến VN

văn hóa. Song chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã độc lập lâm vào khủng hoảng, suy
bước vào khủng hoảng, suy yếu trầm trọng: sau yếu:
khi lên ngôi (1802) Nguyễn Ánh cùng các ông
vua tiếp theo Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đi
sâu vào con đường khủng hoảng, phục hồi quan
hệ sản xuất phong kiến, bóp nghẹt lực lượng sản
xuất mới. Bộ máy chính trị mang nặng tính quan


16

liêu sâu mọt, quyền lực nằm trong tay nhà vua,
phung phí tài sản trên xương máu của nhân dân
+ Nông nghiệp sa sút, đất đai tập trung trong
tayddaij chủ cường hào, hiện tượng dân lưu tán
khắp nơi, mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra
 GV đọc bài vè nói về tình cảnh của nhân dân ở
giai đoạn này:
Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng không
Đất trắng xóa ngoài đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Còn một bộ xương khô
Vơ vất đi ăn mày.
+ Công-thương nghiệp: lạc hậu, đình đốn do nhà
nước nắm độc quyền-> kìm hãm sự phát triển của
sản xuất
- Quân sự lạc hậu trang bị vũ khí giáo mác ->
không chống lại được với đại bác tàu chiến hiện
đại

- Ngoại giao sai lầm……

- Kinh tế:
+ Nông nghiệp sa sút dẫn đến mất
mùa, đói kém

+ Công-thương nghiệp: lạc hậu, đình
đốn
- Quân sự: lạc hậu, yếu kém

 Giải thích “bế quan toả cảng” và lí do “cấm
đạo” . Nêu sự khác nhau giữa Nho giáo và đạo - Đối ngoại: thực hiện “bế quan toả
Gia tô
cảng”, “cấm đạo” gây nên sự bất hòa
trong nhân dân, tạo kẻ hở cho kẻ thù
 Kể tên một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu?
lợi dụng
 Phan Bá Vành, Lê Duy Lương, Lê văn Khôi, - Xã hội: mâu thuẫn phát triển nên
Nông Văn Vân,…
khởi nghĩa diễn ra
2. Thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị
 Liên hệ việc Pháp chuyển sang CNĐQ vào xâm lược Việt Nam:
giữa TK XIX
(Học sinh về nhà đọc thêm SGK)
 Lược đồ Việt Nam
3. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 1858:
 Vì sao Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm tấn công
đầu tiên?
 Vì có nhiều giáo dân, cảng biển sâu, gần kinh - Ngày 01/9/1858, liên quân Phápthành Huế, có thể ra Bắc vào Nam, có đường sang Tây Ban Nha tấn công rồi đổ bộ lên
Lào và Campuchia

bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng (lúc này,
 Hình 49/sgk tr 108. Pháp-TBN tấn công Đà Pháp thực hiện kế hoạch ”đánh
nhanh, thắng nhanh”)
Nẵng


17

- Quân ta chống trả quyết liệt rồi
thực hiện “vườn không nhà trống”
làm cho địch bị sa lầy ở đây (Pháp và
Tây Ban Nha bị cầm chân suốt 5
 Liên hệ kháng chiến chống Mông-Nguyên của tháng trên bán đảo Sơn Trà và chỉ
nhà Trần
chiếm được bán đảo này)
-> Từ đó làm thất bại kế hoạch “đánh
nhanh thắng nhanh” của Pháp
II. CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG PHÁP Ở GIA ĐỊNH &
CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM
 Sau thất bại ở Đà Nẵng, Pháp đã làm gì để KÌ TƯ NĂM 1859 ĐẾN NĂM
chiếm Việt Nam ?
1862:
 Pháp chuyển hướng tấn công Gia Định và Nam 1. Kháng chiến ở Gia Định:

 Vì sao Pháp quyết định chuyển hướng vào Gia
Định Và Nam Kì?
- Phía Pháp:
 Vì đây là vựa lúa của Việt Nam và có đường + Quyết định và đã đưa quân đến
sang Campuchia

Gia Định vào ngày 16/02/1959.
 Pháp tấn công thành Gia Định
 Lúc này, quân và dân ta đồi phó thế nào?
 SGK

+ Đến ngày 17/02/1959, Pháp tấn
công thành Gia Định
- Phía ta:
+ Các đội dân binh chiến đấu
ngoan cường gây cho địch nhiều khó
 Gv đọc bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình khăn và buộc chúng phải chuyển
Chiểu:
sang đánh lâu dài, chiếm VN từng
bước
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
+ Quân triều đình ở Gia Định tan rã
Một bàn cờ thế phút sa tay.
nhanh chóng. Lúc này, quân Pháp ở
Bỏ nhà lũ tẻ lơ xơ chạy,
VN bị điều động sang chiến trường
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
TQ, chỉ để lại một lực lượng nhỏ giữ
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
các vị trì quanh Gia Định
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này.
 Pháp khó khăn do sa lầy ở TQ và Italia nên
phải phân tán lực lượng.
 Tường thuật cuộc kháng chiến của Nguyễn Tri

Phương và Dương Bình Tâm


18

 Phân tích tư tưởng chủ chiến và chủ hoà
 Sau khi thắng ở TQ bằng Điều ước Bắc Kinh
(25.10.1860), Pháp có hành động gì ở Việt Nam ?
 Chiếm các tỉnh Đông Nam Kì
 Hình ảnh quân Pháp tấn công Đại đồn Chí
Hòa.

+ Tháng 3/1860, Nguyễn Tri Phương
từ Đà Nẵng vào Gia Định xây dựng
phòng tuyến nhưng không đánh. Cơ
hội tiêu diệt quân Pháp qua đi nhanh
chóng
+ Tháng 7/1860, Dương Bình Tâm
chỉ huy nghĩa dũng tấn công đồn Chợ
Rẫy
-> Từ đó, Pháp bị sa lầy ở Đà Nẵng
và Gia Định, còn nhà Nguyễn xuất
hiện tư tưởng chủ hoà và tư tưởng
chủ chiến
2. Kháng chiến lan rộng ra các tỉnh
miền Đông Nam Kì. Hiệp ước ngày
05/6/1862:
- Ngày 23/02/1861, Pháp tấn công
Đại đồn Chí Hoà - Gia Định và thắng
lợi. Sau đó chiếm luôn Định Tường,

Biên Hoà và Vĩnh Long
- Ta chống Pháp mạnh mẽ: Trương
Định, Trần Thiện Chính, Lê
Huy,...Đặc biệt, 10/12/1961, Nguyễn
Trung Trực đánh chìm tàu Pháp
-> Từ đó, gây cho Pháp nhiều khó
khăn

 Tường thuật trận Nguyễn Trung Trực đánh tàu
Etpêrăng của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông
 Danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen ngợi qua 2 câu
thơ sau:
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạc Kiên Giang khắp quỷ thần
 Phân tích thái độ của nhà Nguyễn
 Hiệp ước Nhâm Tuất 5.6.1862 có nội dung thế - Trong bối cảnh đó, triều đình Huế
nào?
kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất
 SGK (phía nhà Nguyễn, phía Pháp )
ngày 05/6/1862 với nội dung:
+ Nguyễn nhượng cho Pháp 3 tỉnh
Đông Nam Kì và đảo Côn Lôn, bồi
thường chiến phí 20 triệu quan, mở 3
 Em có nhận xét gì về việc nhà Nguyễn kí Hiệp cửa biển (Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng
ước?
Yên)
 Chủ quyền lãnh thổ dân tộc bị xâm hại nghiêm + Pháp trả lại cho nhà Nguyễn
trọng, đi ngược lại với ý chí và truyền thống của thành Vĩnh Long
dân tộc; nhà Nguyễn vì bảo vệ lợi ích của dòng họ
đã ngã về phía Pháp, đàn áp phong trào kháng

chiến của nhân; hiệp ước chứng tỏ thái độ nhu
nhược của triều đình, nhà Nguyễn bước đầu đã
đầu hàng thực dân Pháp…


19

III. CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA
NHÂN DÂN NAM KÌ SAU HIỆP
ƯỚC 1862:
1. Nhân dân ba tỉnh miền Đông
tiếp tục kháng chiến sau Hiệp ước
 Nêu hoàn cảnh diến ra phong trào sau Hiệp 1862:
ước 1862?
- Hoàn cảnh: sau Hiệp ước 1862,
 SGK + phần trên
triều đình Huế ra lệnh giải tán nghĩa
binh chống Pháp ở Đông Nam Kì
 Tường thuật diễn biến khởi nghĩa
nhưng phong trào kháng chiến vẫn
 Hình 51/sgk tr 112. Trương Định được phong diễn ra mạnh
“Bình Tây Đại nguyên soái” và lược đồ kháng
chiến ở Nam Kì
- Diễn biến: (khởi nghĩa Trương
Định)
+ Trước năm 1861, Trương Định
cùng quân triều đình chống Pháp
 Em có suy nghĩ gì về hành động của Trương + Từ tháng 02/1861, ông về hoạt
Định sau 1862?
động ở Tân Hoà-Gò Công để xây

 Suy nghĩ, trả lời
dựng căn cứ chống Pháp cùng nhân
dân
 Phân tích ý nghĩa
 1863, Pháp đặt nền bảo hộ lên đất Campuchia

 Quá trình chiếm Tây Nam Kì của Pháp
 Nghe và ghi nội dung
 Việc đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kì nằm
trong kế hoạch chinh phục từng gói nhỏ của thực
dân Pháp, kế hoạch được tiến hành như sau:
chiếm Campuchia cô lập miền Tây, ép triều đình
nhà Nguyễn nhượng quyền cai quản và cuối cùng
là dùng vũ lực

+ Ngày 28/02/1863, Pháp tấn công
căn cứ của Trương Định, sau đó ông
trúng đạn nên đã tự sát.
- Ý nghĩa:
+ Tiêu biểu cho tinh thần quật khởi
của nhân dân Nam Kì
+ Là dấu mốc hình thành trận tuyến
nhân dân
+ Kết hợp phong trào chống xâm
lược và chống phong kiến đầu hàng
+ Cổ vũ phong trào đấu tranh phát
triển
2. Thực dân Pháp chiếm ba tỉnh
miền Tây Nam Kì:
- Sau khi chiếm Đông Nam Kì, Pháp

vu cáo triều đình Huế vi phạm Hiệp
ước 1862 để thực hiện kế hoạch
chinh phục từng gói nhỏ của Pháp ở
VN
- Ngày 20/6/1967, quân Pháp dàn


20

 Các cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân
nổ ra trong điều kiện vô cùng khó khăn: cả sáu
tỉnh Nam Kì đã bị giặc chiếm đóng, tương quan
lực lượng chênh lệch, tinh thần quân triều đình
giảm sút.
 Sau khi ba tỉnh miền Tây rơi vào tay giặc, nhân
dân có hành động gì?
 Phong trào kháng chiến lên cao. Một số văn
thân sĩ phu bất hợp tác với giặc vượt biển vào
Bình Thuận…..

- Nguyễn Trung Trực lập căn cứ ở Hòn Chông
(Rạch Giá)
 Nguyên nhân bại
 Ý nghĩa

trận trước thành Vĩnh Long, Phan
Thanh Giản phải nộp thành
- Lợi dụng sự bạc nhược của triều
đình Huế, từ ngày 20 –> 24/6/1867,
Pháp đã chiếm được 3 tỉnh Tây Nam

Kì (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên)
mà không tốn một viên đạn nào
3. Nhân dân ba tỉnh miền Tây Nam
Kì chống Pháp:
- Sau khi Pháp chiếm xong 3 tỉnh
miền Tây Nam Kì, phong trào kháng
chiến vẫn tiếp tục phát triển mạnh
với nhiều hình thức: tị địa, bất hợp
tác với giặc, khởi nghĩa vũ trang, liên
minh chiến đấu với nhân dân
Campuchia
- Nhiều cuộc khỡi nghĩa nổ ra ở 3
tỉnh miền Tây:
+ Khởi nghĩa Trương Quyền ở Tây
Ninh
+ Khởi nghĩa Phan Tôn, Phan Liêm
(con Phan Thanh Giản) - Bến Tre
+ Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực ở
Rạch Giá
+ Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Huân ở
Mỹ Tho
- Nguyên nhân thất bại: do Pháp còn
mạnh và vũ khí ta còn thô sơ
- Ý nghĩa: thể hiện lòng yêu nước, ý
chí bất khuất chống ngoại xâm của
nhân dân ta

5. Sơ kết bài học (3')
Củng cố: HS cần nắm:
- Quá trình xâm lược VN của TD Pháp 1858-1873.

- Cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân VN 1858-1873.
- Nội dung Hiệp ước 1862.
Dặn dò: HS về học bài và xem trước bài mới.
Bài tập: Trả lời câu hỏi SGK của bài đã học và bài tiếp theo

DANH SÁCH HỌC SINH VÀ ĐIỂM SỐ CHỨNG MINH


21

TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19

20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

ĐIỂM SỐ LỚP 11a4
Họ và tên
Điểm học kì I
Võ Gia Bảo
6.7
Nguyễn Minh Khang
8.1
Tăng Thị Ngọc Lan
4.4
Trương Nhựt Linh
7.2
Phan Thái Linh
5.5
Ngô Cẩm Loan
8.7
Lý Thanh Long
6.0

Trần Phúc Lộc
5.3
Lâm Kim Ngân
5.5
Nguyễn Thị Bé Ngoan
7.6
Nguyễn Trường Nhân
6.9
Yên Thị Mỹ Nhiên
5.5
Liêu Thị Hồng Oanh
3.6
Đỗ Thanh Phong
4.0
Mai Gia Phúc
7.5
Danh Hồng Phương
5.1
Võ Minh Sáng
5.9
Nguyễn Văn Sĩ
7.1
Lương Thị Thu Thảo
7.2
Dương Anh Thoại
5.9
Trần Thị Cẩm Thu
5.9
Lê Ngọc Anh Thư
7.7

Trần Thị Tím
8.2
Đoàn Thị Huế Trân
8.6
Hà Thị Diễm Trinh
3.6
Dương Thanh Trúc
7.5
Tô Quang Trường
4.3
Lê Hồng Tú
4.1
Lý Bảo Tuyền
9.3
Trương Thị Minh Xuân
8.6
Phạm Thị Kim Xuyến
6.6
Tỉ lệ trên trung bình
80,64%

ĐIỂM SỐ LỚP 11a10

Điểm học kì II
7.9
8.2
7.9
5.8
5.3
8.1

6.4
6.7
7.8
8.5
6.2
6.9
6.4
7.6
6.6
5.9
7.6
7.9
7.4
7.5
6.5
7.6
7.3
8.6
5.8
7.6
4.9
6.0
9.6
8.4
7.7
96,77%


22


TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29

30

Họ và tên
Nguyễn Thị Linh Duy
Quách Thị Thùy Duy
Nguyễn Hải Dương
Nguyễn Thị Mai Hương
Trần Thị Cẩm Kha
Phan Trung Khang
Trương Văn Khang
Huỳnh Hoàng Khanh
Võ Đăng Khoa
Thạch Vũ Kiệt
Trương Mỹ Liên
Lê Vũ Linh
Tăng Công Minh
Sơn Hữu Nhân
Võ Thị Kim Nhẹ
Trần Huy Phúc
Lưu Minh Phúc
Phạm Thanh Qui
Võ Thành Thật
Trần Ngọc Thiện
Phạm Quang Thoại
Võ Thị Anh Thư
Trần Thức
Nguyễn Thị Ngọc Tiền
Trương Kim Tính
Trần Thị Bảo Trân
Tô Phương Trung

Cao Thị Kim Tuyền
Trần Minh Tứ
Huỳnh Gia Vĩ
Tỉ lệ trên trung bình

Điểm học kì I
6.4
7.3
6.4
6.9
6.4
7.1
5.5
6.1
6.0
4.4
6.3
7.7
4.8
7.6
5.5
6.7
7.2
6.6
7.0
4.6
9.1
6.0
7.6
7.8

7.1
6.3
5.2
6.4
5.5
7.1
90,00%

Điểm học kì II
6.3
8.2
7.3
7.0
6.4
7.6
7.1
7.4
6.2
6.0
6.1
8.0
7.1
6.2
6.8
8.4
5.6
6.9
7.9
4.9
8.9

7.2
7.2
8.7
5.8
7.0
4.3
7.4
6.8
7.1
93,33%



×