ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
LÊ VĂN VÂN
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VÀ
SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CÁC
CHỦ ĐỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 11
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
HÀ NỘI – 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
LÊ VĂN VÂN
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VÀ
SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CÁC
CHỦ ĐỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 11
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LÍ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MÔN LỊCH SỬ
Mã số: 60 14 01 11
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ BÍCH
HÀ NỘI – 2016
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô trong Khoa Sư phạm,
trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội, thư viện trường Đại học
Giáo dục, thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, thư viện Quốc Gia Hà
Nội và các thầy cô giáo, các em học sinh các trường THPT Mỹ Đức A, THPT
Mỹ Đức C, THPT Hợp Thanh, THPT Ứng Hòa A – Hà Nội, THPT chuyên
Chu Văn An – tỉnh Lạng Sơn đã tạo điều kiện thuận lợi giúp em hoàn thành
luận văn này.
Em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Thị Bích, người đã hướng
dẫn và chỉ bảo tận tình cho em để em có thể hoàn thành được luận văn tốt
nghiệp này.
Cảm ơn gia đình, những người thân và bạn bè đã giúp đỡ, động viên em
trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2016
Học viên thực hiện
Lê Văn Vân
i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DHLS
Dạy học lịch sử
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
PPDH
Phương pháp dạy học
SGK
Sách giáo khoa
THPT
Trung học phổ thông
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................ ii
DANH MỤC BẢNG ....................................................................................... vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ................................................................................. vii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 10
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 10
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu....................................... 11
6. Giả thuyết khoa học ................................................................................. 11
7. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài................................................................ 11
8. Cấu trúc của luận văn ............................................................................... 12
Chƣơng 1. PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VÀ
SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CÁC CHỦ ĐỀ
LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG –
LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .......................................................................... 13
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................ 13
1.1.1. Cơ sở xuất phát của việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo cho HS trong dạy học chủ đề lịch sử ở trường THPT .................. 13
1.1.2. Một số khái niệm có liên quan đến đề tài ........................................... 17
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo cho HS trong dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam ở trường
THPT .............................................................................................................. 23
iii
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 26
1.2.1. Thực trạng việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo cho HS trong dạy học chủ đề lịch sử ở trường THPT ........................... 26
1.2.2. Nguyên nhân và định hướng ............................................................... 32
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................... 34
Chƣơng 2. CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ VÀ SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC CHỦ ĐỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 11 Ở TRƢỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG ...................................................................................... 35
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung các chủ đề Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở
trƣờng THPT ................................................................................................. 35
2.1.1. Vị trí, mục tiêu phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường THPT........ 35
2.1.2. Nội dung kiến thức phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 THPT –
Chương trình chuẩn ...................................................................................... 36
2.2. Xây dựng các chủ đề trong phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở
trƣờng THPT ................................................................................................. 38
2.2.1. Cơ sở xây dựng các chủ đề trong phần Lịch sử Việt Nam lớp 11
ở trường THPT ............................................................................................... 38
2.2.2. Xây dựng các chủ đề phần lịch sử Việt Nam lớp 11 THPT ............... 39
2.3. Các biện pháp phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
cho HS trong dạy học các chủ đề Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trƣờng
THPT .............................................................................................................. 50
2.3.1. Một số yêu cầu khi lựa chọn các biện pháp phát triển năng lực
giải quyết vấn đề và sáng tạo cho HS trong dạy học các chủ đề Lịch sử
Việt Nam lớp 11 ở trường THPT ................................................................... 50
iv
2.3.2. Một số biện pháp phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo của HS trong dạy học các chủ đề lịch sử Việt Nam lớp 11 .................... 51
2.4. Thực nghiệm sƣ phạm ........................................................................... 69
2.4.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm .......................................................... 69
2.4.2. Đối tượng và thời gian thực nghiệm ................................................... 70
2.4.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm ............................................. 70
2.4.4. Kết quả thực nghiệm ............................................................................ 72
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................... 79
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 84
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 88
v
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Đánh giá về vai trò, ý nghĩa của dạy học các chủ đề Lịch sử
trong trường phổ thông của GV và HS. .......................................... 29
Bảng 2.1. Bảng thống kê điểm kiểm tra của học sinh lớp đối chứng và ........ 77
vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Biểu đồ thể hiện mức độ yêu thích của học sinh lớp đối
chứng (11B4) và lớp thực nghiệm (11D8) (Tỷ lệ %) ................... 74
Biểu đồ 2.2. Biểu đồ thể hiện mức độ tham gia của học sinh vào các hoạt
động được tổ chức trong lớp học ở lớp đối chứng (11B4) và
lớp thực nghiệm (11D8) (Tỷ lệ %) ............................................... 75
Biểu đồ 2.3. Biểu đồ so sánh kết quả bài kiểm tra của hai lớp đối chứng
và lớp thực nghiệm (Tỉ lệ %) ........................................................ 78
vii
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. Để giải bài toán về chất lượng giáo dục và đào tạo của nước nhà đáp
ứng nhu cầu của xã hội, cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục. Kế thừa Nghị quyết số 29 của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI, trong
văn kiện đại hội XII, Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; xác định đây là quốc sách hàng
đầu, tiêu điểm của sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường phát
triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI; khẳng định triết lý nhân
sinh mới của nền giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”. Một
trong những yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay
là phải chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Vì vậy, việc xác định
những phẩm chất và năng lực cần hình thành cho học sinh là rất quan trọng.
Để thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông sau năm 2015, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã ban hành Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (trong
chương trình giáo dục phổ thông mới) rất khoa học, toàn diện, cụ thể và chi
tiết. Trong đó, có đề cập đến 8 năng lực cần hình thành cho HS, bao gồm:
năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực thẩm mĩ,
năng lực thể chất, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực tính toán,
năng lực công nghệ thông tin và truyền thông.
2. Thời đại mới đòi hỏi người học phải hết sức năng động, sáng tạo, với
những kiến thức đa dạng, những kĩ năng, phẩm chất và năng lực cần thiết để
sống, tồn tại, thích ứng và phát triển. Một trong những năng lực không thể
thiếu được là năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Bởi lẽ, cuộc sống luôn
đặt ra muôn vàn vấn đề đòi hỏi chúng ta phải giải quyết. Nếu vấn đề được giải
quyết tốt, đầy sáng tạo thì sự thành công sẽ nối tiếp thành công. Ngược lại,
chúng ta sẽ phải loay hoay trong vòng xoáy “thử và sửa sai”, dần dần mất tự
tin, tốn thời gian và sẽ dẫn đến thất bại. Năng lực giải quyết vấn đề và sáng
1
tạo là năng lực thứ hai trong 8 năng lực cần hình thành cho HS theo Dự thảo
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã đề cập ở trên.
3. Tại Hội thảo khoa học quốc gia về DHLS ở trường Phổ thông Việt
Nam, các nhà khoa học, nhà quản lí giáo dục, giảng viên, GV đã đề xuất một
số định hướng ban đầu về việc xây dựng chương trình và SGK môn Lịch sử ở
trường phổ thông sau năm 2015. Một trong những phương án nhận được sự
ủng hộ đông đảo nhất tại hội thảo là đề nghị áp dụng dạy học Lịch sử theo chủ
đề ở trường THPT. Bởi lẽ, dạy học Lịch sử theo chủ đề đáp ứng được yêu cầu
đổi mới giáo dục hiện nay. Nó góp phần hình thành cho HS tư duy lôgic, tổng
hợp kiến thức vào giải quyết vấn đề cụ thể một cách sáng tạo. Nói cách khác,
dạy học Lịch sử theo chủ đề góp phần quan trọng vào việc hình thành, phát
triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho HS.
Từ những lí do trên, với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng
DHLS ở trường phổ thông theo hướng tiếp cận năng lực người học, chúng tôi
lựa chọn đề tài “Phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học
sinh trong dạy học các chủ đề lịch sử Việt Nam lớp 11 trung học phổ
thông” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Dạy học theo chủ đề không phải là một nội dung mới. Vấn đề này đã
được nhiều nhà nghiên cứu đề cập từ rất sớm cả trong nước và nước ngoài.
2.1. Tài liệu nghiên cứu nước ngoài
Trong nhiều cuốn sách, các nhà nghiên cứu nước ngoài đã đề cập đến
dạy học theo chủ đề với vai trò, ý nghĩa to lớn của việc dạy học tích hợp
thành các chủ đề học trong quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng giáo
dục. Cũng trong các cuốn sách này, nhiều học giả đã đề cập đến những vấn đề
lí luận, vai trò, ý nghĩa của dạy học tích hợp theo chủ đề trong môn Lịch sử.
Cụ thể:
Trong cuốn sách “Những cơ sở của việc dạy học nêu vấn đề” Nxb
Giáo dục-1976, tác giả V.Okon đã đưa ra khái niệm về dạy học nêu vấn đề,
2
ông quan niệm “dạy học nêu vấn đề là tập hợp những hoạt động như tổ chức
các tình huống có vấn đề, phát biểu vấn đề, giúp đỡ cần thiết cho HS trong
việc giải quyết vấn đề, kiểm tra phép giải đó và cuối cùng điều khiển quá
trình hệ thống hóa, củng cố kiến thức thu được” (tr.68). Tác giả phân định
vấn đề được nảy sinh ra từ tình huống có vấn đề. Theo đó vấn đề luôn gắn với
hai yếu tố cái đã biết và cái chưa biết trong đó cái đã biết là điều kiện để đi
đến cái cần biết.
Cuốn “Dạy học nêu vấn đề” của I.Ia.Lecne (Nxb Giáo dục-1977) nói
về nguồn gốc của dạy học nêu vấn đề, các chức năng và tiêu chuẩn đánh giá
trong dạy học nêu vấn đề, các dạng dạy học nêu vấn đề. Trên cơ sở phân biệt
các kiểu dạy học xuất hiện từ lâu nay, Lecne chú ý tới vấn đề phát triển tư duy
sáng tạo cho HS, xem đó là yêu cầu quan trọng của nhà trường trong giai
đoạn mới. Vì thế, ông đi sâu nghiên cứu cơ sở lí luận, ông cho rằng “Dạy học
nêu vấn đề có nội dung là: trong quá trình HS giải quyết một cách sáng tạo
các vấn đề và bài toán có vấn đề trong một hệ thống nhất định thì diễn ra sự
lĩnh hội sáng tạo các tri thức và kĩ năng, sự nắm kinh nghiệm hoạt động sáng
tạo mà xã hội tích lũy được, sự hình thành nhân cách có tính tích cực công
dân, có trình độ phát triển cao và có ý thức tự giác của xã hội XHCN” [16,
tr.81].
Từ năm 1973, nhà sư phạm N.G.Đai-ri đã tiến hành phân tích và chỉ rõ
những yêu cầu quan trọng nhất của giờ học và việc chuẩn bị giờ học lịch sử
trong chuyên khảo “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?”. Tác giả nhấn
mạnh đến việc thiết lập hệ thống kiến thức trong các bài học vì “Nội dung của
hầu như giờ học nào cũng đều gắn bó chặt chẽ với những giờ học trước và
giờ học sau” [11, tr. 98]. Việc xây dựng thành các chủ đề trong môn Lịch sử
sẽ giúp HS thấy rõ hệ thống kiến thức vì các sự kiện có mối quan hệ gắn bó
với nhau. Đồng thời, ông đã trình bày các nguyên tắc cơ bản của giờ học lịch
sử ở trường phổ thông. Với ông trong giờ học cần chú ý đến nêu vấn đề,
3
nhằm rèn luyện năng lực nhận thức, phát huy tính tích cực độc lập suy nghĩ
của HS, góp phần nâng cao chất lượng của việc DHLS.
Về nội dung dạy học phát triển năng lực, trong đó có năng lực giải
quyết vấn đề và sáng tạo cho HS cũng có khá nhiều sách, tạp chí, bài viết và
các công trình khoa học đề cập tới.
Ở nước ngoài, có nhiều công trình mang tính lí luận cao, đề cập đến
một số khía cạnh như làm thế nào để phát huy tính tích cực, chủ động của HS.
Những cuốn sách này đã được dịch ra tiếng Việt và được tiếp cận bởi các nhà
giáo dục Việt Nam, có thể kể đến các tác giả và các công trình như:
Cuốn “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào” (Nxb Giáo
dục-1978) của nhà giáo dục Liên Xô I.F.Kharlamop đã chú ý tới tác dụng của
việc phát triển tư duy học tập của HS qua dạy học nêu vấn đề. Đồng thời, qua
đó ông cho rằng để giờ học đạt chất lượng cao, nhiệm vụ trọng tâm là việc
phát huy tính tích cực học tập của HS.
2.2. Tài liệu nghiên cứu trong nước
Ở trong nước cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu và bài viết liên
quan đến dạy học theo chủ đề, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực,
phát triển năng lực của người học.
Trong tác phẩm “Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường”
(Nxb Đại học sư phạm-2005) của tác giả Phan Trọng Ngọ, tác giả đã đề cập
đến các PPDH phổ biến trong nhà trường như: thuyết trình, vấn đáp, thảo luận
nhóm… Trong đó có PPDH giải quyết tình huống có vấn đề. Tác giả đã chỉ ra
cơ sở lí luận của phương pháp, khái niệm, các mức độ của PPDH giải quyết
tình huống có vấn đề, các kĩ thuật thực hiện dạy học giải quyết tình huống có
vấn đề.
Luật Giáo dục Việt Nam được Quốc hội ban hành tháng 6 năm 2005
(sửa đổi, bố sung năm 2009), khẳng định mục tiêu của giáo dục THPT là:
Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có
4
những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát
huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển. Như vậy việc phát huy
được năng lực cá nhân ở mỗi người học là vô cùng quan trọng đối với giáo
dục phổ thông hiện nay.
Giáo trình “Phương pháp dạy học Lịch sử”, tập I,II do Phan Ngọc Liên
chủ biên, nhà xuất bản Đại học sư phạm (tái bản năm 2010) có đề cập đến dạy
học tích hợp. Việc dạy học tích hợp liên môn đòi hỏi GV lịch sử không chỉ có
kiến thức vững chắc về bộ môn mà phải nắm vững nội dung, chương trình các
môn học được giảng dạy ở trường phổ thông, trước hết là Văn học, Địa lí,
Giáo dục công dân. Tuy không đề cập nhiều theo hướng tích hợp chủ đề
nhưng tài liệu đã tập trung phân tích rõ ý nghĩa của dạy học tích hợp trong xu
thế phát triển chung của giáo dục hiện nay đặc biệt là nhấn mạnh sự tích hợp
liên môn giữa các môn học. Đồng thời, cuốn sách cũng đã đề cập đến phát
triển năng lực nhận thức và thực thành cho HS trong học tập lịch sử,trong đó
cuốn sách đề cập đến năng lực tư duy, năng lực thực hành trong học tập lịch
sử.
Trong giáo trình “Phương pháp dạy học môn Lịch sử ở trường THPT”
(2014), tác giả Vũ Quang Hiển và Hoàng Thanh Tú đã trình bày khái niệm
chung về dạy học tích hợp và nhấn mạnh vận dụng tích hợp trong môn Lịch
sử, nhiệm vụ của GV và HS cũng như những ưu điểm của dạy học tích hợp.
Theo đó, môn Lịch sử có thể được tích hợp lại thành các chủ đề, chuyên đề vì
giữa các chương, các bài, các phần có mối quan hệ chặt chẽ giúp cho HS hình
thành kiến thức một cách có hệ thống. Có thể tích hợp liên môn giữa môn học
Lịch sử với các môn học khác làm cho kiến thức các môn học bổ sung cho
nhau, giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn các sự kiện đã học. GV là người chủ
động trong việc phân tích nội dung chương trình và lựa chọn các phương
pháp, phương tiện phối hợp trong quá trình dạy học tích hợp. Khâu chuẩn bị
bài của HS là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của phương
pháp này. Đồng thời, đã đề cập đến PPDH nêu vấn đề. Trong đó tác giả đã
5
nhấn mạnh đến quy trình xây dựng và giải quyết tình huống có vấn đề. Đưa ra
những nhiệm vụ của GV và HS khi giải quyết các tình huống, đồng thời cũng
chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của PPDH này.
Cuốn “Một số chuyên đề phương pháp dạy học Lịch sử” (2002), Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, đã có các bài viết đề cập đến xu hướng tích hợp
liên môn trong dạy học Lịch sử. Tác giả Ngô Minh Oanh đã chỉ ra con đường,
biện pháp sử dụng tốt kiến thức lịch sử thế giới, dạy tốt lịch sử Việt Nam. Từ
mối quan hệ mật thiết gắn bó giữa lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam, chúng
ta có thể xây dựng được nhiều chủ đề lịch sử phù hợp, giúp học sinh hiểu sâu
hơn về lịch sử dân tộc, đồng thời đặt lịch sử nước nhà trong bối cảnh chung
của toàn thế giới, từ đó nhận ra được những giá trị lịch sử và những đóng góp
của dân tộc đối với lịch sử nhân loại.
Nhiều cuốn sách chuyên khảo và các bài viết trên các báo, tạp chí,
trong các hội thảo khoa học cũng đã đề cập đến vấn đề này. Bài viết: “Tích
hợp kiến thức các bộ môn khoa học xã hội trong dạy học Lịch sử ở trường
phổ thông” của tác giả Nguyễn Anh Dũng in trong “Một số chuyên đề
phương pháp dạy học Lịch sử” năm 2002 đã trình bày một số vấn đề về tích
hợp các kiến thức bộ môn khoa học xã hội trong dạy học lịch sử. Tuy chỉ khái
quát về xu hướng tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử mà không đề cập
đến tích hợp theo chủ đề nhưng bài viết đã nhấn mạnh xu hướng tích hợp
ngày càng phổ biến ở trong nước cũng như trên thế giới và hiệu quả to lớn khi
dạy học tích hợp.
Năm 2003, trong cuốn: “Hướng dẫn học và ôn tập lịch sử Trung học
phổ thông” tập 1, tập 2 (2003) tác giả Phan Ngọc Liên chủ biên, chỉ ra việc
ôn tập tổng kết trong môn Lịch sử ở trường phổ thông phải chú ý đến mối
quan hệ giữa lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Do đó, chúng ta có thể vận
dụng dạy học theo chủ đề trong các bài ôn tập để củng cố kiến thức cho HS
đồng thời chú ý đến việc xây dựng các chủ đề tích hợp kiến thức lịch sử thế
giới và lịch sử Việt Nam.
6
Trong cuốn “Phương pháp ôn tập Lịch sử ở trường phổ thông – Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” (2012), tác giả Hoàng Thanh Tú đã chỉ ra việc
căn cứ vào trình độ HS, loại bài ôn tập trong chương trình, mục tiêu cần đạt
để lựa chọn, cấu trúc nội dung ôn tập phù hợp với hình thức tổ chức và
phương pháp tiến hành. “Các nội dung ôn tập có thể cấu trúc theo hai kiểu
điển hình là cấu trúc theo chủ đề khái quát và so sánh các sự kiện trong mối
quan hệ đồng đại/lịch đại và cấu trúc theo chủ đề tương ứng với các nội dung
về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, khởi nghĩa, kháng chiến, chiến
tranh”[27, tr. 215-216]. Dạy và học Lịch sử theo các chủ đề, chuyên đề không
chỉ tạo tư duy logic cho HS, tăng khả năng hiểu bài…mà còn giúp quá trình
ôn tập hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó, HS được ôn tập, củng cố, tổng hợp các
kiến thức ở mức độ cao và biết vận dụng sáng tạo trong học tập.
Tháng 10 năm 2013, hội thảo quốc tế “Đổi mới và hiện đại hóa chương
trình và sách giáo khoa theo định hướng phát triển bền vững” được tổ chức
tại Hà Nội nhằm tăng cường hợp tác, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm phục
vụ cho chương trình đổi mới sau năm 2015, nhà nghiên cứu Nghiêm Đình Vỳ
đã đề xuất “Đổi mới việc biên soạn SGK Lịch sử ở trường phổ thông trong
quá trình hội nhập quốc tế”. Trong đó trình bày dự kiến SGK ở trường THPT
nên viết dưới dạng chủ đề. Chủ đề cũng chính là sự tích hợp kiến thức môn
học gồm những nội dung có tính tổng quát, có thể riêng biệt cũng có thể liên
quan đến nhiều lĩnh vực, liên quan giữa thế giới và Việt Nam, gắn liền với
thực tiễn. Tác giả cũng nhấn mạnh đây là xu thế hiện nay của nhiều nước trên
thế giới. Trong hội thảo, tác giả Hoàng Thanh Tú đã trình bày quan điểm của
mình về vai trò của SGK và đề xuất ý kiến cho SGK mới trong bài viết “Biên
soạn và sử dụng sách giáo khoa lịch sử phổ thông theo định hướng phát triển
năng lực của học sinh”.
Tác giả Trần Trung Dũng, trong bài nghiên cứu “Tổ chức hoạt động
dạy học ở trường THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh” đăng
trên tạp chí khoa học Giáo dục, số 106, tháng 7/2014, đã đề cập đến khái niệm
7
về năng lực, các năng lực chung cần hình thành và phát triển ở HS và tổ chức
hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS.
Bài viết “Sử dụng tranh ảnh theo hướng phát triển năng lực của học
sinh trong dạy học Lịch sử ở trường THPT” của tác giả Phạm Văn Châu đăng
trên tạp chí Dạy và học ngày nay, số 11/2014, đề cập đến việc sử dụng đồ
dung trực quan trong DHLS, mục đích sử dụng và vai trò của việc sử dụng đồ
dùng trực quan trong dạy học nhằm phát huy năng lực của người học.
Bài nghiên cứu “Rèn luyện cho học sinh kĩ năng khai thác kênh hình
trong dạy học lịch sử theo hướng phát triển năng lực người học” của tác giả
Nguyễn Mạnh Hưởng đăng trên tạp chí Giáo dục, số 348, tháng 12/2014, đã
đề cập đến khái niệm, nội dung, các loại kênh hình trong DHLS, cách đặt câu
hỏi tương ứng khi sử dụng các kênh hình khác nhau, các tiêu chí đánh giá kĩ
năng khai thác và sử dụng kênh hình lịch sử, từ đó nhằm phát huy được năng
lực giải quyết vấn đề của HS.
Tác giả Đặng Quốc Bảo, Phạm Minh Mục với bài nghiên cứu “Năng
lực và phát triển năng lực cho học sinh” đăng trên tạp chí khoa học Giáo dục,
số 117, tháng 6/2015 đã đề cập đến tiếp cận về phạm trù năng lực, phân biệt
giữa năng lực và năng khiếu.
Trong cuốn “Kỷ yếu hội thảo dạy học tích hợp và dạy học phân hóa ở
trường trung học đáp ứng nhu cầu đổi mới chương trình và sách giáo khoa
sau năm 2015” cũng có rất nhiều bài viết đề cập đến các mô hình dạy học
tích hợp và việc áp dụng tích hợp vào mô hình giáo dục của Việt Nam. Một
số bài viết “Tích hợp dạy học bộ môn ở trường trung học phổ thông” của tác
giả Võ Văn Duyên Em, “Dạy học tích hợp trong chương trình THPT” của tác
giả Nguyễn Thị Kim Dung,.. đã đề cập đến các hình thức dạy học tích hợp.
Bên cạnh đó, nhóm tác giả Ngô Minh Oanh, Trương Công Thanh cũng đã có
bài viết về “Thực trạng dạy học tích hợp, phân hóa hiện nay và đề xuất phát
triển chương trình, sách giáo khoa cho giáo dục phổ thông Việt Nam năm
2015”.
8
Gần đây, trong xu thế đổi mới DHLS, một số đề tài khóa luận, luận văn
cũng viết về dạy học theo chủ đề trong dạy học môn lịch sử ở nhà trường phổ
thông. Chẳng hạn như: luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Thùy Chi (2010):
“Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử ở trường phổ thông
trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay” đề cập đến việc vận dụng dạy học
tích hợp các chuyên ngành Lịch sử theo một chủ đề; luận văn tốt nghiệp
“Phương pháp dạy học theo chủ đề trong chương trình Lịch sử lớp 11” (Vận
dụng ở trường THPT Lương Tài, Bắc Ninh) (2013) của tác giả Trương Thị
Hòa, và luận văn của tác giả Nguyễn Thị Hằng “Xây dựng bài dạy theo chủ
đề trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 11 với sự hỗ trợ của Prezi” cũng đã đề
cập đến một số cách thức để xây dựng các chủ đề trong DHLS ở trường
THPT. Hay như khóa luận tốt nghiệp của tác giả Đặng Thị Nhung: “Xây
dựng và tổ chức dạy học theo chủ đề trong chương trình Lịch sử Việt Nam lớp
10 ở trường THPT”, tác giả cũng đề ra các biện pháp xây dựng và tổ chức
dạy học theo chủ đề trong chương trình lớp 10 ở trường THPT. Và gần đây là
khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Lệ: “Thiết kế và dạy học chủ đề tích
hợp trong môn Lịch sử lớp 11, chương trình chuẩn”, trong đó tác giả cũng đề
cập đến việc xây dựng một số chủ đề trong chương trình lịch sử lớp 11 và một
số biện pháp dạy học theo những chủ đề đã được xây dựng. Nguyễn Thùy
Dung với “Xây dựng bài dạy môn lịch sử theo hướng phát triển năng lực giải
quyết vấn đề cho học sinh lớp 10 THPT” đã đề ra các biện pháp nhằm phát
triển năng lực giải quyết vấn đề cho HS.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết, luận văn, khóa luận…
nêu trên đều ít, nhiều đề cập đến các vấn đề như: dạy học theo chủ đề, dạy
học phát triển năng lực người học. Tuy nhiên chưa có cuốn sách, bài viết cụ
thể nào đề xuất vấn đề dạy học phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo cho HS trong dạy học các chủ đề Lịch sử Việt Nam lớp 11 THPT. Đây là
một hướng đi mới trong việc phát triển năng lực người học, đáp ứng được yêu
cầu đổi mới giáo dục mà Bộ giáo dục và Đào tạo đang phát động.
9
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho HS trong dạy học
các chủ đề lịch sử Việt Nam ở trường THPT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho HS trong dạy học
các chủ đề lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường THPT.
Về phạm vi điều tra, khảo sát thực trạng: khảo sát GV và HS ở các
trường THPT Mỹ Đức A, THPT Mỹ Đức C, THPT Hợp Thanh ( Huyện Mỹ
Đức, thành phố Hà Nội); trường THPT Ứng Hòa A (Huyện Ứng Hòa, thành
phố Hà Nội); trường THPT chuyên Chu Văn An – tỉnh Lạng Sơn.
Thực nghiệm tiến hành ở khối 11 trường THPT Mỹ Đức C, huyện Mỹ
Đức, thành phố Hà Nội.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc phát triển năng lực giải
quyết vấn đề và sáng tạo cho HS trong dạy học chủ đề, đề tài đề xuất các biện
pháp phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho HS trong dạy học
các chủ đề lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường THPT nhằm góp phần nâng cao
chất lượng dạy học bộ môn đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu lí luận về việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo cho HS trong dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam ở trường THPT.
- Đánh giá thực trạng việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo cho HS trong dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam ở trường THPT.
- Tìm hiểu chương trình, SGK lịch sử lớp 11 trường THPT để xây dựng
các chủ đề nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho HS.
10
- Đề xuất các biện pháp phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo cho HS trong dạy học chủ lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường THPT.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm khối 11 trường THPT Mỹ Đức C,
huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta về lịch sử, giáo dục.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí thuyết: đọc và phân tích, tổng hợp tài liệu tâm lí, giáo
dục học, giáo dục lịch sử, sách báo, tạp chí, internet… về vấn đề nghiên cứu.
- Nghiên cứu thực tiễn: quan sát, dự giờ, trao đổi với GV, HS, điều tra
đánh giá thực trạng việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho
HS trong dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam ở trường THPT.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng những biện pháp
đề xuất trong luận văn về việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo cho HS trong dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam ở lớp 11, trường THPT.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu thực hiện phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho HS
trong dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường THPT theo các biện
pháp luận văn đề xuất sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
7. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài
7.1. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: làm phong phú thêm lí luận PPDH lịch sử nói
chung và vấn đề phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho HS
trong dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam ở trường THPT nói riêng.
11
- Ý nghĩa thực tiễn: là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các
trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm, Đại học Giáo dục; GV môn lịch sử và
bản thân tác giả luận văn vận dụng trong quá trình DHLS ở trường THPT.
7.2. Đóng góp của đề tài
Thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra, luận văn góp phần:
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa, sự cần thiết của việc phát triển năng lực
giải quyết vấn đề và sáng tạo cho HS trong dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam ở
trường THPT.
- Đánh giá đúng thực trạng việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo cho HS trong dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam ở trường THPT.
- Đề xuất được các biện pháp phát triển năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo cho HS trong dạy học chủ lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường THPT.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn
gồm 2 chương:
Chương 1. Phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học
sinh trong dạy học các chủ đề lịch sử Việt Nam ở trường THPT - Lí luận và
thực tiễn
Chương 2. Các biện pháp phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng
tạo cho học sinh trong dạy học chủ đề lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường THPT
12
Chƣơng 1. PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
VÀ SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CÁC CHỦ ĐỀ
LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
– LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Cơ sở xuất phát của việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo cho HS trong dạy học chủ đề lịch sử ở trường THPT
* Mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo
Chúng tôi căn cứ vào các văn bản sau để nghiên cứu vấn đề phát triển
năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho HS trong dạy học các chủ đề lịch
sử ở trường THPT:
Điều 27, Luật Giáo dục của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam số 38/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 (có hiệu lực từ ngày
01 tháng 01 năm 2006 – sửa đổi và bổ sung năm 2009) quy định rõ: “Mục
tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức,
trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân,
tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.”
Nghị quyết số 29 – NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ 8
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) xác định rõ: “Tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi
trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”. Đồng thời, nhấn mạnh:
“Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học,
hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung
giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình
độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú
13
trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công
dân”.
Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội ngày 28/11/2014 mang tên
Nghị quyết về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông có
nhấn mạnh đến mục tiêu, yêu cầu đổi mới chương trình, SGK là “chuyển nền
giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện
cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa trí, đức, thể, mĩ và phát huy tốt nhất
tiềm năng của mỗi học sinh”.
Quyết định 404/QĐ – TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 27 tháng 03
năm 2015 mang tên Quyết định phê duyệt đề án đổi mới chương trình, sách
giáo khoa giáo dục phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất cũng đã
nhấn mạnh: “Chương trình mới, sách giáo khoa mới được xây dựng theo
hướng coi trọng dạy người với dạy chữ, rèn luyện, phát triển cả về phẩm chất
và năng lực; chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo
đức, nhân cách, lối sống; phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu và định hướng
nghề nghiệp cho mỗi học sinh; tăng cường năng lực ngoại ngữ, tin học và các
kĩ năng sống, làm việc trong điều kiện hội nhập quốc tế; đẩy mạnh ứng dụng,
phát huy thành quả khoa học công nghệ thế giới, nhất là công nghệ giáo dục
và công nghệ thông tin.”
Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (trong chương trình
giáo dục phổ thông mới) đã xác định rõ 8 năng lực cần hình thành cho HS:
(1) Năng lực tự học với các năng lực cụ thể như: Xác định mục tiêu học
tập, lập kế hoạch và thực hiện cách học, đánh giá và điều chỉnh việc học.
(2) Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo với các nội dung: Phát hiện
làm rõ vấn đề, đề xuất lựa chọn giải pháp, thực hiện và đánh giá giải quyết
vấn đề, nhận ra ý tưởng mới, hình thành và triển khai ý tưởng mới.
(3) Năng lực thẩm mĩ với các nội dung: Nhận ra cái đẹp, diễn tả cái
đẹp, tạo ra cái đẹp.
14
(4) Năng lực thể chất với các nội dung: Sống thích ứng và hài hòa với
môi trường, rèn luyện sức khỏe thể lực, nâng cao sức khỏe tinh thần.
(5) Năng lực giao tiếp với các nội dung: Sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt,
sử dụng ngoại ngữ, xác định mục đích giao tiếp, thể hiện thái độ giao tiếp, lựa
chọn nội dung và phương thức giao tiếp.
(6) Năng lực hợp tác với các nội dung: Xác định mục đích và phương
thức hợp tác, Xác định trách nhiệm và hoạt động của bản thân, xác định nhu
cầu và khả năng của người hợp tác, tổ chức và thuyết phục người khác, đánh
giá hoạt động hợp tác.
(7) Năng lực tính toán với các nội dung: Sử dụng các phép tính và đo
lường cơ bản, sử dụng ngôn ngữ toán, sử dụng công cụ tính toán.
(8) Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) với các nội
dung: Năng lực sử dụng và quản lí các phương tiện, công cụ của công nghệ kĩ
thuật số; năng lực nhận biết, ứng xử phù hợp với những chuẩn mực đạo đức
trong xã hội số hóa; năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề trong môi trường
công nghệ tri thức; năng lực học tập, tự học mọi lúc, mọi nơi, suốt đời với sự
hỗ trợ của ICT; năng lực giao tiếp hòa nhập, hợp tác qua môi trường, dịch vụ
ICT.
* Đặc điểm của tri thức lịch sử
Tri thức lịch sử có nhiều đặc điểm, trong đó có tính lôgic, tính hệ
thống. Đặc điểm này chi phối nội dung kiến thức có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Vì vậy, khi các nội dung được tích hợp lại thành những chủ đề sẽ giúp
HS rèn luyện khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh các sự kiện từ đó tìm ra
bản chất, quy luật chi phối sự phát triển của lịch sử.
Dạy học theo chủ đề góp phần tạo tư duy lôgic cho HS. Điều này được
thể hiện rất rõ trong việc thực hiện “tính kế thừa” trong nhận thức các nội
dung của lịch sử dân tộc và thế giới từ cổ đại đến hiện đại làm cho HS hiểu rõ
sự phát triển của xã hội một cách liên tục, thống nhất, đồng thời giúp cho HS
nhận thấy mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, tính toàn
15
diện của lịch sử. Đặc biệt, khi các nội dung kiến thức lịch sử được tích hợp
thành chủ đề giúp cho kiến thức của HS mang tính hệ thống và luôn có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau. Các kiến thức được khai thác từ các chủ đề có thể
liên quan đến một hay nhiều lĩnh vực, nhiều chuyên ngành khác nhau.
* Yêu cầu phát huy tính tích cực học tập của HS
Dạy học theo chủ đề sẽ tăng cường khả năng hiểu bài, khả năng huy
động những kiến thức đã học để hiểu sâu, toàn diện các kiến thức lịch sử cho
HS. Trên cơ sở đó HS sáng tạo trong học tập.
Dạy học theo chủ đề hướng dẫn HS biết cách vận dụng những kiến
thức đã học, đã biết vào tiếp thu kiến thức mới. Do vậy tiết kiệm được thời
gian trong dạy học. GV sẽ không dạy lại những nội dung HS đã biết, tránh
được sự trùng lặp nội dung kiến thức làm cho HS nhàm chán.
Dạy học theo chủ đề giúp tối đa hóa sự tham gia của người học, hạn
chế đến mức tối thiểu quyết định và can thiệp, áp đặt của người dạy trong quá
trình học tập. Dạy học theo chủ đề là cách dạy học hiệu quả trong việc hướng
dẫn HS huy động những kiến thức đã học, rèn luyện các kỹ năng học tập. Vì
vậy, phát huy tính tích cực, chủ động và gây hứng thú học tập cho HS.
* Xu hướng đổi mới dạy học của thế giới
Ở Việt Nam, dạy học theo chủ đề mới chỉ được đề cập trong mấy năm
gần đây. Tuy nhiên, đối với thế giới, dạy học theo chủ đề đã được nhiều nước
trên thế giới áp dụng. Trong nội dung cải cách giáo dục ở nhiều nước trên thế
giới, SGK đã được biên soạn lại dưới dạng các chủ đề. Lấy ví dụ gần đây nhất
đó là Phần Lan. Nhiều năm qua, Phần Lan có một nền giáo dục rất hiệu quả,
luôn nằm trong nhóm dẫn đầu trên các bảng xếp hạng khả năng đọc hiểu và
tính toán của thế giới.
Chỉ có một số quốc gia châu Á như Singapore và Trung Quốc có thứ
hạng cao hơn Phần Lan trong bảng xếp hạng của Chương trình đánh giá học
sinh quốc tế (PISA). Chính trị gia và chuyên gia giáo dục từ khắp nơi trên thế
giới - bao gồm cả Anh - đã đến Helsinki với hy vọng có thể tìm hiểu và nhân
16