Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN âm nhạc tiểu học dân ca

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.99 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.....................................................................................................................................1

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: “ĐẨY MẠNH HIỆU QUẢ VIỆC DẠY HÁT DÂN CA
TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC”
Người thực hiện: Pham Thị Mến
Giáo viên dạy môn: Âm nhạc
Đơn vị: Trường Tiểu học Trường Sơn
1. Cơ sở đề xuất giải pháp
1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, mỗi thời đại bao giờ cũng
mang trong nó những dấu ấn riêng tạo nên bản sắc thời đại, những dấu ấn khẳng
định/chứng tỏ sự tồn tại của thời đại. Song có lẽ chưa bao giờ diễn trình lịch sử
thế giới lại có một thời đại mang trong nó nhiều sự phong phú, phức tạp trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội như thời đại ngày nay. Chúng ta đang sống
trong thời đại của công nghệ thông tin, nền kinh tế nước ta được xác định là kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là thời đại mà toàn cầu
hóa được nhìn nhận như một tất yếu của sự phát triển xã hội loài người. Những
khái niệm “Trái đất ngôi nhà chung của chúng ta”, “Làng thế giới”, “Thế giới
phẳng” ngày một trở nên thân quen với nhiều vấn đề không chỉ là của chỉ riêng
một quốc gia mà có ý nghĩa đối với toàn thế giới.

1


Đối với mỗi quốc gia dân tộc, khi mà nhiều lĩnh vực của đời sống và khoa
học kỹ thuật đang mang trong nó những giá trị mang tính toàn cầu, thì văn hóa
chính là sự khẳng định những nét đặc trưng riêng có của quốc gia đó dân tộc đó
trên thế giới. Là một thành tố quan trọng cấu thành văn hóa, âm nhạc dân tộc cổ
truyền với những giá trị tiềm ẩn mang tính bản sắc cũng thật sự là minh chứng của


một dân tộc trong thời đại của toàn cầu hóa. Âm nhạc dân tộc cổ truyền ra đời và
tồn tại như một thành tố quan trọng thân thiết và không thể thiếu của sinh hoạt
văn hóa dân gian Việt Nam. Âm nhạc dân tộc truyền thống gắn bó với mỗi con
người từ thuở lọt lòng trong lời ru của mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay trong
tiếng kèn đưa tiễn về nơi vĩnh hằng. Âm nhạc dân tộc cổ truyền là cơ sở quan
trọng cho sự phát triển của nền âm nhạc mới Việt Nam. ngoài giờ nhằm giúp cho
thế hệ trẻ hiểu biết và tự hào về nét văn hóa của dân tộc. Bởi trong thời đại hiện
nay, học sinh phần lớn bị đắm mình trong các dòng nhạc trẻ, nhạc nước ngoài .
Qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các băng đĩa bày bán tràn lan.
Nhiều học sinh cảm thấy dân ca rất xa lạ với thị hiếu âm nhạc hằng ngày. Không
phải vì các em không yêu thích dân ca mà vì các em không có điều kiện tiếp cận
nhiều với dân ca. Trong chương trình giảng dạy âm nhạc của trường tiểu học dân
ca còn ở mức độ khiêm tốn: 10 bài chính khóa và 5 bài tự chọn. Với thời lượng đó
để mong muốn học sinh hiểu biết nhiều về dân ca là điều không dễ. Với học sinh
trường tiểu học Trường Sơn, qua khảo sát tôi thấy vốn dân ca của các em rất
nghèo nàn, nhưng không vì vậy mà các em không hứng thú với nhạc dân ca, chính
những nét đặc trưng của từng làn điệu dân ca, đặc trưng của từng vùng miền đã
cuốn hút các em bằng những giai điệu đẹp, chất chứa những ý nghĩa của ông bà
xưa để lại. Chính điều này đã thôi thúc tôi mang dân ca đến gần với các em hơn
nữa để các em thêm yêu những làn điệu dân ca, từ đó muốn gìn giữ và phát triển
chúng. Trong phân phối chương trình môn Âm nhạc Tiểu học còn lồng ghép
những bài hát dân ca nước ngoài, điều này rất tốt vì các em có thể mở rộng kiến
thức của mình, có thể phân biệt được sự khác nhau giữa dân ca Việt Nam với dân
ca nước ngoài, sẽ hiểu thêm về sự tinh túy của bản sắc Văn hóa Việt Nam và sẽ
trân trọng hơn những bản sắc tốt đẹp đó.
Trong bài hát : Lời Bác dặn trước lúc đi xa có câu hát : Rằng đã yêu Tổ
Quốc mình, càng yêu tha thiết những khúc hát dân ca”. Đó là một trong những lời
di chúc cuối cùng của Bác, thể hiện Bác có tình cảm đặc biệt với những khúc hát
dân ca, yêu dân ca gắn liền với yêu Tổ Quốc. Những triết lí sâu sắc Bác muốn
nhắn gửi tới con cháu chúng ta: Dân ca chính là hồn của dân tộc là một trong

những tinh hoa văn hóa của dân tộc, phải được gìn giữ. Mỗi quốc gia đều có văn
hóa của riêng mình. Văn hóa chính là bộ mặt của dân tộc. Thủ tướng Phạm Văn
Đồng khi còn sống cũng đã nói rằng: “Văn hóa của dân tộc chính là bộ mặt của

2


dân tộc ấy”. Vậy nếu đánh mất văn hóa của dân tộc tức là không còn mặt mình
nữa. Nếu chúng ta yêu dân ca, hiểu về dân ca thì trong mỗi chúng ta sẽ rất gắn bó
với dân tộc mình, với đất nước mình.
Trẻ em là những mầm non, là người chủ tương lai của đất nước phải dạy
cho các em biết về dân ca, về văn hóa của đất nước mình, để các em vừa tiếp thu
nền văn hóa thế giới vừa gìn giữ được những tinh hoa văn hóa của dân tộc. Vì vậy
việc phát huy và đẩy mạnh hiệu quả việc dạy hát dân ca cho học sinh là điều rất
cần thiết.

1.2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp
1.2.1. Cơ sở vật chất và đồ dùng dạy học
Trường tiểu học Trường Sơn được trang bị phòng Âm nhạc, phòng học
thoáng mát có đủ quạt, đèn, đàn Organe và đàn Piano điện tử, bàn ghế đầy đủ
phục vụ cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh. Bàn, ghế và các trang thiết
bị dạy học được sắp xếp hợp lí để học sinh có thể vận động và sử dụng đồ dùng
học tập một cách thuận tiện. Thanh phách, song loan, cóc gỗ, tranh ảnh minh họa,
bảng phụ được sưu tập và làm thêm khá đầy đủ để phục vụ cho việc dạy và học.
1.2.2. Tình hình học sinh
Đa số học sinh yêu thích môn Âm nhạc
Trình độ hiểu và thuộc các bài dân ca ở học sinh còn rất hạn chế, có thể các
em biết hát nhưng lại không nhớ nguồn gốc hoặc tên bài hát.
1.2.3. Giáo viên
Toàn trường có 2 giáo viên phụ trách môn Âm nhạc cả hai đều chịu khó tìm

tòi, học hỏi để nâng dần chất lượng giảng dạy môn Âm nhạc, giúp học sinh đạt
được tốt trình độ theo chuẩn kiến thức kĩ năng do Bộ GD&ĐT quy định.
1.3 Mục tiêu của giải pháp
Nắm được khả năng tiếp thu của học sinh tại Trường Tiểu học Trường Sơn
để rút ra một số phương pháp giảng dạy phù hợp.
Phân tích các ưu nhược điểm trong các tiết dạy.

3


Đề xuất các biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng để nâng cao chất
lượng giảng dạy.
1.3.1. Về kiến thức
Bước đầu giúp học sinh hiểu được:
Dân ca là g?. Do ai sáng tác? Thời gian sáng tác?
Ý nghĩa của dân ca đối với cuộc sống lao động, sinh hoạt của nhân dân ta từ
xưa đến nay.
Tại sao chúng ta phải nghe, tìm hiểu và học hát dân ca?

1.3.2. Về kĩ năng
Học sinh có thể hát thuộc và biết được một số dân ca của các vùng miền, cơ
bản là dân ca Vùng núi phía Bắc, dân ca đồng bằng Bắc bộ, dân ca Trung bộ, Dân
ca Nam bộ, dân ca Tây Nguyên.
Học sinh biết hát kết hợp vận động tương đối phù hợp với nội dung với giai
điệu của bài hát
1.3.3 Về thái độ, tình cảm
Yêu dân ca, tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc và biết trân trọng
gìn giữ.
Tuyên truyền vận động người thân bạn bè tìm hiểu và hát dân ca.
1.4 Căn cứ của đề xuất giải pháp

Nghiên cứu tài liệu có liên quan.
Khảo sát đánh giá nguyên nhân qua số liệu khảo sát.
Qua tình hình thực tiễn rút ra một số phương pháp mới để giảng dạy có hiệu
quả.
1.5. Phương pháp áp dụng, đối tượng và phạm vi áp dụng
1.5.1. Phương pháp thực hiện
Phương pháp thống kê: sử lí thông tin và nắm bắt số liệu

4


Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức hát dân ca theo cặp, theo nhóm, thi đua
giữa các tổ và nhận xét lẫn nhau
Phương pháp diễn xướng: Dạy cho học sinh kiểu hát, lối hát, cách thể hiện
động tác, cử chỉ khi hát và tạo môi trường hát dân ca cho học sinh.
Phương pháp kiểm tra, đánh giá: kiểm tra đánh giá về vốn dân ca của học
sinh
1.5.2. Đối tượng và phạm vi áp dụng
Thực hành giảng dạy tại Trường Tiểu học Trường Sơn áp dụng cho học sinh
lớp 4.
Nội dung chương trình, tài liệu sách giáo khoa, giáo trình giảng dạy lớp 4.
Hình thức: Học hát, tập gõ đệm và vận động theo bài hát.
2. Qúa trình hình thành và nội dung giải pháp
2.1. Quá trình hình thành nên giải pháp
Làng quê Việt Nam ở đâu cũng vậy, ẩn chứa trong nó bao điều gần gũi và
thân thương. Mỗi một miền quê đều có những câu hò, điệu hát rất chung mà lại
rất riêng, mang âm hưởng của từng vùng, miền. Tất cả cùng hòa vào câu thơ,
giọng hát của những làn điệu, tạo thành dòng ca dao dân ca Việt Nam rất đa dạng
và phong phú.
Ca dao dân ca, xét về góc độ tư duy của dân tộc, là tấm gương bức xạ hiện

thực khách quan của mỗi dân tộc với lối sống, điều kiện sống và những phong tục
tập quán riêng. Hình ảnh về thiên nhiên, cuộc sống, về truyền thống dân tộc, quan
hệ xã hội được phạm trù hóa theo những cách khác nhau, bằng những hình thức
ngôn ngữ khác nhau. Nghiên cứu về ca dao dân ca không chỉ cho thấy những nét
đẹp văn hóa của người Việt Nam mà còn làm nổi bật lên tinh thần lạc quan, yêu
đời, yêu người thiết tha. Ca dao dân ca là kết tinh thuần tuý của tinh thần dân tộc,
là nét đẹp trong văn hóa dân gian Việt Nam. Với cội nguồn lịch sử và chữ viết rất
phong phú đa dạng nên ca dao và dân ca có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Các công
trình nghiên cứu về văn hóa dân gian, cũng như các nhà khoa học có liên quan đã
khẳng định một trong những dấu tích của ca dao cách chúng ta khoảng trên dưới
2.500 năm. Điều này được thể hiện rất rõ qua các hoa văn trên trống đồng và các
hiện vật khảo cổ cùng niên đại. Phân tích các họa tiết hoa văn trên trống đồng,
nhiều người đã tìm thấy ở đây hình ảnh lễ thờ nữ thần Mặt Trời cũng là nữ thần
Nông nghiệp. Trong lễ hội này đã sử dụng các hình thức âm nhạc, thanh nhạc múa
hát và các nhạc khí.

5


Nhiệm vụ dạy nhạc trong nhà trường là nhằm đưa âm nhạc đến với trẻ thơ,
là điều kiện ban đầu trẻ cảm thụ âm nhạc, hiểu biết nghệ thuật, đó chính là những
mắt xích đầu tiên, quan trọng nhất để khơi dậy ở trẻ những cảm xúc với âm nhạc
và còn giữ mãi trong tâm hồn trẻ suốt cuộc đời. Đưa những bài hát dân ca vào
trong chương trình học của học sinh tiểu học là một việc hết sức cần thiết trong
việc bảo tồn và gìn giữ những nét đẹp văn hoá Việt Nam.
2.2. Những cải tiến cho phù hợp với thực tiễn
Để thực hiện nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và
Đào tạo về bộ môn âm nhạc ở trường Tiểu học, tôi đã đi xâm nhập thực tế, trao
đổi với các em vào giờ ra chơi và dự giờ đồng nghiệp và thực tế các tiết dạy của
bản thân.

Ngay từ đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học hát nhạc của các
em khối 1 và đi sâu nghiên cứu thực nghiệm ở lớp 4 tại trường làm đối chứng.
Khảo sát có nội dung như sau:
Trong chương trình Âm nhạc lớp 1, 2 ,3 các em đã được học rất nhiều bài
hát, xen kẽ trong đó là những bài hát dân cac của từng dân tộc, của từng vùng
miền. Các em hãy nhớ lại và kể tên cho cô một số bài hát dân ca mà em biết. Kết
quả khảo sát như sau:

Số HS biết trên

Số HS biết dưới

Số HS không nêu

5 bài dân ca

5 bài dân ca

được bài dân ca nào

10%

85%

5%

Stt

1


2.2.1 Đánh giá kết quả khảo sát
Kết quả khảo sát các lớp, xét về mặt bằng tôi thấy kết quả đạt được như vậy chưa
được khả quan. Vì yêu cầu đưa ra là các bài hát dân ca nên các em còn chưa nhớ
tên bài hát hoặc các em thuộc bài nhưng chưa nhớ tên hoặc nguồn gốc của bài hát,

6


chưa nói đến việc các em thể hiện đúng tính chất, các chỗ luyến láy đặc trưng
làm nên bài hát. Đa số thích học môn này tuy nhiên trong số đó còn một vài em
còn sợ lên biểu diễn ngượng ngùng, e ngại, sợ sệt, vì thế đây là một thực trạng rất
đáng lo ngại trong tiết dạy hát vì đó là môn nghệ thuật đáng lẽ phải thu hút được
sự hứng thú yêu thích học môn này của học sinh. Nếu đội ngũ giáo viên của
chúng ta không biết đổi mới phương pháp dạy học, không biết phát huy khả năng
vốn có và khám phá năng khiếu bẩm sinh của các em thì sẽ không có được tiết
dạy hát đạt kết quả cao.
Từ những vấn đề trên tôi đã tìm hiểu ra nguyên nhân để có hướng khắc
phục những tồn tại trong việc dạy và học.

* Nguyên nhân:
Nguyên nhân lớn vẫn là giáo viên chưa biết phối kết hợp các phương pháp
sao cho hợp lý và sinh động để thu hút học sinh vào tiết dạy, truyền thụ kiến thức
phải mang tính vừa sức, phù hợp với lứa tuổi để giúp các em không có năng khiếu
xoá bỏ những mặc cảm tự ti thì đều có thể học được bộ môn âm nhạc.
Trong quá trình giảng dạy đa số giáo viên vẫn sử dụng các phương pháp cũ
trong tiết dạy không biết sử dụng đồ dùng dạy học, nhất là đánh đàn, chưa thu hút
được sự yêu thích, ham muốn của học sinh đối với môn nghệ thuật này.
Vậy làm thế nào để học sinh tốt môn âm nhạc nói chung và yêu thích
những làn điệu dân ca nói riêng? Điều đó phụ thuộc rất lớn vào phương pháp,
cách tổ chức dạy học của giáo viên. Mỗi chúng ta đều phải biết vận dụng linh hoạt

các phương pháp dạy học và đổi mới phương pháp thì mới phát huy được hết khả
năng của học sinh, tự các em tìm ra kiến thức cho bản thân mình, đó là cách “hát
không hay nhưng các em vẫn có thể hát đúng được”, như vậy giờ dạy hát mới đạt
hiệu quả cao.
2.2.2 Vấn đề cần giải quyết
Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của việc dạy hát dân ca trong trường
Tiểu học sau khi nắm bắt được những ưu điểm, hạn chế của phương pháp dạy học
cũ, tôi đã nghiên cứu và đổi mới phương pháp dạy âm nhạc bằng cách hướng vào
giải quyết những vấn đề sau:
Giúp giáo viên sử dụng tốt đồ dùng dạy học, cụ thể như: bản đồ đối với
những bài hát dân ca, tranh minh họa cho từng bài hát ,đàn… và một số phương
pháp như luyện thanh, uốn nắn những sai sót, hát hoà giọng trong tập thể.

7


Tổ chức các trò chơi âm nhạc qua các giai điệu bài hát nhằm phát triển tai
nghe, phản ứng nhanh nhạy chính xác của học sinh, thu hút sự chú ý và phát huy
tốt khả năng âm nhạc của học sinh, tạo tính tích cực chủ động sáng tạo trong việc
lĩnh hội kiến thức.
Cải thiện phương pháp dạy môn âm nhạc để có phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học đạt hiệu quả cao.

2.3. Nội dung của giải pháp mới
* Những vấn đề chung
Để học sinh tự tin thể hiện tốt các làn điệu dân ca và năm được nguồn gốc
của từng bài và đặc trưng của từng vùng miền đầu tiên tôi hình thành cho các em
một số thói quen học tập như sau:
Thói quen nhận biết, ghi nhớ đặc trưng của từng bài hát qua từng tiết học.
Giờ học phải chú ý học hát dưới sự chỉ đạo của giáo viên.

Biết vận dụng vào nhạc để hát cho đúng, phải tạo cho mình kiến thức âm
nhạc vững chắc để biết nhận xét, so sánh người hát sau bài học biết hát ở mức độ
đơn giản nhất.
Về phía giáo viên:
Thật sự chú ý trong việc chuẩn bị đồ dùng dạy học hấp dẫn, thu hút sự chú
ý và gây dựng hứng thú được học nhạc của học sinh. Sưu tầm, nghiên cứu kĩ
lưỡng về dân ca và đặc trưng của từng vùng miền. Sưu tầm các bài hát dân ca làm
nền tảng để học sinh dựa vào đó để phân biệt đặc trưng. Thường xuyên áp dụng
các phương pháp đổi mới và sử dụng phương pháp trong giờ dạy sao cho hợp lý
đối với từng kiểu bài để học sinh không bị nhàm chán trong tiết học.
Cần chú trọng rèn luyện và không ngừng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
2.3.1 Giới thiệu sơ lược về dân ca:
Bắt đầu giờ học hát dân ca giáo viên củng cố cho học sinh những kiến thức
đã học về dân ca: Dân ca là gì? Do ai sáng tác?

8


Dân ca là những bài hát do dân tự hát lên trong khi lao động sản xuất hoặc
trong các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ không phải do một nhạc sĩ nào cả, mới đầu
chỉ do một người hát rồi nhiều người nghe hát theo, được truyền miệng từ người
này sang người khác và lưu truyền qua nhiều thế hệ trở thành bài hát đặc trưng
của từng vùng miền, có chất giọng, ngữ điệu và phản ánh cuộc sống của người
dân ở vùng miền ấy.
Vì sao em phải học hát dân ca?
Vì dân ca là một trong những tinh hóa văn hóa của dân tộc Việt Nam rất
được quan tâm và gìn giữ. Học dân ca giúp các em hướng về cội nguồn và hiểu
hơn những giá trị độc đáo trong Văn hóa cổ truyền dân tộc.
2.3.2 Khảo sát vốn dân ca của học sinh (lớp 4 )
Cách tiến hành:

Trong phần kiểm tra bài cũ hay trong tiết ôn tập, hoặc trước khi cho nghe
hát một bài dân ca, giáo viên cho học sinh làm bài tập sau:
Viết tên các bài dân ca mà em biết:
- Dân ca Bắc bộ: …
- Dân ca Trung bộ: …
- Dân ca Nam Bộ: …
Về sau cũng bài tập này được nâng dần lên, yêu cầu tìm thêm:
- Dân ca vùng núi phía Bắc: …
- Dân ca Tây Nguyên: …
Qua bài tập trên giúp giáo viên nắm được tỉ lệ học sinh biết các bài dân ca
nhiều hay ít để bồi dưỡng thêm và so sánh với những năm học sau cùng thời
điểm. Mặc khác bài tập còn có tác dụng giúp học sinh biết đúng các bài dân ca
theo vùng miền và được biết thêm những bài dân ca khác do các bạn và cô giáo
cung cấp thêm. Qua tên bài hát mà các em nêu đúng, tôi yêu cầu em hát một câu
trong bài em vừa nêu. Nhiều học sinh rất hứng thú trong việc này, các em đã
mang lại tiếng cười vui trong lớp.
Học sinh nhỏ thường hay quên nên giáo viên có thể lặp đi lặp lại bài tập
này nhiều lần trong năm học. Sau mỗi lần làm bài giáo viên dặn học sinh về nhà
tìm thêm các bài dân ca của các vùng miền.

9


Kết quả: Qua cách làm trên học sinh càng ngày càng biết thêm nhiều bài
dân ca hơn và các em tỏ ra rất thích. Khi nghe tôi bổ sung thêm tên của một bài
hát, lập tức các em yêu cầu tôi hát thử. Tôi cũng làm theo lời đề nghị của các em
nhưng không phải bài dân ca nào tôi cũng biết hát và có thể hát hay hát tốt được.
Do đó tôi đã cố gắng sưu tầm thật nhiều bài dân ca lưu vào đĩa để cuối tiết học tôi
tranh thủ dành ít phút mở cho các em nghe bài hát mà các em yêu cầu. Đây cũng
là cách giúp cho cả cô và trò biết thêm về dân ca.


2.3.3 Giúp học sinh nhận biết đơn giản về dân ca của từng vùng miền:
Ở các tiết học có phần nghe nhạc, đối với lớp 1,2,3 trước khi cho học sinh
nghe hát dân ca giáo viên phải giới thiệu xuất xứ bài hát. Ở lớp 4 tôi làm ngược
lại. Trước khi cho học sinh nghe hát tôi dặn các em lắng tai nghe và thử đoán xem
đó là dân ca của vùng miền nào, chú ý lời ca, chất giọng, ngôn từ trong bài hát.
Sau khi nghe hát xong tôi cho học sinh nêu cảm nhận và sau đó nêu xuất xứ của
bài dân ca vừa nghe
Ví dụ khi nghe bài hát Trống cơm , tôi cho học sinh chọn chữ cái trước ý
đúng ghi vào bảng con:
A. Dân ca Bắc Bộ
B. Dân ca Nam Bộ
C. Dân ca Trung Bộ
Hay khi nghe bài Ru em (Dân ca Xê-Đăng), thì cho học sinh chọn:
A. Dân ca miền núi phía Bắc
B. Dân ca Tây Nguyên
Nếu học sinh chọn đúng, giáo viên hỏi căn cứ vào đâu để có thể nhận biết?
Giáo viên hướng dẫn học sinh: Có thể ta dựa vào chất giọng và ngôn từ.
Dân ca miền Bắc thường có các từ đệm như: ới a, ối a, tình tính tang, ố mấy, …
Ví dụ: Bài Trèo lên quán dốc (Dân ca quan họ Bắc Ninh): Trèo lên quán
dốc ngồi gốc ới a cây đa rằng tôi lý ới a cây đa … Ai đem ối a tính tang tình
rằng…Bàì Trống cơm (Quan họ Bắc Ninh): Tình bằng có cái trống cơm khen ai
khéo vỗ ố mấy bông mà nên bông …Một bầy tang tình con sít ố mấy lội lội sông

10


ố mấy đi tìm…Bài hát ru (Dân ca Bắc Bộ): Tay bưng chén muối y ơ ố mấy gừng
đĩa gừng ố mấy gừng rằng gừng cay…Bài Xe chỉ luồn kim (Dân ca quan họ Bắc
Ninh): Xe chỉ ố mấy kim bên luồn kim, ố mấy kim bên luồn kim…Bài Ngồi tựa

mạn thuyền (Quan họ Bắc Ninh): Ngồi rằng là ngồi tựa i hơ ơ hơ ấy mấy mạn ôi
a a a thuyền là ngồi tựa có a mạn thuyền ấy mấy đêm …Giăng ( trăng) ơ in là in
mặt nước í ơ cũng có a càng nhìn là càng nhìn non nước càng xinh. … Bài Ra ngõ
mà trông (Dân ca quan họ Bắc Ninh): Ra ngõ ấy mấy trông ra ngõ mà trông, ấy
mấy ngày có a ngày…Bài gửi bức thư sang (Dân ca quan họ): Gửi bức thì thư y
sang ấy mấy ngồi là em ngồi rồi…Bài Đò đưa (Dân ca Bắc Bộ): Sóng đánh ố mấy
đưa con đò đưa, sóng dập ố mấy đưa con đò đưa…
Dân ca Trung Bộ thường có các từ ngữ đặc trưng: hò khoan khoan hò, chi,
mô, tê, răng, chi rứa, uấy oá…và các từ đệm như : ố tang tình tang, ơ hờ, ơi hời
(hỡi), tà là, í a
Ví dụ: Bài Hò xuôi theo làn văn (Dân ca Thanh Hoá): Khoan khuất hời
tình dô hò khoan…Bài Hò hụi (Dân ca Khu Năm): Hù là khoan là hù là khoan
a la khoan hò khoan… Bài Lý kéo chài (Dân ca Trung Bộ):...Khoan hỡi khoan
hò bỏ ghe mà nghiêng ngửa, khoan hỡi khoan hò không ai chống chèo ơ hò ơ hò
là hò ơ. Bài Lý hoài nam (Dân ca Quảng Trị - Thừa Thiên): Chim ơ kêu chim ơ
kêu là kêu bên nớ, uấy, oá, chi rứa, chi rứa ức ức con vượn trèo là trèo con vượn
trèo kia bên kia… Bài Ví phường vải (Dân ca Nghệ tĩnh): Người ơi cơm mô mà
bát ăn bát để. Đũa mô mà đôi đứng đôi ơ nằm… Bài Lý ngựa ô (Dân ca Thừa
Thiên): Ngựa ô ý a ơ ngựa ô. Ăn cỏ giữa đàng bắt lên mà thắng tình tang non
tang tính tính tang non tang tình…
Dân ca nam bộ cũng dựa vào các ngôn từ đặc trưng và cách phát âm: v 
d, q w, it ich, ay ai, gi  d. Ví dụ bài: Lý quạ kêu (Dân ca nam bộ): Kêu
cái mà wạ (quạ) kêu, kêu cái mà wạ kêu… Nay dề (về) mai ở…Bài Lý cây bông
(Dân ca Nam Bộ): Bông xanh bông trắng rồi lại dàng (vàng) bông ơ rượng ơ…
Bài Lý con cua (dân ca Nam Bộ): Con cua wẫy (quẫy), nó ở trong hang wẫy a
rượng a wẫy a rượng a, nó kêu ớ rịnh boòng rình, ớ rịnh boòng ơi quẫy a
rượng a lang tang tính lính tính tàng lịnh tịnh tang, giã gạo chài(chày) ba wẫy
a rượng a wẫy a rượng a.Bài Lý lu là (Dân ca Nam Bộ): Ai dề (về) dòng dứa mà
qua truông. Gió lai (lay) lu la bông sậy ơi nàng ơi…Bài lý đất giồng (Dân ca Nam
Bộ): Trên đất dồng(giồng) mình trồng khoai lang, trên đất dồng (giồng) mình

trồng dưa gang. hỡi cô tác nước đường xa còn bao bao gánh nữa để wa wa gánh
dùm… Tủi thân con khỉ ở lùm cuốc không mà lo cuốc lo dùm lo dùm người ta…
Bài Lý con sáo (dân ca Nam Bộ): …Ai cho con sáo ăn cơm, ai cho con sáo ăn
cơm cho sáo rửa mồm cho sáo rửa mồm rửa mồm cho nhanh…
Đối với các bài dân ca của dân tộc vùng núi phía Bắc, của Tây Nguyên hay
dân ca Khơ-me Nam Bộ thì dựa vào các từ ngữ chỉ các nhạc cụ dân tộc như trống,
khèn, cồng, chiêng… hoặc các câu hát tả cảnh miền núi như suối khe, đồi, nương,
buôn làng, bản mường… có bài thì đệm tiếng bản thổ. Nhưng để nhận biết bài dân

11


ca của miềm núi phía Bắc hay Tây Nguyên thì đây là điều khó, nên tôi cho các
em biết bài hát đó là của dân tộc nào luôn và hướng dẫn các em dựa vào sự phân
bố các dân tộc đã học trong môn Địa lí. Ví dụ các bài của dân tộc Ê-đê, Ba Na,
Gia –rai, Xê-Đăng, Hrê, Sra… là dân ca Tây Nguyên, các bài của dân tộc Cống,
Mường, Dao, Tày, Nhắng, Nùng, Thái, Xá …là dân ca vùng núi phía Bắc, các bài
của dân tộc Khơ-me là dân ca Nam Bộ.
Nghe dân ca và đoán xuất xứ của bài dân ca giúp học sinh nhạy bén, cảm
thụ sâu sắc hơn về các làn điệu, về ý nghĩa của bài hát, về cuộc sống đa dạng của
các vùng miền.

2.3.4. Sưu tầm tranh ảnh, đồ dùng dạy học.
Ngoài các tranh ảnh hỗ trợ dạy môn Âm nhạc tôi đã tự làm nhạc cụ gõ bằng
gáo dừa, bằng tre nứa và sưu tầm tranh ảnh, bản đồ để làm cho tiết học thêm
phong phú sinh động. Thông qua tranh ảnh các em có thể phân biệt được dân ca
vùng miền và dân ca dân tộc theo trang phục đặc trưng hoặc nhạc cụ đặc trưng.
Phân biệt theo trang phục vùng miền:
+ Dân ca Bắc Bộ:


12


+ Dân ca Trung Bộ:

+ Dân ca Nam Bộ:

13


+ Dân tộc miền núi phía Bắc:

+ Dân tộc Tây Nguyên:

14


+ Dân tộc Khơ me Nam Bộ:

Phân biệt theo nhạc cụ dân tộc:
+ Khèn :( Dân tộc Mông miền nùi phía Bắc)

15


+ Cồng chiêng Tây Nguyên:

2.3.5. Đặt lời mới cho bài dân ca:
+ Trống Paranưng: ( Dân tộc Chăm Nam Bộ)


16


2.3.5. Đặt lời mới cho bài hát:
Phần đặt lời mới cho bài dân ca nhằm phát triển năng khiếu, sức sáng tạo
của học sinh.
2.3.6.Thi hát dân ca:
Cuối tiết học tôi thường tổ chức trò chơi thi hát đối đáp dân ca giữa các
nhóm : Nhóm 1 hát xong một bài thì đến nhóm 2 hát nối tiếp một bài khác cứ thế
cho đến khi nhóm nào không thể hát được thêm một bài dân ca nào nữa thì coi
như nhóm đó thua cuộc…
Trong tiết ôn tập giáo viên chia nhóm cho học sinh ôn lại cách hát múa các
bài dân ca đã được học,có thể sáng tạo thêm điệu múa và thi đua biểu diễn trước
lớp.
Cách tiến hành:
Cho học sinh chọn bài hát dân ca mà nhóm yêu thích hoặc bốc thăm bài đã
học. Trong quá trình học sinh ôn tập giáo viên theo dõi giúp đỡ. Qua hoạt động
này giúp các em tự tin hơn, phát huy được tính sáng tạo và tích cực đồng thời khai
thác được năng lực tiềm ẩn trong mỗi cá nhân học sinh.. Một số em tỏ ra rất thích
thú khi nghĩ ra các động tác mới cho các bạn trong nhóm làm theo. Mỗi khi đến
tiết học tương tự, học sinh thường yêu cầu tôi cho các em sáng tạo điệu múa, vì
thế tiết học rất vui vẻ thoải mái, học sinh hướng thú tham gia học tập.
2.3.7. Xem video clip về hát múa dân ca:
Các tiết học tập biểu diễn ở cuối mỗi kỳ, giáo viên có thể dành ít thời gian
cho các em xem đĩa hình các bài dân ca, chèo tuồng… Qua cách biểu diễn của các
nghệ sĩ hoặc của các bạn thiếu nhi, giáo viên cho học sinh nêu cảm nhận vế cách
hát về cách diễn xuất và trang phục. Tôi hỏi các em thích điệu múa nào nhất và
cho các em trình bày lại một điệu múa mà mình yêu thích. Ví dụ bài Trống cơm
(Dân ca đồng bằng Bắc Bộ), các em thích điệu múa dùng hai tay vỗ vào cáí trống
cơm. Bài Lí cây bông (Dân ca Nam Bộ), Học sinh thích điệu múa nhẹ nhàng uyển

chuyển của các cô gái miền Nam Khi cầm dĩa bông đưa lên cao quay một vòng và

17


hai tay hạ xuống xéo ngang hông một cách nhanh nhẹn… Các tiết học cho xem
đoạn video thật sự đã thu hút các em. Qua hoạt động này giúp các em học hỏi
được cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật ca hát.
3. Hiệu quả áp dụng
3.1. Thời gian áp dụng giải pháp.
Đề tài bắt đầu nghiên cứu từ tháng 9 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016.
3.2 Hiệu quả đạt được
Với những biện pháp trên tôi đã thử nghiệm trong những năm qua ở Trường
Tiểu học Trường Sơn thu được kết quả như sau:

STT

1

Số HS biết

Số HS biết

Số HS không nêu

trên 10 bài dân ca

dưới 10 bài dân ca

được bài dân ca nào


80 %

20 %

0%

3.3 Khả năng triển khai, áp dụng giải pháp
Tất cả các phương pháp mà tôi đưa ra không quá phức tạp, các dụng cụ sử
dụng trong các phương pháp có thể linh động, thay thế bằng nhiều dụng cụ tự chế
khác nhau hoàn toàn phụ hợp với điều kiện thực tế của các trường tiểu học, nên có
thể triển trai phổ biến trên toàn quốc.
3.4 Kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng giải pháp
Khi thực hiện các phương pháp kể trên đòi hỏi giáo viên sử dụng thành thạo
và linh hoạt các dụng cụ được sử dụng trong tiết dạy, chịu khó sưu tầm và nghiên
cứu kĩ và dân ca. Tạo sự lôi cuốn học sinh để các em luôn chăm chú lắng nghe và
hợp tác. Muốn làm được như vậy chỉ có một cách đó là luôn gần gũi, lắng nghe

18


các em. Tạo sự yêu mến thân thiện giữa cô và trò từ đó tiết học mới có hiệu quả
tốt.
4. Kết luận và đề xuất, khuyến nghị
4.1 Kết luận
Qua quá trình khảo sát, nghiên cứu đổi mới phương pháp và phương pháp
giảng dạy thực nghiệm ở các lớp 4, tôi thấy học sinh trường Trường Sơn hát rất
tốt, yêu thích âm nhạc, hoạt động âm nhạc hứng thú và rất mong muốn được học
bộ môn này. Vậy làm thế nào để học sinh lớp 4 yêu thích dân ca nói riêng, toàn bộ
các em học sinh Tiểu học nói chung yêu thích dân ca, điều đó còn phụ thuộc phần

lớn vào phương pháp, kĩ năng truyền đạt kiến thức của giáo viên, đòi hỏi mỗi
người giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài dạy, chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học, biết
tổng hợp các phương pháp dạy học mới. Trong giờ dạy cần sử dụng linh hoạt các
phương pháp phát huy khả năng sáng tạo của học sinh, thực sự biết đổi mới
phương pháp dạy học, đa dạng các loại hình hoạt động trong tiết dạy hát như tổ
chức trò chơi, … lời giảng của giáo viên cần cô đọng, ngắn gọn, súc tích để thu
hút sự chú ý của học sinh.
Nắm chắc yêu cầu của từng loại bài đề ra phương pháp giảng dạy phù hợp
để giờ dạy đạt hiệu quả.

4.2 Đề xuất, kiến nghị
Duy trì tổ chức các hội thi hát dân ca cho học sinh.
Tổ chức thi hát dân ca cho cán bộ giáo viên.
Trên đây là một số biện pháp nhằm giúp cho các em học sinh nâng cao vốn
hiểu biết về hát dân ca, duy trì các bài hát dân ca đang có nguy cơ bị mai một, tạo
nên một sức sống mới về giữ gìn văn hoá truyền thống trong nhà trường đồng thời
góp phần xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực. Có những biện pháp
tôi thực hiện thường xuyên nhưng cũng có biện pháp chưa thực hiện được nhiều
chẳng hạn như cho xem video clip. Tôi sẽ tiếp tục thực hiện trong các năm học tới
đồng thời rút kinh nghiệm qua thực tế để bổ sung cho đề tài hoàn thiện hơn,
phong phú hơn. Do đó tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và
các bạn.

19


Bà Rịa , ngày 28 tháng 12 năm 2016

Phạm Thị Mến


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Chuẩn kiến thức – kỹ năng môn Âm nhạc - Bộ GD & ĐT.
2 Cơ sở văn hoá Việt Nam – Giáo trình của Trung tâm đào tạo từ xa Đại
học Huế.
3. Nguồn gốc và các thể loại dân ca Việt Nam ( Internet ).
4. Sách giáo khoa, sách giáo viên chương trình Âm nhạc tiểu học hiện hành.
5. Sách tục ngữ, ca dao ba miền – Nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai.

20


6. Tìm hiểu các bài dân ca qua sách báo, đĩa nhạc, các chương trình thông
tin, truyền thông.

21



×