Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Đổi mới kinh tế gắn với đổi mới chính trị-chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.92 KB, 31 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN
ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ GẮN VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ-CHIẾN LƯỢC
HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
SINH VIÊN
LỚP

HÀ NỘI, 2017

1


MỞ ĐẦU
Vừa qua, Đại hội XII của Đảng thẳng thắn thừa nhận: “...Đổi mới chưa
đồng bộ và toàn diện... nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần
phải tập trung giải quyết, khắc phục ...”; và, “...đòi hỏi phải phát triển đất nước
toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại...; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo
chính xác và kịp thời có chủ trương, chính sách xử lý hiệu quả những vấn đề
mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy
luật đổi mới và phát triển ở nước ta”. Trong các mối quan hệ lớn hiện nay, Đại
hội XII chỉ rõ: Đó là “quan hệ... giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị”.
Rõ ràng, thời kỳ mới cấp bách đòi hỏi chúng ta ngẫm thời cuộc lớn, soát
xét lại mình, mở rộng tầm nhìn, chuẩn bị hành trang, tiếp tục chủ động và kiên
định đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ, không thể rụt rè, do dự
hay chờ đợi, cầu toàn. Đồng thời, trên con đường đổi mới này mục tiêu cốt lõi


luôn phải hướng tới sự phát triển bền vững. Trong toàn bộ công việc hệ trọng
đó, việc đổi mới chính trị càng đòi hỏi chúng ta về tầm nhìn mới, trước sứ mệnh
mới, với mục tiêu mới, bằng sự chuẩn bị toàn vẹn thực lực mới và hành động
với phương lược hành động mới. Vì, thời cơ, lúc này, chính là lực lượng; vì sự
phát triển của quốc gia - dân tộc là yêu cầu tối cao; và vì, thời đại không chờ đợi
chúng ta.
Vấn đề chính trị và đổi mới chính trị là cả một đại sự. Nó bao hàm không
chỉ đổi mới tư duy chính trị, xây dựng tầm nhìn chính trị, bản lĩnh chính trị... mà
còn là sự hành xử chính trị thực tiễn: bao quát thời cuộc, chiêm nghiệm sự vận
động toàn cầu của các quốc gia, kiến tạo thể chế chính trị, xây dựng thực lực
chính trị, chế định những quyết sách chính trị của đất nước, xác định và phát huy
hệ động lực đổi mới chính trị,...
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài : “Đổi mới chính trị gắn với
đổi mới kinh tế-chiến lược hướng tới phát triển bền vững ở Việt Nam” làm
tiểu luận kết thúc môn học làm tiểu luận kết thúc môn học

2


Chương 1:
THỰC CHẤT ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI
KINH TẾ
1.1.Thực chất đổi mới chính trị
Đổi mới chính trị ở Việt Nam không phải là thay đổi chế độ chính trị hiện
nay bằng chế độ chính trị khác, mà là quá trình đổi mới tư duy chính trị về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đó cũng là quá trình hoàn
thiện tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của cả hệ thống chính
trị theo hướng tạo lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thể hiện và thực hiện ý chí,
quyền lực của dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Trong đổi mới chính trị, “trọng tâm là hoàn thiện nội dung và đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong thực hiện
chức năng lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong
toàn xã hội nhằm phát huy vai trò chủ động của các cơ quan nhà nước, khả năng
sáng tạo to lớn của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng
và bảo vệ đất nước”2.
Thực tiễn của đổi mới kinh tế đang tiếp tục đặt ra yêu cầu đổi mới chính
trị. Hai mươi lăm năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã có bước tiến trong xây dựng
và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền, trong đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể, cũng
như trong công tác xây dựng và đổi mới phương thức hoạt động và lãnh đạo của
Đảng. Tuy nhiên, cũng còn tồn tại không ít việc cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới.
Nghị quyết Trung ương 5, khóa X chỉ rõ: “Hệ thống thể chế, pháp luật, nhất là
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều bất cập,
vướng mắc. Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan trong hệ thống hành chính
nhà nước chưa đủ rõ, còn trùng lặp và chưa bao quát hết các lĩnh vực quản lý
nhà nước; cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa phù hợp. Chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng kịp yêu cầu; tình trạng quan liêu, tham
nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Thể chế, luật pháp về quản lý tài chính công
3


tuy có nhiều đổi mới, nhưng còn bất cập. Thủ tục hành chính còn nhiều vướng
mắc, gây phiền hà cho tổ chức và công dân; kỷ luật, kỷ cương cán bộ, công chức
chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém”.
Để khắc phục tồn tại nêu trên cần tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
nói chung và tập trung giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị.
1.2.Mối quan hệ kinh tế và chính trị
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị luôn là mối quan hệ cơ bản, chi phối

toàn bộ sự vận hành của đời sống xã hội. Trong suốt 30 năm đổi mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã từng bước nhận thức và giải quyết thành công mối quan
hệ này. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn, cả trong nhận thức cũng như trên thực
tiễn còn bộc lộ không ít những lúng túng, bất cập. Cần nhận thức và giải quyết
thành công vấn đề đổi mới kinh tế đồng bộ với đổi mới chính trị, tạo động lực
cho thời kỳ mới.
Đại hội XI của Đảng rút ra 5 bài học kinh nghiệm, trong đó bài học thứ
nhất là:phải chú trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh; phải phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; tạo sự nhất trí trong Đảng và đồng thuận xã hội; có quyết tâm
chính trị cao với những biện pháp thiết thực, mạnh mẽ, đồng bộ, kiên quyết
phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; chú trọng đổi
mới công tác tổ chức - cán bộ, đẩy mạnh phòng, chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí.
Đại hội nhấn mạnh quan điểm, nguyên tắc đổi mới nói chung, đổi mới
chính trị nói riêng, khẳng định yêu cầu đổi mới chính trị, trong đó khẳng định vị
trí đổi mới chính trị so với các lĩnh vực khác. Vị trí, tầm quan trọng của đổi mới
chính trị ngày càng được nhận thức đúng hơn.
Tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng ta rút ra 5 bài học kinh nghiệm, trong đó
bài học thứ ba nêu: Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn
trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
4


Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị, Đảng ta đã nhiều lần
khẳng định, từ Đại hội VIII đã nêu:Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế
với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước
đổi mới chínhtrị.Đại hội VIII trong khi khẳng định phải kết hợp đổi mới kinh tế
và chính trị ngay từ đầu, Đảng ta nhấn mạnh phải chú trọng đổi mới kinh tế, lấy

đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Đến Đại
hội XII, sau 30 năm đổi mới, vẫn tiếp tục quan điểm đổi mới toàn diện, song
Đảng ta đặc biệt chú ý, trước những khó khăn, thách thức trên con đường đổi
mới, cần tập trung cao độ cho đổi mới chính trị, trọng tâm làchú trọng công tác
xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy
chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại.
Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã tập
trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, vượt qua
khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề để giữ vững ổn định chính trị và đổi
mới các mặt khác. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị, từng bước thận trọng và vững chắc, bắt đầu từ giải quyết những vấn đề
cấp bách nhất và đã chín muồi, với nhận thức đây là việc rất cần thiết nhưng đặc
biệt phức tạp, nhạy cảm và nếu vội vã để xảy ra sai lầm sẽ phải trả giá rất đắt.
Đảng ta xác định mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực
hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; đổi mới
phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và
mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Bài
học lớn là dân chủ nhất thiết phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Khắc phục những
hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời chống khuynh
hướng dân chủ cực đoan, quá khích. Dứt khoát loại bỏ mọi mưu toan lợi dụng
“dân chủ”, “nhân quyền” nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ, hoặc can
thiệp vào nội bộ nước ta. Không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.

5


Sự thận trọng trong đổi mới chính trị, đặc biệt trong đổi mới hệ thống
chính trị, trong giai đoạn đầu là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực

tiễn, bởi, những năm đầu đổi mới, chúng ta xác định ổn định chính trị là tiền đề,
đổi mới là phương thức và phát triển là mục tiêu. Qua 30 năm đổi mới, đất nước
ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sửtrên con đường xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Đại hội XII tiếp tục xác định những
mối quan hệ lớn cần giải quyết trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, khẳng
định, đổi mới là tiền đề, ổn định là điều kiện còn phát triển là mục tiêu(1).

6


Chương 2: NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA VỀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ QUA
CÁC KỲ ĐẠI HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1.Quá trình nhận thức
Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai
trò kiến trúc thượng tầng, coi chính trị là thống soái, quyết định kinh tế và tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong
quan hệ với chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn giản về
tác động của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can
thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh
chủ quan của các cơ quan quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính còn
quan liêu, cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả.
Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay
từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận
cả về mặt thực tiễn.
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá
trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là

“khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh
thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là đổi
mới tư duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của
hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi
mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn đinh
chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền
dân chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá
7


trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta cho rằng ổn định chính trị không có
nghĩa là bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan trọng đảm bảo điều kiện
cho các lĩnh vực khác phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện
hơn. Ổn định chính trị cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong quá trình đổi mới đất nước.
Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân,
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định các
nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo toàn bộ quá trình đổi mới theo đúng định hướng
XHCN: “Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm
phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng
sáng tạo vào phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin”.
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6
Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm tốt
đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động

của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một
cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có
mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về
chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới”. Một bước đi cực kỳ đứng đắn và
thể hiện được bản lĩnh chính trị của Đảng ta biểu hiện bằng nghị quyết hội nghị
lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (8-l989) về công tác tư tưởng
trong bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp khi đó: "Chế độ chính trị của chúng ta
là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng... Chúng ta
không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không để cho các tổ chức chống
đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách
kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế”.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
8


thứ VII: “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng
cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để
tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh
tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân
dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội”. Kinh nghiệm thành
công của sự kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị”.
Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và
nguyện vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được khẳng
định trong các kỳ Đại hội IX, X với mục tiêu: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có

kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức,
tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý
của nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”6.
Đại hội XI của Đảng đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp,
trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật,
kỷ cương..”. Như vậy,về đổi mới kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào đổi
mới để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN. Để hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường XHCN, Đại hội XI của Đảng chủ trương:
Thứ nhất, Đảng ta coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và
hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp cho cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch, giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
9


Thứ ba, đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, điều hành phát triển kinh
tế theo cơ chế thị trường.
Thứ tư, chú ý đặc biệt trong việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ
bảo đảm phát triển lành mạnh nền kinh tế.
Thứ năm, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường:
Thực hiện tốt năm giải pháp này sẽ góp phần trực tiếp hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường XHCN. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới kinh tế giai đoạn này.
Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản, trọng
yếu là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ

luật, kỷ cương. Đây là balĩnh vực cơ bản, trọng yếu mang tính đột phá trong đổi
mới chính trị. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và
hàng đầu.
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ
hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.
Thứ hai, khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay, hoặc buông lỏng
lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ ba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân.
Thứ tư, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo
của Đảng từ trung ương đến địa phương cơ sở; cải cách thủ tục hành chính
trong Đảng.
Thứ năm, đổi mới cách ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, kiểm
tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết.
Đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội XI của
Đảng chủ trương:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ hai, tiếp tục đối mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
10


Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp
ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Thứ tư, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống
tham nhũng, lãng phí.
Đối với việc mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương. Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, trước hết

là thực hiện dân chủ trong Đảng.
Thứ hai, có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp
của mình; chống tập trung, quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.
Thứ ba, phát huy dân chủ đi đôi với đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật,
kỷ cương; phê phán, nghiêm trị hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân,
những hành vi lợi dụng dân chủ vì mục đích xấu.
Điều quan trọng là Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải lấy mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
“làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển”8
nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng. Tiêu chí này chỉ
rõ mục đích của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng ta.
Trong những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị đã đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước, với những thành tựu nổi bật là:
Thứ nhất, thành công lớn nhất và quan trọng nhất có ý nghĩa sống còn đối
với dân tộc Việt Nam là chúng ta tiến hành quá trình đổi mới không phải bắt đầu
từ việc “đổi mới” trong lĩnh vực chính trị như ở Liên Xô và các nước XHCN
khác ở Đông Âu, cũng không đồng thời “đổi mới” ngay lập tức cả hai lĩnh vực
chính trị lẫn kinh tế. Chúng ta rất tỉnh táo và đủ bản lĩnh giữ vững ổn định chính
trị, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để làm trục đỡ chính trị cho việc
điều chỉnh và đổi mới kinh tế.
Thứ hai, nhờ có định hướng chính trị rõ ràng, bằng các chính sách chuyển
đổi cơ chế và cơ cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn, kinh tế của
11


nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rỡ rệt.
Người dân tin tưởng vào đường lối đổi mới khi nhận thấy lợi ích của mình được
đảm bảo. Nhờ có tư duy mới và dựa vào lợi ích của nhân dân nên đường lối đổi
mới đã gắn chặt với thực tiễn đất nước, mang “hơi thở” cuộc sống. Bằng các chủ

trương, chính sách vừa có tính định hướng, vừa cụ thể thiết thực, đường lối đổi
mới của Đảng đã đi vào cuộc sống, tạo tiền đề để giải phóng sức sản xuất xã hội,
phát huy tinh thần sáng tạo, tính tích cực chính trị của nhân dân. Nhân dân chủ
động tham gia vào đời sống kinh tế, đời sống chính trị để xây dựng, phát triển
kinh tế, bảo vệ chế độ đã, đang đảm bảo lợi ích cho họ. Nhờ vậy, “Sau 20 năm
hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình
trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị
và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường”.
Bên cạnh những thành công vừa nêu trên, việc vận dụng và xử lý mối quan
hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của chúng ta còn có nhiều
đem cần phải cố gắng hoàn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một quá trình lâu dài và
phức tạp do thực tiễn luôn vận động và thay đổi. Đường lối đổi mới và định hướng
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị của Đảng cần phải khẳng định là đúng đắn,
tuy nhiên vấn đề lại là hiệu quả của việc thực thi đường lối đó trên từng giai đoạn
cụ thể, trong từng cách làm cụ thể, của từng mối quan hệ cụ thể.
Đại hội XI của Đảng thắng thắn nhìn nhận về hạn chế trong đổi mới chính
trị so với đổi mới kinh tế: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm”10; “Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế
và quản lý đất nước; “công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém,
chậm được khắc phục”. Những hạn chế của đổi mới chính trị trong mọi quan hệ
với đổi mới kinh tế này đã cản trở quá trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm
kinh tế phát triển. Vấn đề đổi mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần
12


do chúng ta chưa làm rõ và phân định dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng

với chức năng quản lý của Nhà nước. Mặt khác, trong đổi mới chính trị chúng ta
mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị chứ chưa
thực sự tiến hành đổi mới ở con người chính trị-chủ thể hoạt động chính trị và
cơ chế hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị.
Do vậy, để đất nước phát triển hơn nữa cần tiếp tục nhận thức và giải
quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây cũng là
thực chất, yêu cầu, nội dung của một trong tám mối quan hệ lớn trong thời kỳ
quá độ lên CNXH nước ta mà Đảng ta đã đề ra cần giải quyết đúng đắn.
Đại hội XII của Đảng có ý nghĩa rất trọng đại, định hướng và cổ vũ toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”(2). Tinh thần đổi mới và phát triển của Đại hội XII
đã được thể hiện đậm nét ngay ở tiêu đề của Đại hội “Đẩy mạnh toàn diện, đồng
bộ công cuộc đổi mới”(3) và với nội hàm đổi mới là một trong 4 trụ cột của Đại
hội “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đổi mới”, với một “bản lĩnh, ý chí kiên
cường và quyết tâm đi tới của cả dân tộc vì một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
2.2.Kết quả
Trước hết, đó là đổi mới tư duy chính trị. Những chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước được hoạch định và thực thi đã chứa đựng nhiều nhân tố
của đổi mới tư duy chính trị, thể hiện ở nhận thức về CNXH, về thời kỳ quá độ,
về mô hình kinh tế, về phát huy dân chủ trong hoạt động kinh tế. Hơn nữa, đổi
mới tư duy chính trị còn được thể hiện ở sự đổi mới quan điểm phát triển: xây
dựng nền kinh tế mở, mô hình công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu là trọng
tâm, đồng thời thực hiện một phần chính sách thay thế nhập khẩu... công nghiệp
hóa và hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức theo cơ chế thị trường có
sự định hướng XHCN. Trong quá trình đổi mới, ý thức chính trị của công dân và
13



của xã hội được nâng cao, những bảo đảm dân chủ về quyền và nghĩa vụ, lợi ích
và trách nhiệm đã được luật hóa và được thực hiện từng bước có kết quả. Điểm
mấu chốt và sâu xa là Đảng kiên định con đường đi lên CNXH và được nhân
dân ủng hộ.
Hai là, từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của HTCT.
Đã hình thành nhận thức lý luận về HTCT theo quan điểm đổi mới. HTCT là hệ
thống các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội được thành lập công khai, hợp
pháp theo Hiến pháp và pháp luật, được Nhà nước thừa nhận và tạo điều kiện
cho hoạt động. HTCT còn là hệ thống các mối quan hệ giữa các tổ chức thành
viên với nhau và với xã hội nói chung. Hoạt động của HTCT đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, tuân thủ pháp luật, hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân. Mục
tiêu chủ yếu của đổi mới HTCT là nhằm thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát
triển kinh tế và dân chủ hóa xã hội. Cơ cấu tổ chức bộ máy trong HTCT, từ hệ
thống tổ chức Đảng đến Nhà nước và các đoàn thể nhân dân đã có một bước sắp
xếp lại, tuy chưa thật sự hoàn hảo, hợp lý, gọn nhẹ để tăng cường sức mạnh và
hiệu quả, nhưng cũng có những tiến bộ nhất định so với trước. Lần đầu tiên, một
nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT ở cơ sở đã
ra đời, đem lại sinh khí và sức sống mới về dân chủ và quyền làm chủ của người
dân.
Ba là, xây dựng, phát huy nền dân chủ XHCN, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, nhà nước của dân, do dân, vì dân; thúc đẩy công cuộc cải cách
hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật... Từ thực tiễn đổi mới HTCT và xây
dựng thể chế KTTT định hướng XHCN, chúng ta đã dần dần hình thành nhận
thức về Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đây là một
bước tiến của nhận thức lý luận và là kết quả của thực tiễn vận động của dân chủ
hóa ở nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trong HTCT dân chủ không thể
thiếu nhà nước pháp quyền, vì nó bảo đảm địa vị pháp lý của đảng cầm quyền,

đồng thời giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và

14


xã hội, trong đó luật pháp được đề cao để mọi hoạt động của đời sống xã hội vận
động lành mạnh trong quỹ đạo, do luật pháp điều tiết, kiểm soát.
Bốn là, giải quyết những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Vị trí và vai trò cầm quyền của Đảng
được xác định bởi một nhà nước pháp quyền có thực lực và thực quyền, bởi một
HTCT dân chủ, thực sự của dân, bởi một nền dân chủ thực chất. Đảng mạnh từ
năng lực và phẩm chất của từng đảng viên, của đội ngũ cán bộ chủ chốt của
Đảng, đặc biệt ở năng lực, trí tuệ, đạo đức, bản lĩnh chính trị của ban lãnh đạo
cấp cao của Đảng. Đảng ta đã đổi mới tư duy, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới
phong cách lãnh đạo và phương pháp công tác, nâng cao giác ngộ cách mạng,
bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất đạo đức, kiến thức, năng lực lãnh đạo chính trị
của cán bộ, đảng viên.
Năm là, vị thế của Mặt trận Tổ quốc được đề cao và hoạt động của Mặt
trận từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều đổi mới. Trong điều kiện đó,
muốn bảo đảm được dân chủ và dân chủ lành mạnh, tích cực, thực chất chứ
không hình thức thì nhất thiết phải tạo lập được cơ chế tư vấn, giám sát và phản
biện xã hội đối với Đảng và Nhà nước.
Sáu là, công tác cán bộ và chính sách cán bộ trong HTCT được chú trọng
trên các phương diện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng theo yêu cầu
tiêu chuẩn hóa, hướng tới đội ngũ công chức chuyên nghiệp, hiện đại. Việc quy
định chế độ học tập, thi tuyển, thực hiện dân chủ hóa công tác cán bộ đã có
những bước tiến đáng kể trong việc đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
ở cơ sở, tạo nguồn và đội ngũ công chức dự bị.
Đồng thời với những chuyển biến tích cực, những kết quả bước đầu trong
nhận thức và trong tổ chức hoạt động thực tiễn để đổi mới chính trị, thực trạng

tổ chức và hoạt động của HTCT nước ta đã bộc lộ những hạn chế:
Một là, chưa phân biệt và phân định thật rõ ràng, minh bạch về chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền và phương thức tổ chức, hoạt động giữa Đảng, Nhà nước
với các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng lãnh đạo chính trị đối với Nhà nước,
nhưng trên thực tế Đảng đã quyết định cả những vấn đề thuộc chức năng quản lý
15


của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Đây là quan hệ giữa lãnh đạo và
quản lý, giữa phương thức cầm quyền của Đảng với quyền lực quản lý của Nhà
nước theo luật định. Trong các cơ quan nhà nước và trong HTCT nói chung, đã
và đang thiếu vắng chế độ trách nhiệm và một cơ chế xử lý theo trách nhiệm. Do
vậy, hiện tượng lẩn tránh và đùn đẩy trách nhiệm đã trở thành phổ biến; một kết
quả đúng thì của nhiều, còn kết quả sai không qui trách nhiệm cho ai được. Vấn
đề lớn nhất của Đảng hiện nay trong lãnh đạo HTCT là vấn đề đổi mới phương
thức cầm quyền chứ không phải nội dung cầm quyền.
Hai là, mô hình tổ chức đảng ở Trung ương vẫn chưa có sự thay đổi căn
bản, trong khi hệ thống tổ chức đảng ở địa phương và cơ sở đã có thay đổi theo
hướng gọn nhẹ, phù hợp với đặc thù của Đảng. Cách thức đánh giá, sắp xếp, bố
trí cán bộ.
Ba là, hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc,
trùng lặp; đội ngũ cán bộ công chức không được đào tạo bài bản, hiện đại, chuẩn
mực, dẫn đến vừa thừa lại vừa thiếu.
Bốn là, hoạt động của các tổ chức hính trị - xã hội vẫn còn hình thức, kém
hiệu quả do tập nhiễm phải căn bệnh quan liêu hóa, hành chính hóa, ít sức lôi
cuốn, thuyết phục dân chúng.
Nhìn chung, HTCT chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới,
chưa theo kịp những biến đổi kinh tế - xã hội. Tính kém hiệu quả thể hiện ở
nhiều mặt: 1) Quyền lực không minh bạch, hệ thống kiểm soát quyền lực yếu,
càng ở cấp cao kiểm soát càng ít. Cơ chế tổ chức và vận hành trong HTCT

không thu hút được người giỏi, khó sử dụng được người tài. 2) HTCT chưa tạo
được đột phá để đổi mới và phát triển như đã từng có trong kinh tế; cách thức tổ
chức, cơ chế điều hành hoạt động chưa phát huy được sức mạnh toàn dân. 3)
HTCT không đủ sức ngăn chặn hai vấn nạn: quan liêu, tham nhũng và thoái hóa
biến chất. 4) HTCT của dân nhưng những người tài giỏi tâm huyết ngoài Đảng
lại ít được sử dụng vào các cương vị, chức vụ quan trọng để phát huy tài năng,
cống hiến cho đất nước.

16


Đã đến lúc cần ý thức đầy đủ và có trách nhiệm xã hội về yêu cầu đổi mới
chính trị đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội, trước hết là phát triển kinh tế. Nói
cách khác là đổi mới chính trị phải tương thích, đáp ứng được với yêu cầu đổi
mới chính trị để đất nước sớm hình thành một thể chế kinh tế - chính trị thống
nhất, hài hòa vì sự phát triển và vì hạnh phúc của nhân dân

17


Chương 3: VỀ QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI
CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong số những quan
hệ lớn cần được nghiên cứu, tổng kết và có cách thức giải quyết tốt để thúc đẩy
sự phát triển nhanh chóng và bền vững của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), được Đại hội
Đảng lần thứ XI thông qua, khẳng định: Trong quá trình thực hiện các phương
hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối
quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và

đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa
phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: Đặc biệt chú trọng xử lý
và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát
triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;…
Thực tiễn hai nhăm năm đổi mới vừa qua cũng như kinh nghiệm của
nhiều nước trong quá trình chuyển đổi và phát triển trong nhiều thập kỷ vừa qua
cho thấy giải quyết tốt các vấn đề về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia dân tộc. Từ
thực tiễn giải quyết quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ấy có thể sơ bộ
rút ra một số vấn đề, có thể gọi là cơ bản của quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở nước ta hiện nay như sau:

18


1. Hoàn toàn có thể lấy năm 1986 làm điểm mốc bắt đầu sự nghiệp đổi
mới nước ta. Nhưng, trong thực tế không thể nói Việt Nam bắt đầu bằng đổi mới
kinh tế hay đổi mới chính trị. Nói đổi mới kinh tế trước hay đổi mới chính trị
trước chỉ mang tính chất tương đối và tùy thuộc vào quan hệ hoặc bối cảnh cụ
thể, còn trong thực tế không thể có việc thuần túy đổi mới kinh tế trước hay
thuần túy đổi mới chính trị trước. Kể từ năm 1986 đến nay chúng ta lấy đổi mới
kinh tế làm trung tâm, then chốt, đổi mới chính trị tiến hành từng bước, “chậm
hơn”, “đi sau” so với đổi mới kinh tế. Thực tiễn chứng tỏ điều đó hoàn toàn
đúng đắn. Nhưng trong giai đoạn tiếp theo thực tiễn đang đòi hỏi phải đổi mới

chính trị với tốc độ nhanh hơn, toàn diện hơn, đồng bộ hơn, hài hòa hơn, “cởi
trói” để giải phóng các tiềm năng xã hội làm cho kinh tế phát triển mạnh hơn,
đời sống xã hội vận động nhanh hơn. Cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của
mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và và đổi mới chính trị. Đổi mới
tiếp theo về chính trị là phải đổi mới cả ý thức chính trị và tư duy chính trị. Việc
đổi mới đường lối cần phải được tiến hành đồng thời vừa trên cơ sở nghiên cứu
lí luận, vừa trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực tiễn. Điều đó, một mặt, giúp
chúng ta tránh được chủ quan, giáo điều sách vở, mặt khác, tránh được chủ
nghĩa kinh nghiệm, thiếu nhìn xa trông rộng, chỉ thấy cây mà không thấy rừng,
chỉ thấy trạng thái tĩnh mà không thấy trạng thái động. Điều này cũng là hợp
lôgíc với nguyên tắc đổi mới kinh tế đi trước một bước so với đổi mới chính trị.
Những đổi mới về kinh tế của chúng ta sẽ không thể tiến triển thêm được nữa
nếu chúng ta không tiếp tục đổi mới về chính trị. Đổi mới về chính trị, trước hết
là đổi mới về đường hướng phát triển, đổi mới về chính sách, đổi mới về luật
pháp và sau đó chúng ta phải tính đến việc đổi mới cả hệ thống chính trị.
2. Cần có sự đổi mới có tính cách mạng trong lĩnh vực lý luận chính trị và
đường lối đổi mới chính trị để cho “đổi mới” phát triển một cách toàn diện, đúng
hướng, và bền vững. Có thể nói rằng thể chế kinh tế mới hình thành là không thể
đảo ngược và nó đang chờ sự mở đường tiếp theo của cải cách chính trị trước
ngả ba đường. Một ngả là chính trị tiếp tục bảo thủ, trì trệ, thì kinh tế rơi vào
tình trạng tiếp tục ách tắc, lạc hậu. Một ngả là đổi mới chính trị chệch hướng thì
19


kinh tế sẽ phát triển theo hướng TBCN. Một ngả là đổi mới chính trị đúng
hướng, thích hợp và có hiệu quả, thì kinh tế sẽ phát triển theo “định hướng
XHCN”. Tuy nhiên muốn có đường lối chủ trương đổi mới chính trị một cách
đúng đắn, trước hết cần có sự soi sáng của lý luận. Nhưng vấn đề cụ thể về lý
luận chính trị của thời đại chúng ta, ở đất nước chúng ta, Mác, Lênin và Hồ Chí
Minh chưa thể giải quyết được một cách toàn vẹn, thế hệ hôm nay phải nghiên

cứu, sáng tạo để giải quyết. Trên cơ sở vận dụng phương pháp luận Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân
loại, sáng tạo con đường phát triển của Việt Nam phù hợp với trào lưu lịch sử
thế giới. Chỉ có như vậy, đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị mới thực sự có cơ sở khoa học, đất nước mới có thể phát triển
một cách toàn diện đúng hướng và bền vững. Nền kinh của chúng ta phát triển
nhanh nhưng còn què quặt.
Nền kinh tế và sự phát triển kinh tế của nước ta hiện nay vẫn lệ thuộc một
chiều và quá mức vào thế giới bên ngoài. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập các nền kinh tế lệ thuộc nhau là tất yếu. Nhưng, vấn đề là không lệ thuộc
một chiều và thụ động như hiện nay mà lệ thuộc hai chiều và chủ động. Năng
lực cạnh tranh thấp, hệ thống công nghệ sản xuất nói chung vẫn rất lạc hậu, v.v...
Chính vì vậy cần có những đột phá tiếp tục trong tư duy luận về đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị. Nếu không có những đột phá tính cách mạng kiểu như đổi
mới tư duy 1986, chúng ta khó có thể đi nhanh, đi tắt đón đầu, phát triển rút
ngắn. Điều đó có nghĩa rằng những năm tới chúng ta không thể chỉ đẩy mạnh
đổi mới chính trị mà phải đồng thời tiếp tục đổi mới kinh tế. Nhưng để đổi mới
kinh tế mạnh hơn, đồng bộ và toàn diện hơn, có hiệu quả và để kinh tế phát triển
với tốc độ nhanh hơn, cần đổi mới chính trị bằng những đột phá trong quan điểm
lý luận chính trị. Chủ trương đảng viên được phép làm kinh tế tư nhân trong Đại
hội X là một đột phá. Nhưng chúng ta cần nhiều đột phá trong tư duy lý luận
chính trị hơn nữa.
Thực tiễn phát triển của các nước trên thế giới cũng như lịch sử nước ta,
đặc biệt trong thời kỳ đổi mới vừa qua, đều cho thấy rằng, trước mỗi nước phát
20


triển xã hội, dù lớn hay bé, dài hay ngắn, dù ở bất kỳ thời đoạn lịch sử nào, dưới
bất cứ chế độ xã hội nào, đều xuất hiện tư duy phát triển mới. Sự nghiệp đổi mới
của chúng ta được bắt đầu bằng việc đổi mới tư duy, cụ thể là tư duy kinh tế.

Thực chất của đổi mới tư duy lúc đó chính là đổi mới các quan niệm về phát
triển kinh tế đã từng tồn tại trước đó, nhưng đã thể hiện những bất cập và bất lực
trước những đòi hỏi phát triển mới của đất nước. Đồng thời, nó tạo lập cho xã
hội những tư tưởng mới về phát triển kinh tế phù hợp hơn với tình hình mới, có
thể đáp ứng được những đòi hỏi mới của sự phát triển. Đổi mới tư duy lúc đó đã
tạo ra được tư duy phát triển mới với những quan niệm mới về sự phát triển của
kinh tế và xã hội Việt Nam như kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội,... Tư duy đó đã tạo nên những thành tựu lớn cho sự phát
triển trong hơn hai mươi năm qua.
Tư duy mới đã tạo đà cho đổi mới, có thể nói, hiện nay vẫn tiếp tục là cơ
sở, nền tảng cho sự phát triển đất nước trong những năm tiếp theo. Nhưng, trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, thực tiễn đã chúng tỏ rằng hàng loạt vấn đề
do cuộc sống đặt ra không thể giải quyết được nếu tiếp tục căn cứ vào tư duy
hiện có. Chúng ta không thể cải cách hành chính có hiệu quả, càng không thể cải
cách giáo dục để có chất lượng tốt hơn, dù đã qua nhiều đời bộ trưởng, qua một,
hai thế hệ những người đứng đầu các cấp bậc trong các hệ thống đó. Cũng tương
tự, trong hệ thống y tế, hệ thống lương bổng, hệ thống chính trị và các hệ thống
khác cũng đều đang tồn tại những bất cập mà dù đã rất cố gắng trong cả thời kỳ
dài nước ta vẫn chưa khắc phục có hiệu quả được. Trước những đòi hỏi cấp thiết
của sự phát triển tình hình dường như càng trở nên căng thẳng hơn, phức tạp
hơn trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và cho thấy rõ thêm tình thế bức
xúc: nếu không phát triển đột phá, đất nước ta không thể thoát khỏi tình thế tụt
hậu ngày càng xa. Nhưng không thể có phát triển đột phá, nếu chúng ta không
có triết lý, lý luận, hay tư duy phát triển mới.
Tư duy phát triển mới không thể chỉ bó hẹp hay chủ yếu là mang nội dung
kinh tế như trước đây. Bối cảnh mới đòi hỏi tư duy mới ít nhất phải bao quát toàn
bộ hệ thống kinh tế, xã hội trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt còn phải thể hiện
21



được cả những thay đổi của tình hình quốc tế. Những quan niệm mới, cách nhìn
mới, lối tiếp cận mới, phương pháp tư duy mới và trên cơ sở đó cách giải quyết mới
với các vấn đề đang được đặt ra, sẽ là nội dung của triết lý phát triển mới hay tư
duy mới về phát triển. Thậm chí, ở mức độ cao hơn, những tư tưởng mới về sự phát
triển cũng sẽ được bao chứa và là tiền đề nền tảng cho tư duy mới về phát triển. Để
đổi mới cả kinh tế và chính trị trong những năm tới chúng ta cần có những tư duy
mới, cả tư duy mới về chính trị lẫn tư duy mới về kinh tế.
3. Trong đổi mới ở những năm sắp tới cần tránh tình trạng lũng đoạn nhà
nước của các nhóm lợi ích. Trong kinh tế thị trường và đời sống xã hội, nói
chung, nhóm lợi ích hình thành và có tác động xã hội, có lobby chính sách là tất
yếu. Nhưng cần có cơ chế lobby pháp định, công khai, minh bạch, tuân thủ pháp
luật. Điều quan trọng nhất trong vấn đề này là khi kết hợp thực hiện đổi mới cả
chính trị lẫn kinh tế không được để lợi ích các nhóm, tập đoàn lên cao hơn lợi ích
quốc gia, dân tộc. Lợi ích của các nhóm, các tập đoàn, cá nhân là động lực quan
trọng nhưng không thể để các nhóm lợi ích lũng đoạn các chính sách, bởi nếu điều
đó xảy ra thì đổi mới sẽ chệch hướng và sự đồng thuận xã hội sẽ bị phá vỡ, quốc
gia sẽ hứng chịu những bi kịch. Lũng đoạn trong kinh tế sớm muộn cũng sẽ dẫn
đến lũng đoạn trong chính trị, còn lũng đoạn trong chính trị sẽ nhanh chóng lũng
đoạn trong kinh tế. Nhiệm vụ quan trọng nhất về phương diện này của nhà nước là
biết điều hòa các lợi ích trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Bằng cách đó
nhà nước mới có thể huy động được sức mạnh cộng đồng dân tộc phấn đấu cho
mục tiêu chung là đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Cần phải sử dụng sức mạnh của các nhóm lợi ích với tính cách là
một lực của sự phát triển, nhưng lại phải thực hiện công bằng xã hội trong mỗi lĩnh
vực, mỗi chính sách, cả trong đổi mới kinh tế lẫn đổi mới chính trị. Làm chủ trong
đổi mới bao hàm trong đó nội dung làm chủ việc sử dụng các nhóm lợi ích mà
không để các nhóm lợi ích lũng đoạn đổi mới.
4. Có thể ví đổi mới trong hai mươi năm qua đã thành công theo bề rộng,
đổi mới trong giai đoạn tới đây sẽ diễn ra theo chiều sâu, do vậy sẽ động chạm
nhiều đến lợi ích, đặc quyền, đặc lợi và thậm chí là đặc ân của một số nhóm xã

22


hội nhất định. Bởi thế đổi mới trong giai đoạn sắp tới chắc chắn sẽ khó khăn
hơn, phức tạp hơn, quyết liệt hơn, đòi hỏi quyết tâm và ý chí mạnh mẽ hơn,
nhưng lại phải tỉnh táo và sáng suốt. Trong bối cảnh thế giới đang phát triển và
đi vào tương lai với tốc độ hết sức nhanh chóng, thì chúng ta đang tụt hậu. Nếu
chúng ta sơ suất, dù chỉ là những sơ suất nhỏ, chúng ta sẽ bị chậm chân, sự tụt
hậu càng xa hơn, càng khó khắc phục hơn, nguy cơ tụt hậu càng dài lâu càng
hiển hiện. Tiến hành đổi mới kinh tế, đặc biệt là đổi mới chính trị tuyệt đối
không được chủ quan, nóng vội, bất chấp quy luật. Chính trị không thể đi trước
quá xa kinh tế và kinh tế không thể thoát ra khỏi chính trị quá xa, tương tự như
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nhận thức hiện nay.
Đổi mới chính trị là đổi mới toàn diện, đổi mới toàn bộ các nội dung yếu
tố của chính trị, do vậy sẽ động chạm đến toàn bộ hệ thống chính quyền và lợi
ích của các cá nhân trong hệ thống đó. Việc đó sẽ làm rung chuyển toàn bộ hệ
thống, do vậy cần hết sức thận trọng, tỉnh táo, sáng suốt, phải chuẩn bị kỹ về lý
luận và những điều kiện cần thiết, có bước đi thích hợp và phải là chủ được quá
trình đổi mới trong lĩnh vực này, tránh lặp lại sai lầm trong đổi mới chính trị của
Liên Xô trước đây.
5. Đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế không phải chỉ để tăng trưởng
hoặc phát triển kinh tế, mặc dù mục tiêu kinh tế là một trong những mục tiêu cơ
bản, quan trọng hàng đầu. Những năm qua chúng ta nhấn mạnh nhiều đến mục
tiêu tăng trưởng kinh tế. Điều đó hoàn toàn đúng và phù hợp với bối cảnh đất
nước chưa thoát khỏi cảnh nghèo đói, khủng hoảng trầm trọng. Đến lúc này đời
sống vật chất các tầng lớp dân cư đã được cải thiện. Những năm tới sẽ là giai
đoạn “cất cánh” của đất nước. Vì vậy trong đổi mới cần phải tập trung nhiều hơn
cho những vấn đề xã hội như công bằng, bình đẳng, dân chủ,... Đổi mới cả kinh
tế và chính trị phải thúc đẩy phát triển và tiến bộ xã hội chứ không chỉ cho tăng
trưởng kinh tế. Đây chính là điều mà trong thời gian sắp tới phải quán triệt sâu

sắc hơn nữa khi tiến hành đổi mới. Đổi mới là để thúc đẩy sự phát triển và tiến
bộ xã hội nhanh hơn, nhân dân giàu có hơn và hạnh phúc hơn, đất nước giàu
mạnh hơn, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hơn. Điều đó cũng có nghĩa
23


rằng phải tiến hành đổi mới đồng bộ hơn, toàn diện hơn cả trong kinh tế lẫn
chính trị.
Một là phải đổi mới mạnh mẽ hơn đồng bộ hơn, hài hòa hơn, toàn diện
hơn trước hết trong kinh tế, phát triển kinh tế tốc độ nhanh hơn để làm cơ sở cho
đổi mới chính trị và đổi mới chính trị để đổi mới kinh tế tiếp tục phát triển. Một
trong những yếu tố hàng đầu trong đổi mới chính trị là xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là yếu tố then chốt trong cải cách, đổi mới chính trị
hiện nay. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang là một đòi
hỏi tất yếu, nội tại của sự phát triển và hiện đại hóa đất nước. Nó gắn liền với
hàng loạt quá trình kinh tế, xã hội khác của đất nước.
Hai là, đổi mới chính trị hiện nay cũng phải tuân thủ nguyên tắc là đổi
mới chính trị. Phải làm sao để kinh tế tiếp tục phát triển. Đổi mới chính trị mà
kinh tế không phát triển, cuộc sống của người ta không được nâng lên thì đổi
mới chính trị ấy cũng là không hiệu quả. Cho nên đổi mới chính trị phải hướng
đến và đảm bảo làm cho kinh tế phát triển tốt.
Ba là, về nguyên tắc, phải đổi mới toàn diện nhưng lại đổi mới phải có
trọng tâm. Bởi vì các yếu tố của hệ thống chính trị không ăn khớp, không phù
hợp, không hài hòa với nhau thì sự đổi mới của yếu tố này có khi lại phủ định sự
phát triển của yếu tố khác. Tính toàn diện, theo chúng tôi là phải đảm bảo, tuy
nhiên cũng phải có hướng ưu tiên. Ưu tiên hiện nay là nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và xã hội dân sự.
6. Để giải quyết hài hòa quan hệ đổi mới kinh tế và chính trị trong đổi mới
chính trị khâu then chốt là xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng, trước hết là
dân chủ nội bộ Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng

lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đáng ta đã độc tôn lãnh đạo cách mạng
dân tộc dân chủ thành công và cũng đang độc tôn lãnh đạo công cuộc xây dựng
đất nước thu được những thành tựu to lớn. Đây là một lợi thế, nhưng cũng là
một thử thách lớn của Đảng trong bối cảnh hiện nay. Thực tiễn lịch sử Trung
Quốc, Liên xô và Việt Nam cũng cho chúng ta thấy: Một đảng lâu năm có thành
tích lớn, dày dạn kinh nghiệm, nhưng cũng có thể bị thoái hoá, tan rã nếu không
24


giữ vững được bản chất cách mạng và không ngừng đổi mới, phát triển năng lực
lãnh đạo của mình. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thảm kịch “cách mạng văn
hóa” ở Trung Quốc chính là sự độc đoán, mất dân chủ trong nội bộ Đảng và
những thành tựu cải cách phát triển hơn trong hai mươi năm qua ở Trung Quốc
thu được trước hết là nhờ dân chủ hoá trong xã hội, trước hết là dân chủ hóa nội
bộ Đảng. Một chính đảng lớn bậc nhất thế giới và cũng là lớn nhất trong lịch sử
như Đảng Cộng sản Liên xô vẫn bị sụp đổ nhanh chóng nếu quan liêu, mất dân
chủ, xa rời nhân dân, đánh mất lòng tin của dân và sự đồng thuận của xã hội.
Xét từ góc độ dân chủ hóa, đổi mới chính là thực hành dân chủ trong rộng rãi
trong Đảng, trong kinh tế, trong chính trị, trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, để
thực hành dân chủ tốt thì Đảng phải đủ năng lực để đáp ứng những đòi hỏi của
sự phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Bởi thế, Đảng phải luôn tự đổi mới,
hoàn thiện mình và thực hành dân chủ một cách đầy đủ, nhất quán, rộng rãi
trước hết trong Đảng. Đồng thời phải tạo cho cho xã hội Việt Nam thói quen
sinh hoạt dân chủ. Các quyền tự do kinh doanh, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận,
tự do nghiên cứu... cần được thực hành rộng hơn nữa trong thực tế.
Nhưng, đổi mới - thực hành dân chủ trong cả kinh tế lẫn chính trị, phải
đảm bảo giữ vững sự ổn định và phát triển bền vững cả về kinh tế, chính trị và
xã hội nói chung. Kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải sao cho vừa
đổi mới và phát triển nhanh, toàn diện, triệt để, đúng với khả năng và điều kiện
khách quan, chủ quan, chứ không cải lương, cải tiến, điều chỉnh nhóm lẻ, bộ

phận, vụn vặt, nhưng lại phải giữ vững ổn định kinh tế, ổn định chính trị xã hội,
không để gây rối loạn, vô chính phủ. Do vậy, thực hành dân chủ nhưng không
dân chủ quá trớn; tự do, nhưng không tự do vô chính phủ; ổn định nhưng không
trì trệ; phát triển nhanh nhưng không rối loạn. Đó là đòi hỏi của đổi mới trong
những năm trước mắt và của cả sự nghiệp đổi mới với mục tiêu phát triển rút
ngắn, thu hẹp khoảng cách tụt hậu của nước ta 1. Chính vì thế để tiếp tục đổi
mới kinh tế và chính trị thì đổi mới và chỉnh đốn Đảng, trước hết là thực hành
thực sự dân chủ trong nội bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực

25


×