Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Thế giới quan triết học của Hegel, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.77 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
2.3 Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong thế giới quan triết học của Hegel.............................9
2.3.1. Hạn chế trong tư tưởng thế giới quan triết học của Hegel.....................................................9
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế..........................................................................................10

I.

LỜI MỞ ĐẦU
Triết học cổ điển Đức được tạo nên từ cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XIX, đây
được coi là thời kỳ đỉnh cao của triết học Tây Âu, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đến
triết học của toàn nhân loại. Thành tựu lớn nhất của triết học cổ điển Đức là phép biện
chứng. Phép biện chứng duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức bắt đầu từ
Kant, qua Fichte, Schelling và đỉnh cao là Hegel.
Hegel tuy có tư tưởng xuất sắc về phép biện chứng, có sự khái quát, phân tích
các khái niệm, phạm trù triết học sâu sắc nhưng do xuất phát từ quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm chủ quan nên các học thuyết, tư tưởng của ông còn mang đậm màu sắc
thần bí, xa rời thực tế. Triết học của Hegel đầy mâu thuẫn, là một hệ thống duy tâm mà
thực chất của nó “là ở chỗ lấy cái tâm lý làm điểm xuất phát, từ cái tâm lý suy ra giới
tự nhiên” (Lê Nin).
Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, Nhóm 10 xin được phân tích đề tài “Thế
giới quan triết học của Hegel, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó”.
II.
II.1

NỘI DUNG
Khái quát về thế giới quan và thế giới quan triết học

II.1.1 Thế giới quan
1



Thế giới quan là những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới xung
quanh, về bản thân và về cuộc sống con người, về vị trí của con người trong thế giới
đó. Thế giới quan bao hàm nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan niệm về cuộc
sống của con người, được hình thành để trở thành nhân tố định hướng cho con người
tiếp tục quá trình nhận thức thế giới xung quanh, cũng như tự xem xét bản thân. Nói
cách khác, thế giới quan là hệ thống những nguyên tắc, quan điểm, niềm tin, khái
niệm, biểu tượng về toàn bộ thế giới, bao gồm: những sự vật hiện tượng, những quy
luật chung của thế giới; chỉ dẫn phương hướng hoạt động của con người, một nhóm
người trong xã hội nói chung đối với thực tại.
Về nguồn gốc, thế giới quan của mỗi cá nhân dựa trên cơ sở kiến thức khoa học
của nhân loại ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Kiến thức khoa học đó bao gồm cả các
quan điểm triết học, xã hội học, chính trị, đạo đức, kinh tế học và khoa học nói chung.
Về nội dung, thế giới quan phản ánh thế giới ở 3 góc độ: các đối tượng bên
ngoài chủ thể; bản thân chủ thể; mối quan hệ giữa chủ thể với các đối tượng bên ngoài
chủ thể. Ba góc độ này vừa thể hiện ý thức của con người về thế giới, vừa thể hiện ý
thức của con người về chính bản thân mình.
Về hình thức, thế giới quan có thể biểu hiện dưới dạng các quan điểm, quan
niệm rời rạc, cũng có thể biểu hiện dưới dạng hệ thống lý luận chặt chẽ.
Về cấu trúc, là hiện tượng tinh thần, thế giới quan có cấu trúc phức tạp và được
tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, song hai yếu tố cơ bản nhất của thế giới quan là
niềm tin và tri thức. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song nó
chỉ gia nhập vào thế giới quan khi đã trở thành niềm tin để hình thành lý tưởng, là
động cơ thôi thúc con người hành động.
Như vậy, một thế giới quan nhất quán là một thế giới quan có niềm tin và tri thức
thống nhất với nhau, tạo cơ sở vững chắc cho con người tiếp tục tìm hiểu thế giới và xác
định thái độ, cách thức hoạt động, sinh sống và xác lập nhân sinh quan cho mình.
Thế giới quan có các chức năng như: chức năng nhận thức, chức năng xác lập
giá trị, chức năng bình xét, đánh giá, chức năng điều khiển hành vi...Song, khái quát
lại chức năng bao trùm của thế giới quan là chức năng định hướng cho toàn bộ hoạt
động sống của con người.

2


Là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức, thế giới quan phát triển theo sự
phát triển nhận thức của con người. Cho đến nay, sự phát triển của thế giới quan được
thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: thế giới quan huyền thoại; thế giới quan tôn giáo và
thế giới quan triết học.
2.1.2 Thế giới quan triết học
Thế giới quan triết học là thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống lý luận
thông qua hệ thống các khái niệm, các phạm trù, quy luật. Nó không chỉ nêu ra các
quan điểm, quan niệm của con người về thế giới và về bản thân con người mà còn
chứng minh các quan điểm, quan niệm đó bằng lý luận.
Thế giới quan triết học chỉ hình thành khi nhận thức của con người đạt đến trình
độ cao của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa và khi các lực lượng xã hội đã ý thức
được sự cần thiết phải có định hướng về tư tưởng để chỉ đạo cuộc sống.
Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm của con người về thế giới dưới dạng
hệ thống các quy luật, phạm trù và chứng minh các quan niệm ấy bằng lý luận. Do đó,
triết học được coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành và phát triển thế giới
quan. Triết học là hệ thống các quan điểm, lý luận chung nhất về thế giới quan, là hạt
nhân lý luận của thế giới quan. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chính là cơ sở
lý luận của hai thế giới quan triết học đối lập: thế giới quan duy vật và thế giới quan
duy tâm.
Thế giới quan duy vật là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là vật
chất, thừa nhận vai trò của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và
thừa nhận vị trí, vai trò của con người trong cuộc sống hiện thực. Theo thế giới quan
duy vật thì chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, trong mối quan hệ giữa vật
chất và tinh thần thì vật chất là cái có trước, tinh thần có sau và bị vật chất quyết định.
Thế giới quan duy tâm là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là tinh
thần, thừa nhận vai trò của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất nói chung, đối
với con người, xã hội loài người nói riêng. Thế giới quan duy tâm thể hiện rất đa dạng

dưới nhiều cấp độ khác nhau và phụ thuộc vào tính đa dạng trong quan niệm về tinh
thần của những người trong thế giới quan này, hay phụ thuộc vào trình độ nhận thức
của con người.
3


Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học là
biểu hiện cho cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội đối lập nhau.
Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật là thế giới quan của giai cấp, lực lượng xã
hội tiến bộ cách mạng, đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội.
Chủ nghĩa duy tâm lại được sử dụng làm công cụ biện hộ về lý luận cho giai cấp thống
trị lỗi thời, lạc hậu, phản động.
2.2

Thế giới quan triết học của Hegel

2.2.1 Tư tưởng về nguồn gốc thế giới
Hegel là nhà duy tâm khách quan, ông cho rằng khởi nguyên của thế giới không
phải là vật chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới” . Ông coi tinh thần
thế giới là cái có trước, vật chất với tính cách dường như là sự thể hiện, sự biểu hiện cụ
thể của tinh thần thế giới, là cái có sau; tinh thần là đấng sáng tạo ra vật chất, quy định
vật chất. Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và
sáng tạo của ý niệm tuyệt đối.
Theo hệ thống của Hegel, toàn bộ thế giới muôn màu, muôn vẻ là sản phẩm của
sự phát triển tự nhiên của ý niệm với tính cách là lực lượng sáng tạo, là tổng hòa của
mọi hình thức khác nhau của sự biểu hiện ý niệm. Bởi vậy, học thuyết của Hegel coi
tính thứ nhất là tinh thần, tính thứ hai là vật chất do ý niệm tuyệt đối và tinh thần thế
giới sinh ra và quyết định, là một sự “tồn tại” khác của tinh thần sau khi trải qua giai
đoạn “tồn tại khác” ấy, ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới mới trở lại “bản thân
mình” và đó là giai đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng, được Hegel gọi là “tinh thần

tuyệt đối”. Đó cũng chính là sự thể hiện riêng về mặt triết học những lời khẳng định
của tôn giáo rằng Thượng đế sáng tạo ra thế giới.
2.2.2 Tư tưởng biện chứng của Hegel
Phương pháp biện chứng của Hegel là phương pháp suy ngẫm về thế giới. Kết
quả của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về thế giới chứ không phải là
bức tranh thế giới thu được nhờ kết quả của khoa học cụ thể. Để suy ngẫm về thế giới,
Hegel đã bao trùm lên nó một hệ thống phạm trù hay đúng hơn là quan niệm lý trí về
thế giới. Phương pháp biện chứng được thể hiện xuyên qua toàn bộ hệ thống triết học
của ông từ logic học, triết học tự nhiên đến triết học tinh thần.
4


Trong tác phẩm Logic học, khi trình bày “ý niệm tuyệt đối” vận động và phát
triển, Hegel cho rằng đó là sự tự vận động nội tại của “ý niệm tuyêt đối”. Tự vận động
tức là sự thay đổi các hình thức khác nhau của “ý niệm tuyệt đối”. Lenin tìm thấy hạt
nhân hợp lý trong phương pháp biện chứng của Hegel là sự tự vận động. Khi trình bày
“ý niệm tuyệt đối” phát triển, Hegel thừa nhận tồn tại, bản chất, khái niệm là ba sự quy
định, ba hình thức chủ yếu trong quá trình phát triển ở lĩnh vực logic. Hạt nhận hợp lý
trong logic của Hegel là sự phù hợp với quá trình suy nghĩ của con người: mới nhìn
vào sự vật thấy tồn tại, đi sâu vào sự vật tìm ra bản chất, khi nắm bản chất ta rút ra
khái niệm.
Trong tác phẩm Logic học, ở phần tồn tại, Hegel cũng đã diễn đạt các phạm trù
chất, lượng, độ và tư tưởng biện chứng về sự chuyển hóa lượng – chất. Ở phần bản
chất, Hegel diễn đạt các phạm trù bản chất, hiện tượng, quy luật, khả năng và hiện
thực, nguyên nhân và kết quả, trình bày học thuyết mâu thuẫn nguồn gốc của sự phát
triển. Ở phần khái niệm, Hegel đã diễn đạt các phạm trù cái chung và cái riêng, quy
nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp, đã diễn đạt các nguyên lý sự hoạt động có
mục đích của con người, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng hợp lại quan
niệm phát triển với tư cách là phủ định của phủ định. Sự biện chứng của Hegel còn
được thể hiện ở chỗ ông đã đặt ra vấn đề sự thống nhất của quá trình logic với quá

trình lịch sử; logic học, nhận thức luận đều là sự tổng hợp của quá trình lịch sử; ông
nêu lên tính hạn chế của logic hình thức và đòi hình thành một logic nội dung thực tế,
sinh động; ông nêu lên tư tưởng thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận
nhận thức.
Trong triết học tự nhiên, hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hegel là tư
tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với vận động, dự đoán không gian, thời gian và
vận động có mâu thuẫn bên trong, ở đó thể hiện tính thống nhất giữa tính gián đoạn và
tính liên tục; là tư tưởng cho rằng sự khác biệt hóa học về chất bị phụ thuộc vào những
thay đổi về lượng, là sự biện chứng của quá trình hóa học; là mối liên hệ hữu cơ giữa
hóa học và vật lý, quá trình hóa học là khâu chuẩn bị cuối cùng cho đời sống hữu cơ.
Trong triết học tinh thần, hạt nhân hợp lý trong phép viện chứng của Hegel thể
hiện ở chỗ ông coi sự phát triển của lịch sử là hợp quy luật; sự phát triển của lịch sử

5


không tuần hoàn mà đi lên, mỗi thời đại lịch sử đều có đặc điểm riêng và quá trình
phát triển của lịch sử là có tính kế thừa.
2.2.3 Tư tưởng của Hegel về con người
Hegel coi thế giới vật chất chính là con người vô cơ, con người ở giai đoạn chưa
hình thành. Còn con người bằng xương, bằng thịt theo Hegel là con người đã phát triển
đầy đủ, là con người trở về chính bản thân nó với tất cả những đặc tính vốn có của
mình. Hegel coi con người vừa là chủ thể vừa là kết quả của chính quá trình hoạt động
của mình; con người vừa là chủ thể, đồng thời là mục đích của sự phát triển lịch sử; tư
duy và trí tuệ con người hình thành và phát triển trong chừng mực con người nhận
thức và cải biến thế giới, đối lập với bản thân mình thành cái của mình, ý thức con
người là sản phẩm của lịch sử xã hội, hoạt động của con người càng phát triển thì ý
thức của nó càng mang bản chất xã hội.



Con người và khả năng lớn lao của lý trí con người

Bằng tổng hợp triết học đồ sộ của mình, Hegel tin lý trí con người có thể lý giải
tất cả mọi vấn đề của thực tại, ông cho rằng các phạm trù không phải như là những quá
trình của tinh thần mà như là những thực tại khách quan có sự tồn tại độc lập với cá
thể tư duy.
Trong tác phẩm chính đầu tiên của ông là Hiện tượng học về tinh thần
(Phenomenology of the Spirit), Hegel đề cập đến khả năng biện chứng của con người,
“khởi đi với những mức độ thấp nhất của ý thức và công trình của con người một cách
biện chứng hướng đến mức độ mà ở đó tâm trí con người đạt tới quan điểm tuyệt đối”.
Tư duy và trí tuệ của con người hình thành và phát triển trong chừng mực con người
nhận thức và cải biến thế giới đối lập với bản thân mình thành cái của mình, ý thức
con người là sản phẩm của lịch sử xã hội, hoạt động của con người càng phát triển thì
ý thức của nó càng mang bản chất xã hội.


Con người trong tương quan với nhà nước

Theo ông giữa cá nhân và nhà nước có hai biện chứng, đó là gia đình và xã hội, vì
thế: “Con người có được hiện hữu là nhờ nhà nước” và nhờ quá trình biện
chứng.Hegel chủ trương nhà nước là một cơ quan tìm cách phát triển ý niệm tự do tới
mức tối đa, và cá nhân chỉ đạt sự tự do khách quan khi mỗi cá nhân cũng làm như thế.
6


Hegel cho rằng các cá nhân có ý thức về tự do và diễn tả tự do của họ một cách cụ thể
nhất bằng hành vi ý chí. Ông coi ý chí và lý trí gần đồng nghĩa với nhau “chỉ khi trí tuệ
suy nghĩ, ý chí mới là ý chí tự do”. Theo ông tự do cao nhất khi cá nhân hành động
theo ý chí phổ quát, hợp lý với toàn thể xã hội.
Ông quan niệm rằng quá trình biện chứng đến mức nào đó sẽ xuất hiện của một

tình trạng không xung đột: nếu không còn xung đột thì sẽ không còn biến dịch nữa.
Ông xem đó là một xã hội hữu cơ, trong đó mỗi cá nhân là một bộ phận chức năng hài
hoà với toàn bộ, họ tuỳ thích phụng sự lợi ích của một toàn thể lớn hơn bản thân họ rất
nhiều. Ông tin rằng một xã hội như thế hoàn toàn vượt quá những giá trị của chủ nghĩa
cá nhân tự do: “nhà nước là ý niệm của tinh thần trong sự biểu hiện bên ngoài của ý
chí con người và tự do của nó”.
Tóm lại, Hegel đã có công “cứu” lý trí con người khỏi quan điểm chật hẹp của các
triết gia Duy Lý và Duy Nghiệm trước ông. Ngoài ra, Hegel đã có công nối kết tư tưởng
của hai trường thái triết học này trong khi xây dựng quan điểm độc đáo của riêng mình.
Bên cạnh đó ông cũng đã đi ngược lại quan điểm của Kant về khả năng giới hạn nhận
thức của con, bằng cách đề cao khả năng to lớn của lý trí con người trong khi nhận thức
mọi thực tại. Theo Hegel “bất cứ cái gì tồn tại thì đều có thể hiểu được”.
2.2.4 Tư tưởng của Hegel về đạo đức
Quan điểm triết học của Hegel về đạo đức luôn gắn với pháp quyền, mục đích
chủ yếu của đạo đức học Hegel là phân tích xã hội đang tồn tại chứ không phải cái
hiện thực cần phải có. Hegel nghiên cứu đạo đức, pháp quyền, nhà nước, gia đình là
biểu hiện của sự tha hóa “tinh thần đạo đức khách quan”.
Thứ nhất, pháp quyền dưới góc nhìn đạo đức của Hegel, quan điểm biện chứng
về pháp quyền theo một trình tự nhất định từ thấp lên cao. Pháp quyền bắt nguồn từ
luân lý và đời sống đạo đức (gia đình, xã hội dân sự, nhà nước) đến lịch sử thế giới
(pháp quyền tối cao). Trong tác phẩm Triết học pháp quyền, lĩnh vực đạo đức hay từ
của ông dùng là “thực thể đạo đức” bao gồm ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là gia
đình, giai đoạn thứ hai là xã hội công dân, giai đoạn thứ ba là nhà nước.
Thứ hai, quan hệ đạo đức của Hegel về gia đình là sự kết hợp giữa bản năng và
tình yêu một cách bền chặt và khách quan. Hegel không xem xét hôn nhân, gia đình
7


dưới khía cạnh sinh học, mà xem xét dưới khía cạnh đạo đức. Hegel cũng đồng tình về
tính tuyệt đối trong hôn nhân với quan điểm một vợ một chồng và những người có

chung huyết thống không được lấy nhau. Hegel cũng cho rằng sự khác biệt tính phái
biểu hiện qua sự phân chia bổn phận giữa vợ và chồng trong gia đình mang tính đạo
đức. Người chồng quản lý tài sản của cả gia đình, và có trách nhiệm chủ yếu ngoài xã
hội, trong khi đó người vợ lại có khuynh hướng hướng nội đối với gia đình.
Thứ ba, quan điểm triết học về đạo đức của Hegel thể hiện việc trình bày các
phạm trù đạo đức, đặc biệt là phạm trù cái thiện và cái ác trong những mâu thuẫn nội
tại và sự chuyển hóa giữa chúng với nhau. Hegel đã thấy được quy luật của sự vận
động và phát triển, trong quá trình phát triển của lịch sử, trong những điều kiện nhất
định, cái ác và cái thiện có thể chuyển hóa lẫn nhau, cái ác có thể trở thành cái thiện và
cái thiện cũng có thể trở thành cái ác. Theo quan điểm biện chứng của Hegel, hai phạm
trù thiện và ác, là sự thể hiện trọn vẹn ý chí của con người đối với cái toàn năng, biểu
hiện sự thống nhất giữa đạo đức cá nhân và các quyền lợi chung.
Thứ tư, đỉnh cao của học thuyết về đạo đức của Hegel chính là lý luận về nhà
nước, Hegel coi nhà nước là mục đích tự thân, là cái hợp lý tự nó và cho nó, trong đó
nhà nước tự do đạt tới pháp luật tối cao phù hợp với nó. Hegel cho rằng nhà nước có ý
nghĩa tuyệt đối bậc nhất đối với lợi ích của từng cá nhân cụ thể, nó là sự thực hiện tự
do đích thực trong thế giới. Ông không chỉ tuyên bố nhà nước là sự thực hiện tự do,
mà còn là sự chu du của Thượng đế trong thế giới. Vì vậy, khái niệm nhà nước của
Hegel không chỉ mang tính chất duy tâm, mà còn có tính chất thần thánh nữa, ông cho
rằng nhà nước hiện thực có thể xấu xa, còn nhà nước lý tưởng là tốt đẹp, bởi nó là
“Thượng đế hiện thực”. Tư tưởng của Hegel về đạo đức, nhà nước và pháp quyền hoàn
toàn mang màu sắc thần bí, các mối quan hệ xã hội, công dân, nhà nước chỉ được coi
là sự thể hiện của ý niệm đạo đức. Theo đó, pháp quyền hay quyền hạn Nhà nước sẽ
không bị ràng buộc bởi những luân lý thuộc cấp độ thấp hơn (gia đình, xã hội), nhưng
phải chịu sự tác động của quyền hạn tuyệt đối của tinh thần thế giới (cấp độ cao hơn),
có thể hiểu như tòa án thế giới. Như vậy, Hegel là đại biểu của một nền đạo đức học
định chế, theo đó con người không phải làm bất kỳ điều gì khác ngoài những gì đã qui
định trong một cộng đồng đạo đức. Theo đó, sự đúng đắn và bổn phận của con người
trong xã hội do bản thân chính xã hội đó tạo ra.
8



2.3

Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong thế giới quan triết học của Hegel

2.3.1. Hạn chế trong tư tưởng thế giới quan triết học của Hegel
Thứ nhất, trong tư tưởng triết học của Hegel, quan niệm về thế giới quan triết học
của ông ngay từ đầu đã gặp phải hạn chế nhất định từ chính quan điểm. Hegel luôn coi
triết học là lĩnh vực tối cao của hoạt động khoa học tinh thần, là khoa học tạo thành
trung tâm của văn hóa tinh thần của mọi khoa học và mọi chân lý. Ông luôn coi triết
học như là cái tinh thần tuyệt đối, như là động lực nội tại khiến thế giới con người phải
theo và tiến tới.
Thứ hai, mặc dù là người đầu tiên sáng tạo ra một hệ thống tri thức mới – phép
biện chứng ,tuy nhiên, hạn chế của ông chính là sáng tạo ra phép biện chứng trên lập
trường duy tâm. Ông đã xuất phát từ cơ sở đồng nhất giữa tư duy và tồn tại khi coi
những quy luật của tự nhiên, của lịch sử là những quy luật của tư duy.
Thứ ba, với xuất phát điểm là một nhà triết học duy tâm khách quan, trong tư
tưởng của Hegel có những nhận thức chưa thực sự phù hợp. Theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật, ý niệm là cái phản ánh của vật chất hiện thực vào trong ý thức con
người nhưng đối với Hegel, ông đã tách nó ra khỏi con người, làm cho nó trở thành
đấng tối cao sáng tạo ra tự nhiên và nhân loại. Từ một thực tế là các quy luật của tồn
tại được phản ánh trong tư duy. Quan hệ hiện thực đã bị Hegel thần bí hóa bị “đặt lộn
ngược chân lên đầu”. Đây là cách mà Hegel luận chứng theo kiểu duy tâm luận, ông
cho rằng các hình thức của tư duy là sự phản ánh các mối quan hệ vốn có trong tự
nhiên và trong xã hội, không phụ thuộc vào tư duy.
Thứ tư là sự chứa đựng đầy mâu thuẫn trong Triết học của Hegel. Nếu phương
pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát
triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông phủ nhận tính cách khách quan của những
nguyên nhân bên trong, vốn có của sự phát triển của tự nhiên xã hội. Ngoài ra, ông

phủ nhận sự phát triển của giới tự nhiên và nhiều thành tựu của khoa học tự nhiên lúc
bấy giờ nếu chúng không phù hợp với ý niệm tuyệt đối. Ông cho rằng ý niệm tuyệt đối
có sự vận động và phát triển không ngừng. Trong quá trình tự nhận thức chính mình, ý
niệm tuyệt đối tha hóa thành giới tự nhiên. Do vậy, giới tự nhiên cũng có sự vận động
và phát triển theo những quy luật nhất định nhưng không phải là sự tự vận động của
9


chính nó mà sự tự vận động của ý niệm tuyệt đối đã bị tha hóa. Quan điểm này được
Ăngghen diễn giải là trong quá trình phát triển, những gì trước đây là hiện thực thì nay trở
thành không hiện thực, mất đi tính tất yếu, mất quyền tồn tại và bị tiêu vong; những gì là
hợp lý trong tư duy con người, dù có mâu thuẫn với hiện thực bề ngoài cũng được quy
định trở thành hiện thực. Từ quan điểm đó, Hegel đã phủ nhận nhiều thành tựu khoa học
tự nhiên lúc bấy giờ nếu chúng không phù hợp với ý niệm tuyệt đối.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế


Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất, điều kiện kinh tế - xã hội hình thành nên tư tưởng triết học của Hegel:
Nước Đức từ cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia phong kiến
cát cứ điển hình, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Về xã hội, giai cấp tư sản mới ra đời
còn non yếu về mọi mặt; quần chúng lao động bất bình với chế độ đương thời. Trong
khi đó, ở Tây Âu, chủ nghĩa tư bản đã hình thành ở nhiều nước, khẳng định tính chất
ưu việt của chủ nghĩa tư bản so với chế độ phong kiến. Khác với tình hình chính trị,
văn hóa, xã hội, khoa học nước Đức thời kỳ này Tây Âu khá phát triển do kế thừa tinh
hoa văn hóa phương Tây trước đó, di sản văn hóa Đức, văn hóa Pháp vá các thành tựu
khoa học tự nhiên đương thời. Sự lạc hậu của nước Đức so với các nước Tây Âu đã
thức tỉnh tính phản kháng của giai cấp tư sản Đức và đòi hỏi giai cấp tư sản Đức phải
có cách nhìn mới về tự nhiên, xã hội và con người. Giai cấp tư sản Đức muốn làm

cách mạng tư sản như các nước Tây Âu, muốn xây dựng nền triết học theo yêu cầu
mới, song do mới ra đời nên còn yếu kém về số lượng, kinh tế và chính trị nên họ giữ
lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề của đất nước. Chính điều đó
quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức nói chung và triết học của Hegel nói
riêng: nội dung cách mạng dưới một hình thức duy tâm bảo thủ; đề cao vai trò tích cực
của tư duy con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng, là điểm
xuất phát của mọi vấn đề triết học. Trái với các nguyên tắc xuất phát của mình. Hegel
đã đặt ra một giới hạn cho sự phát triển của nhân loại kể cả cho sự phát triển của triết
học sau khi tuyên bố rằng học thuyết của mình là sự kết thúc tuyệt đối hoàn thiện của
tư tưởng triết học.
Thứ hai là do sự tác động của những tư tưởng triết học trước đó: Hegel chịu ảnh
hưởng của triết học hiện thực, của logic học với tư cách cơ sở khả thể của hệ thống
10


triết học cần tìm. Triết học Hy Lạp cổ đại cũng đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ tới tư
tưởng triết học của Hegel. Do từ nhỏ, ông được giáo dục trong bầu không khí sùng đạo
Tin lành, được nghiên cứu nhiều tác phẩm cổ điển của Hy Lạp và La Mã khi theo học
tại trường trung học Stuttgart. Triết học Hy Lạp cổ đại với các triết gia tiêu biểu như:
Heraclite, Platon, Aristotle,… Điểm đặc trưng tiến bộ trong triết học Hy Lạp cổ đại đó
chính là đều chứa đựng tư tưởng biện chứng. Nhìn chung, phép biện chứng cổ đại
mang nặng tính tự phát, ngây thơ. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng phép biện chứng
cổ đại đã coi thế giới là một chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ phận của thế giới có mối
liên hệ qua lại, thâm nhập, quy định, tác động lẫn nhau; thế giới không ngừng vận
động, biến đổi. Hegel còn chịu ảnh hưởng không nhỏ tư tưởng của các triết gia Tây
Âu thời kì trước đó. Triết học Tây Âu thời kỳ Trung cổ (thế kỷ V – XV) gắn liền với
tôn giáo và chủ nghĩa kinh viện và triết học Tây Âu thời Phục Hưng (thế kỷ XV –
XVI); Cận đại (thế kỷ XVII – XVIII) gắn với phương thức tư duy siêu hình của khoa
học tự nhiên nên tư tưởng biện chứng không được phát triển. Bước sang cuối thế kỷ
XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, với bối cảnh đặc thù của nước Đức, với sự phát triển của

triết học cổ điển Đức, tư tưởng biện chứng thời cổ đại mới được “sống lại” và phát
triển trong một hình thái mới. Nhìn chung, phép biện chứng trong triết học cổ điển
Đức là phép biện chứng duy tâm, được hình thành từ Kant, phát triển qua các nhà triết
học sau đó như Fichte, Schelling và phát triển đỉnh cao trong triết học của Hegel.
Từ đó có thể giải thích được lý do tại sao trong tư tưởng triết học của Hegel chứa
đựng đầy mâu thuẫn và được sáng tạo ra trên lập trường duy tâm. Triết học Hy Lạp đã
mang lại cho Hegel tư tưởng tiến bộ về phương pháp biện chứng – hạt nhân hợp lý
chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển thì hệ thống triết học duy của các triết gia
Tây Âu trước ông đã làm ông phủ nhận tính khách quan của những nguyên nhân bên
trong, vốn có của sự phát triển của tự nhiên, xã hội.


Nguyên nhân chủ quan.

Thứ nhất là do việc lựa chọn xuất phát điểm của Hegel: Hegel xuất phát không
phải từ sự thống nhất mà từ sự đồng nhất của tư tưởng tư duy và tồn tại. Ông cho rằng,
chúng ta không cần phải nghiên cứu một cách cụ thể mọi chi tiết của sự phát triển của
tự nhiên, xã hội vì sự phát triển của chúng chỉ là sự phản ánh sự phát triển của những
khái niệm. Cho nên theo Hegel, phân tích những khái niệm là phương tiện nhận thức
11


hiện thực dễ hơn là nghiên cứu một cách cụ thể chính bản thân hiện thực này. Xuất
phát từ quan niệm này mà Hegel coi sự phát triển của thế giới như là sự phát triển của
những khái niệm. Từ đó ông buộc phải đưa ra một số phạm trù mà chúng chưa từng có
trong hiện thực, đặc biệt là sự chuyển biến một cách giả tạo từ một khái niệm này nẩy
sinh ra một khái niệm khác. Thêm vào đó, có thời kỳ Hegel nghiên cứu kinh tế học
chính trị. Vì vậy, định hướng phê phán xã hội trong các tác phẩm của Hegel như:
Cương lĩnh đầu tiên về hệ thống chủ nghĩa duy tâm Đức (1796); Về quan hệ đối ngoại
mới nhất của Vutemberg, đặc biệt về tổ chức tòa thị chính (1798); tiểu phẩm: Tinh

thần Kitô giáo và số phận của nó (1799);… đã đưa đến cho Hegel luận chứng cho triết
học của mình. Đó là một trong những lý do vì sao Hegel tuyệt đối hóa vai trò của ý
niệm tuyệt đối.
Thứ hai là do những quan niệm, quan điểm trong tư tưởng triết học của Hegel:
Hegel đã vận dụng phương pháp nêu mâu thuẫn một cách đảo ngược, lẽ ra phải thấy
rằng do mâu thuẫn nội tại mà vật chất luôn luôn biến chuyển, và đến một trình độ nào
đó mới phát sinh ra tinh thần, thì Hegel lại cho rằng nguồn gốc mâu thuẫn là hoạt động
của tinh thần, quá trình phát triển vật chất là do mâu thuẫn của hoạt động tinh thần.
Hegel chỉ trông thấy hiện tượng ở bên trên, nên cho rằng tinh thần quy định sự tiến
hóa, hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới. Mệnh đề chung của Hegel phản ánh một
chân lý, đó là con người sáng tạo thế giới lịch sử, nhưng con người đó chỉ được quan
niệm trong phạm vi tinh thần. Tuy nhiên con người tinh thần cũng chỉ là hình ảnh của
con người lao động thực sự. Hạt nhân duy lý trong phương pháp biện chứng của Hegel
là ở chỗ đó.
III.

KẾT LUẬN

Như vậy, hệ thống tư tưởng triết học của Hegel đã trở thành một điểm nhấn
trong lịch sử phát triển của triết học nói chung và triết học cổ điển Đức nói riêng. Bên
cạnh những thiếu sót mang tính “hạn chế của lịch sử” và một phần do chính bản thân
Hegel, chúng ta cũng không thể phủ nhận giá trị to lớn của phép biện chứng của ông
mang lại. Có thể nói, Hegel đã đem lại cho triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả
của nó trong đời sống tinh thần của nhân loại. Học thuyết triết học của Hegel đã đưa
phương pháp biện chứng thành trung tâm, thành hạt nhân chủ yếu của toàn bộ mọi vấn
đề của triết học. Phương pháp tư duy biện chứng đã được Hegel nghiên cứu một cách
12


đầy đủ nhất và có căn cứ vững chắc, đây là một trong những phương pháp nghiên cứu

chưa từng có trong lịch sử triết học trước Marx. Phép biện chứng của Hegel biểu hiện
ra là lý luận nhận thức, hình thức cao nhất của logic học, của tư duy logic.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Nguyễn Đình Tường, “Những tư tưởng cơ bản của Hegel về logic học với tính
cách là logic biện chứng”, Tạp chí khoa học xã hội;
2. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Trọng Chuẩn, “Ý nghĩa của phép biện chứng”, Tạp chí triết học;
3. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 1993.

13



×