MỤC LỤC
A.
MỞ ĐẦU
Trang
1
B.
NỘI DUNG
1
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ
CON NGƯỜI
1
1.1.
Khái niệm con người
1
1.2.
Quan điểm triết học Mác – Lênin về nguồn gốc, bản
chất con người
2
1.2.1. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
2
1.2.2. Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh
3
học và mặt xã hội
1.2.3. Bản chất con người là tổng hòa của những mối quan hệ
xã hội
4
1.2.4. Con người tồn tại, phát triển trong môi trường cư trú và
mang thuộc tính xã hội – hành tinh – vũ trụ
1.2.5. Con người là một thực thể cá nhân – xã hội
4
5
1.2.6. Sự thống nhất biện chứng giữa con người giai cấp và
con người nhân loại
6
1.2.7. Con người thống nhất biện chứng giữa tất yếu và tự do
7
1.2.8. Hiện tượng tha hóa con người
7
1.3.
Quan điểm triết học Mác – Lênin về vấn đề giải phóng
con người
8
CHƯƠNG II: PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
8
2.1. Quan niệm triết học về nhân tố con người
8
2.2. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở
9
Việt Nam hiện nay
C.
KẾT LUẬN
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
0
12
A. MỞ ĐẦU
Từ thời kỳ xa xưa, con người vốn đã là trung tâm nghiên cứu của các khoa
học nói chung và của Triết học nói riêng. Vấn đề con người luôn là vấn đề hết
sức phức tạp mà các khoa học nghiên cứu chỉ nghiên cứu một khía cạnh mà
không thể nghiên cứu hết tất cả các cơ quan, bộ phận, bản chất, vai trò của con
người. Chỉ có Triết học Mác – Lênin mới có sự nghiên cứu con người trong một
chỉnh thể thống nhất, từ đó đi truy tìm bản chất con người và có những định
hướng giải phóng con người. Trong xã hội hiện nay, yếu tố con người là yếu tố
cơ bản không thể thiếu để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển đất nước
và phát triển thế giới. Vậy để đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề con người,
người viết xin lựa chọn đề tài số 12: “Quan điểm triết học Mác – Lênin về con
người. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay”.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI
1.1. Khái niệm con người
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội và về con
người, triết học Mác – Lênin đã đem lại một quan niệm hoàn chỉnh về con
người. Theo quan điểm chung nhất, con người là thực thể sinh học xã hội.
Con người là một sinh vật có tính xã hội, vừa là sản phẩm cao nhất trong
quá trình tiến hóa của tự nhiên và của lịch sử xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo
mọi thành tựu văn hóa trên Trái đất. Triết học Mác chỉ rõ hai mặt, hai yếu tố cơ
bản cấu thành con người là mặt sinh học và mặt xã hội. Con người có mặt tự
nhiên, vật chất, nhục thể, sinh vật, tộc loại… Đồng thời, con người có mặt xã
hội, tinh thần, ngôn ngữ, ý thức, tư duy, lao động, giao tiếp, đạo đức… Hai mặt
đó hợp thành một hệ thống năng động, phức tạp, luôn luôn biến đổi, phát triển.
Về vai trò của con người, triết học Mác – Lênin khẳng định con người là chủ thể
hoạt động thực tiễn. Bằng hoạt động thực tiễn, con người sáng tạo ra mọi của cải
vật chất, tinh thần, đồng thời sáng tạo ra cả bộ óc và tư duy của mình.
1
1.2. Quan điểm triết học Mác – Lênin về nguồn gốc, bản chất con
người
1.2.1. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Triết học Mác – Lênin xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng về lịch
sử đã tiếp cận sự hình thành, phát triển con người trong lịch sử sản xuất vật chất,
từ đó khẳng định lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành, phát
triển của con người. Chính trong lao động, thông qua lao động mà con người
biến đổi điều kiện tự nhiên bên ngoài; làm biến đổi bản chất tự nhiên, cải tạo
bản năng sinh học của con người; đồng thời, hình thành và phát triển những
phẩm chất xã hội của mình.
Ăng ghen cũng khẳng định trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên : “thú
vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay
của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực
mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng
không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại con người càng
cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người tự mình
làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”. Như vậy con người khác
con vật ở chỗ, con vật sống dựa hoàn toàn vào tặng phẩm của tự nhiên, còn con
người, qua hoạt động thực tiễn, bằng lao động sản xuất để cải tạo tự nhiên, sáng
tạo ra của cải vật chất, thỏa mãn nhu cầu ngày càng phát triển của mình.
Triết học Mác – Lênin khẳng định thông qua lịch sử sản xuất vật chất, nhờ
lao động mà một loài sinh vật mới ra đời, đó là Homo sapiens – con người có lí
tính, mang tính chất xã hội. Lao động đã cải tạo bản năng sinh học của con
người, bắt bản năng phục tùng lý trí, phát triển bản năng con người thành một
trạng thái mới về chất. Lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành
phát triển phẩm chất xã hội của con người. Ăng ghen khẳng định: Trên ý nghĩa
cao cả nhất thì lao động sáng tạo ra chính bản thân con người
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử
của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho
sự tồn tại của con người, vừa là phương thức làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã
2
hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt
động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp
với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người
thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã
hội loài người.
1.2.2. Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và
mặt xã hội
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành
tựu của khoa học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào, triết học
Mác khẳng định con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên,
vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người. Con người là một
chỉnh thể tồn tại và phát triển trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã
hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của
giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học,
tính loài. Về mặt sinh học, con người tồn tại ở cấp độ cơ thể, biểu hiện trong các
hiện tượng sinh lí, di truyền, thần kinh, điện – hóa và các quá trình khác của cơ
thể. Về mặt này, con người phục tùng các quy luật của tự nhiên, sinh học.Về mặt
xã hội, con người tồn tại ở cấp độ nhân cách, biểu hiện trong những quá trình ý
thức, tính cách, tính khí… là chủ thể quan hệ xã hội, lao động, giao tiếp, tinh
thần… Về mặt này, con người phục tùng các quy luật xã hội.
Con người tồn tại và phát triển trong tính toàn vẹn thống nhất của hai quá
trình sinh học và xã hội. Sự hình thành phát triển con người thông qua một quá
trình thống nhất giữa cơ chế di truyền và hoạt động xã hội. Cơ chế di truyền
quyết định quá trình tiến hóa sinh học của con người, tạo nên cơ sở sinh học cho
sự tiến hóa xã hội. Quá trình gia nhập hoạt động xã hội, gia nhập vào bối cảnh
văn hóa lịch sử của quần thể xã hội đã quyết định sự hình thành phát triển những
phẩm chất xã hội của con người. Đây là một quá trình thống nhất và phức tạp.
Trong đó, cơ chế di truyền không chỉ quyết định về mặt sinh học là chủ yếu mà
còn gắn liền với sự hình thành phát triển “bản năng xã hội” của con người.
Ngược lại quá trình tập nhiễm trong cuộc sống xã hội không chỉ quyết định mặt
3
xã hội của con người mà còn cải biến mặt sinh học, làm cho cái sinh học thích
nghi với hoạt động xã hội.
1.2.3. Bản chất con người là tổng hòa của những mối quan hệ xã hội
Con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập
với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành
bản chất con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.
Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng: “Bản chất con người không phải là một cái
trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Luận điểm trên chỉ rõ: không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều
kiện hoàn cảnh cụ thể của lịch sử và xã hội. Luận đề đã khẳng định bản chất xã
hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Trái lại,
điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và động vật trước hết là
bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu xót của những nhà triết học
trước Mác, không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản
chất với ý nghĩa là cái phổ biến, là cái mang tính quy luật. Vì vậy cần phải thấy
được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả
phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
Con người là sản phẩm của giới tự nhiên, song con người không hoàn toàn
phụ thuộc vào giới tự nhiên mà đã vươn lên, tách xa thế giới động vật, trở thành
con người của xã hội, sáng tạo ra lịch sử. Với vai trò là chủ thể của lịch sử con
người phải được tự do, hạnh phúc, phải được phát triển nhiều khả năng của
mình. Nhưng không phải lúc nào và ở đâu con người cũng có đủ điều kiện để
phát triển toàn diện. Vì vậy, một vấn đề đã và đang đặt ra là các quốc gia nói
riêng, nhân loại nói chung, phải coi con người là mục tiêu của sự phát triển của
xã hội.
1.2.4. Con người tồn tại, phát triển trong môi trường cư trú và mang
thuộc tính xã hội – hành tinh – vũ trụ
Triết học Mác – Lênin tiếp cận con người trong hệ thống con người – môi
trường cư trú, từ Trái đất đến vũ trụ. Môi trường là điều kiện cần thiết cho sự tồn
tại và phát triển của con người. Đó là toàn bộ hoàn cảnh tự nhiên và xã hội được
4
thu hút vào quá trình đời sống con người. Theo nghĩa rộng nhất, môi trường bao
gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Con người tồn tại trong hệ thống tương tác của tất cả các lực lượng tự
nhiên. Con người là một bộ phận tự nhiên, giao tiếp với tự nhiên và phụ thuộc
vào tự nhiên. Con người thuộc về giới tự nhiên, nằm trong giới tự nhiên, sống
trên hành tinh và phụ thuộc vào quá trình cơ, lí, hóa, sinh học của hành tinh. Con
người phụ thuộc vào các hiện tượng tự nhiên mà trong đó nhiều hiện tượng ở
trình độ khoa học hiện nay chưa giải thích được. Con người giao tiếp và phụ
thuộc vào tự nhiên ở cả cấp độ chức năng – cơ thể và cấp độ cảm xúc – tinh
thần. Khoa học tự nhiên đã phát hiện sự tương tác giữa “nhịp điệu vũ trụ” với
“nhịp điệu sinh học”. Điều đó nói lên con người mang thuộc tính xã hội – hành
tinh – vũ trụ và phụ thuộc vào môi trường.
Con người tồn tại trong môi trường xã hội, thông qua xã hội mà thích nghi
với tự nhiên. Bởi vì, xã hội là một bộ phận của giới tự nhiên, một kết cấu vật
chất đặc thù của giới tự nhiên. Toàn bộ quần thể xã hội hoạt động trong giới tự
nhiên; chỉ có thể tồn tai và phát triển trong mối quan hệ hài hòa với tự nhiên.
Mác khẳng định: “Chừng nào loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử
tự nhiên quy định lẫn nhau”. Như vậy, bản chất con người là tổng hòa các thuộc
tính tự nhiên – sinh học – xã hội.
1.2.5. Con người là một thực thể cá nhân – xã hội
Con người vừa là một chỉnh thể đơn nhất, vừa mang những phẩm chất của
hệ thống các quan hệ xã hội. Đó là một hệ thống năng động, phát triển thống
nhất giữa cái chung, cái đặc thù và cái riêng. Trước hết, con người là một nhân
cách mang đặc trưng chung, đại biểu cho nhân loại, tộc loại. Thuộc tính chung
nhất và cao nhất của con người là sáng tạo. Con người mang những phẩm chất
đặc thù đại biểu cho một xã hội lịch sử - cụ thể, đại biểu cho một dân tộc, giai
cấp, tập đoàn xã hội, tập thể, nhóm xã hội, gia đình… Những phẩm chất xã hội
của con người mang dấu ấn của một thời đại lịch sử và những quan hệ xã hội cụ
thể. Những phẩm chất riêng có của mỗi người là cái đơn nhất, cái đặc thù của cá
nhân tạo nên kinh nghiệm, tính đơn nhất về tâm lý xã hội của mỗi người. Cái
riêng của con người do đặc điểm di truyền, do điều kiện sống riêng của mỗi
5
người quy định. Nhờ những phẩm chất riêng mà phân biệt được giữa cá nhân
này và cá nhân khác về trí tuệ, tình cảm, ý chí, động cơ hành động, tính cách…
Mác nói: “con người là một thực thể xã hội mang tính cá nhân”.
1.2.6. Sự thống nhất biện chứng giữa con người giai cấp và con người
nhân loại
Con người mang tính nhân loại. Đây là thuộc tính vốn có hình thành trong
suốt chiều dài lịch sử của cuộc sống cộng đồng phổ biến rộng lớn nhất. Tính
nhân loại thể hiện trong thuộc tính chung nhất cao nhất của con người là sáng
tạo và trong những giá trị văn hóa chung mà nhân loại đạt được. Tính nhân loại
còn được thể hiện trong những quy tắc chuẩn mực của cuộc sống chung được
hình thành như những đạo lý. Tính nhân loại thể hiện trong những giá trị chung
mà con người quan tâm như nhân đạo, dân chủ, công bằng xã hội, hòa bình, bảo
vệ môi trường sinh thái… Cơ sở của tính nhân loại là từ bản chất xã hội của con
người, do yêu cầu khách quan của cuộc sống cộng đồng là con người phải dựa
vào người khác, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển.
Tính xã hội có giai cấp, con người mang tính giai cấp. Mỗi người là một
thành viên của giai cấp mang địa vị kinh tế xã hội của giai cấp đó. Địa vị kinh tế
xã hội mang tính khách quan, do toàn bộ điều kiện sinh hoạt vật chất quy định,
mặc dù mỗi thành viên giai cấp có thể ý thức được hoặc không ý thức được địa
vị của mình.
Tính giai cấp và tính nhân loại trong con người vừa đồng nhất vừa khác
biệt. Con người tồn tại thông qua những cá nhân hiện thực với tư cách là các chủ
thể hành động xã hội. Tính nhân loại vĩnh hằng. Bởi vì, trật tự kinh tế, chính trị
xã hội có thể bị thay đổi, nhưng quy luật con người luôn luôn phải biết dựa vào
người khác, khai thác sự phong phú của người khác để tồn tại, làm phong phú
cho mình là không bao giờ mất đi. Mặt khác, trong xã hội còn chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất, còn quan hệ đối kháng giai cấp thì con người còn mang tính giai
cấp. Các giai cấp và các hệ thống xã hội tương ứng vẫn là chủ thể chủ yếu của
xã hội hiện thực. Không bao giờ có một “lợi ích nhân loại thuần khiết”. Nó được
phản ánh trong nhận thức, trong hoạt động thực tiễn không tách rời với lợi ích
giai cấp.
6
1.2.7. Con người thống nhất biện chứng giữa tất yếu và tự do
Hoạt động con người bị chi phối bởi tính tất yếu. Tính tất yếu tồn tại dưới
hình thức các quy luật khách quan. Mặc dù con người nhận thức đươc quy luật
khách quan hay không thì lịch sử xã hội vẫn vận động phát triển theo quy luật.
Hoạt động của con người biểu hiện ra như là tất yếu “mù quáng”. Con người tự
do là con người nhận thức sâu sắc quy luật và hoạt động tự giác. Tự do là tiền
đề, điều kiện cho hoạt động sáng tạo của con người.
Hoạt động của con người là sự thống nhất giữa tất yếu và tự do. Hoạt động
con người có ý thức là hoạt động tiếp cận dần, nắm bắt quy luật khách quan làm
tiền đề cho sự sáng tạo. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử con người vươn lên
giành lấy tự do ngày càng cao hơn. Con người muốn tự do, trước hết phải được
giải phóng về mặt xã hội, phải có chế độ kinh tế xã hội, tạo điều kiện tốt nhất
cho hoạt động con người vươn tới tự do. Một xã hội bao gồm trong đó những
con người phát triển tự do, toàn diện chính là mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản.
1.2.8. Hiện tượng tha hóa con người
Tha hóa là quá trình xã hội trong đó hoạt động của con người và sản phẩm
của nó biến thành một lực lượng đối lập thù địch và thống trị lại con người.
Nguồn gốc của tha hóa là do sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự
xuất hiện chế độ tư hữu. Triết học Mác – Lênin nghiên cứu những dấu hiệu đặc
trưng của sự tha hóa từ các phương diện: sự tha hóa của điều kiện lao động; sự
tha hóa của kết quả lao động; sự tha hóa của thiết chế chính trị xã hội; sự tha hóa
của tư tưởng, sự tha hóa của tự nhiên… Khắc phục sự tha hóa là một quá trình
lâu dài, gắn liền với xóa bỏ chế độ tư hữu. Triết học Mác – Lênin chính là lý
luận triết học về khắc phục sự tha hóa của con người, trước hết là lý luận giải
phóng con người khỏi mọi áp bức bóc lột.
Như vậy, triết học Mác – Lênin trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về
lịch sử, tiếp cận con người trong tính chỉnh thể của nó, đem lại một hình ảnh
toàn vẹn, đúng đắn về con người, khôi phục lại địa vị vốn có của con người
trong lịch sử. Triết học Mác – Lênin là học thuyết về sự giải phóng con người,
vì hạnh phúc con người. Đây là cơ sở để bác bỏ những luận điểm tư sản, xét lại
7
cho rằng triết học Mác bỏ quên vấn đề con người, không xây dựng học thuyết về
con người, chỉ xây dựng học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
1.3. Quan điểm triết học Mác – Lênin về vấn đề giải phóng con người
C.Mác khẳng định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội có ý nghĩa là
sự phát triển phong phú bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân.
Bởi vậy, theo ông, ý nghĩa lịch sử mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là
phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực phẩm giá con người, giải
phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người để con người được sống
với cuộc sống đich thực. Và bước quan trọng nhất trên con đường đó là giải
phóng con người về mặt xã hội. Do sự phát triển của phân công lao động xã hội
và sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất mà xuất hiện sự tha hóa con
người. Khắc phục sự tha hóa chính là một quá trình giải phóng con người. Giải
phóng con người là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ tha hóa để con
người trở về với chính mình, phát triển bản chất chân chính của mình. Đấu tranh
giai cấp cũng là một quá trình khắc phục sự tha hóa con người về mặt xã hội,
giải phóng con người khỏi mọi chế độ áp bức, bất công. Trải qua thời kỳ phát
triển của xã hội loài người chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp đáp ứng đầy đủ mọi
quy luật của cuộc sống; người vô sản là người tiêu biểu cho phương thức sản
xuất mới, có sứ mệnh và hoàn toàn có khả năng giải phóng mình, giải phóng xã
hội để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Thực chất của triết học Mác –
Lênin là học thuyết giải phóng con người, vì sự phát triển toàn diện của con
người.
CHƯƠNG II: PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quan niệm triết học về nhân tố con người
Nhân tố con người là một phạm trù triết học dùng để chỉ hệ thống các
thuộc tính, các đặc trưng quy định vai trò của chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo
của con người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng
hòa những đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con người trong quá trình phát
triển lịch sử. Quan niệm về nhân tố con người trong triết học Mác – Lênin đã chỉ
8
ra sự thống nhất giữa hai mặt là hoạt động và phẩm chất, năng lực của con
người. Hoạt động của con người bao gồm hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn; hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần. Phẩm chất và năng lực của
con người bao gồm: phẩm chất chính trị, đạo đức.. và năng lực nhận thức, tư
duy, hành động.. Giữa mặt hoạt động và mặt phẩm chất, năng lực có mối quan
hệ biện chứng. Trong đó, hoạt động là cơ sở để hình thành, phát triển phẩm chất
và năng lực của con người. Ngược lại, phẩm chất và năng lực của con người là
cơ sở cho hoạt động của con người đạt hiệu quả. Cả hoạt động, phẩm chất và
năng lực là những đặc trưng xã hội quy định vai trò chủ thể tích cực, tự giác,
sáng tạo của con người.
Quan niệm nhân tố con người trong triết học Mác – Lênin đã chỉ ra vai trò
chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người. Chính vì vậy, nhân tố con
người là cội nguồn của mọi sự phát triển, của mọi nền văn minh xã hội.
2.2. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay
Sự nghiệp đổi mới đặt con người vào vị trí trung tâm – vừa là mục tiêu,
vừa là động lực phát triển. Con người, tự do và hạnh phúc của con người là vấn
đề trung tâm của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao nhất, bao trùm của chủ nghĩa xã
hội là độc lập, tự do, hạnh phúc của con người. Đó là lợi ích lớn nhất của con
người Việt Nam. Cách mạng Việt Nam trải qua giai đoạn giành độc lập dân tộc,
tiến lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng vì mục đích giải phóng con
người.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
đã cụ thể hóa mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phù hợp giai đoạn mới của
cách mạng; đồng thời từng bước hiện thực hóa mục tiêu đó. Để phát huy vai trò
nhân tố con người, cần tổ chức mọi hoạt động trên cơ sở khoa học, chú trọng
tuyên truyền giáo dục, động viên kịp thời các hành động tích cực của con người.
Đảng và Nhà nước đã thi hành các chính sách xã hội hướng tới con người, phát
động các phong trào cách mạng, thông qua đấu tranh cách mạng để phát huy
nhân tố con người, đồng thời phát hiện, khắc phục các nhân tố tiêu cực, chống
chủ nghĩa cá nhân.
9
Vấn đề chiến lược con người ở Việt Nam hiện nay
Chiến lược con người là một bộ phận hợp thành chiến lược kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
con người đặt vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Việc xây dựng
con người mới có tầm quan trọng đặc biệt, phải đi trước một bước so với hoàn
cảnh kinh tế xã hội. Thực chất, đây là chuẩn bị nhân tố con người cho sự phát
triển xã hội.
Mục tiêu của chiến lược con người là phát triển con người toàn diện, vừa
“hồng” vừa “chuyên”, trong đó ưu tiên đạo đức cách mạng, coi đức là gốc. Đào
tạo những người công dân và những người cán bộ tốt, kế tục xứng đáng sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Trong chiến lược con người, xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên là công việc phải đặt lên hàng đầu, “công việc
gốc của Đảng”. Phải đào tạo được những con người biết làm việc, làm người,
làm cán bộ. Đặc biệt, quan tâm đến giáo dục – đào tạo thế hệ trẻ, chủ nhân
tương lai của đất nước. Mô hình con người xã hội chủ nghĩa là con người kế
thừa, phát triển những giá trị truyền thống và giá trị cách mạng lên tầm cao mới.
Đối với nước ta, để phát huy nhân tố con người trong đổi mới đất nước
hiện nay, cần thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, quan tâm, giải quyết hài hòa lợi ích con người. Quan tâm lợi ích
con người, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người chính là hiện thức
hóa quan điểm coi con người vừa là mục đích, vừa là động lực phát triển của
cách mạng Việt Nam. Điều này đòi hỏi kết hợp giáo dục giá trị và đổi mới, hoàn
thiện chính sách xã hội, định hướng giá trị - lợi ích con người. Chỉ có trên cơ sở
quan niệm giá trị đúng đắn, phù hợp với lợi ích chân chính, con người mới có
nhận thức và hành động đúng đắn. Định hướng giá trị - lợi ích còn là để khắc
phục sự lệch chuẩn giá trị trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở hiện nay,
làm cho con người có mục tiêu, lí tưởng, có hoài bão phấn đấu đúng đắn, góp
phần tích cực vào sự phát triển xã hội.
Đảng và Nhà nước ta cần thực hiện chính sách xã hội nhằm kết hợp hài hòa
các lợi ích, điều chỉnh quan hệ xã hội. Các chế độ, chính sách, pháp luật nhà
10
nước phải được cụ thể hóa để thực sự trở thành công cụ thực hiện công bằng xã
hội, từng bước hiện thực hóa các giá trị xã hội chủ nghĩa vào thực tiễn đời sống.
Thứ hai, thực hiện dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội. Để thực hiện dân
chủ hóa, cần tập trung một số giải pháp cơ bản. Trước hết, cần phải thu hút rộng
rãi các tầng lớp nhân dân tham gia quản lí nhà nước, thực sự làm chủ vận mệnh
của mình, làm chủ xã hội mới; phối hợp chặt chẽ dân chủ đại diện và dân chủ
trực tiếp; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi
dụng dân chủ để chống lại chế độ; phát huy dân chủ đi đôi tăng cường kỉ luật,
pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa; lấy dân chủ trong Đảng, trong bộ máy nhà
nước làm nòng cốt cho dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa; đổi mới, cải cách, hoàn
thiện bộ máy nhà nước – công cụ của nhân dân lao động làm chủ xã hộ, khắc
phục biểu hiện quan lieu, tham nhũng, xa rời quần chúng, thực hiện tốt quy chế
dân chủ cơ sở, tăng cường dân chủ, giải phóng mọi năng lực sáng tạo nhằm ổn
định chính trị xã hội, tạo điều kiện cho sự nghiệp đổi mới thắng lợi…
Thứ ba, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục đào tạo. Phải thực sự coi giáo
dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển toàn diện con người Việt
Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giáo dục là sự nghiệp
có tính chiến lược. Mục tiêu của sự nghiệp giáo dục là nâng cao dân trí, phát
triển nhân lực, đào tạo nhân tài, trên nền tảng phát triển nhân cách con người
Việt Nam vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Phương hướng nhiệm vụ của sự nghiệp
giáo dục là phải giải quyết tốt quan hệ đào tạo và sử dụng, giải quyết nguồn
nhân lực; nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đào tạo; tiếp tục đổi mới toàn
diện công tác giáo dục đào tạo phù hợp với yêu cầu của đất nước trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
C. KẾT LUẬN
Đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, con người là nhân tố đóng
vai trò quyết định. Vì vậy, phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn
nhân lực có đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn
thấm đượm sâu sắc bản sắc dân tộc, khoa học và ý chí, thực hiện sự chuyển
mình từ một đất nước nông nghiệp thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học (dùng trong đào tạo trình
độ thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học xã hội và nhân văn không
chuyên ngành Triết học), Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội, 2014.
2. Hội đồng TW chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác - Lênin, tư tưởng HCM, Giáo trình triết học Mác - Leenin,
Nxb. CHính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
3. />4. />
12