Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

SKKN giải pháp nâng cao hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học trong môn lịch sử ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.81 KB, 35 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến giải pháp
Hiện nay công cuộc cải cách, đổi mới trong ngành giáo dục đã và đang diễn
ra một cách mạnh mẽ và nó như là một đòi hỏi mang tính tất yếu đối với nền giáo
dục nước ta hiện nay, trong khi đó nhiều năm qua cùng với việc thay sách giáo
khoa, việc đổi mới phương pháp dạy học cũng được tiến hành song song và là một
những nhiệm vụ hàng đầu của ngành giáo dục. bên cạnh những thành công to lớn
song cũng còn nhiều hạn chế thiếu sót điều này lại đặt ra yêu cầu mới trước mắt là
tiếp tục đổi mới chương trình nội dung và phương pháp giáo dục cho phù hợp với
tình hình phát triển của thế giới cũng như nước ta hiện nay trong nhà trường phổ
thông nói chung và việc dạy học môn Lịch sử nói riêng cũng ở trong tình hình đó.
Là “Thầy dạy của cuộc sống”, là “Tấm gương soi của muôn đời”, bộ môn
Lịch sử trong nhà trường phổ thông làm cho thế hệ trẻ hiểu được cội nguồn dân
tộc, quá trình dựng nước và giữ nước của cha ông ta từ xa xưa. Từ đó nâng cao tư
tưởng sự hiểu biết, kế thừa truyền thống tốt đẹp của cha ông, với lòng tự hào dân
tộc, để phát huy tài năng và trí tuệ phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nứơc trong thời bình hiện nay. Đây là một trong những nhiệm vụ hết sức quan
trọng đối với một dân tộc, đặc biết là những con người làm công tác giáo dục.
Mặt khác việc đổi mới phương pháp dạy học sẽ nâng tác động trực tiếp đến
khả năng tiếp thu bài giảng của học sinh trong từng tiết học và quyết định lâu dài
đến chất lượng dạy học nói chung và bộ môn lịch sử nói riêng ở trường THCS.
Làm cho bài giảng thêm sinh động, có tính hấp dẫn với học sinh, kích thích hứng
thú học tập trong học sinh, giúp các em lĩnh hội bài tốt nhằm nâng cao hiệu quả
của bài học.
Việc vận dụng một số giải pháp để nâng cao hiệu quả đổi mới phương pháp
dạy học hiệu quả với một số giải pháp dạy học tích cực khác sẽ là lời giải đáp cho
bài toán học sinh “quay lưng lại” với lịch sử, truyền cho các em lòng yêu nước, tự

1



hào với truyền thống dân tộc, từ đó có ý thức hơn trong việc xây dựng và bảo vệ
đất nước.
Tuy nhiên một vấn đề đặt ra cho giáo viên dạy lịch sử là làm thế nào để vận
đổi mới dạy học có hiệu quả, vừa gây hứng thú học tập cho các em, vừa không làm
mất thời gian và nội dung cần hướng các em tìm hiểu.
Hiện nay, giáo viên đã từng bước áp dụng rất nhiều phương pháp dạy học
như khai thác kênh hình, sử dụng bản đồ tư duy…..nhưng hầu hết đều không đạt
hiệu quả cao trong giờ học. Sự đầu tư của giáo viên cho các tiết dạy có sử dụng
phương pháp mới không nhiều. Hơn nữa việc dự giờ, bồi dưỡng về phương pháp
dạy học chưa có hiệu quả, giáo viên hầu như chỉ quan tâm đến việc cung cấp hết
mọi thông tin SGK .
Điều đó không tránh khỏi việc đổi mới phương pháp dạy học một cách máy
móc, thậm chí còn sai lệch trong quá trình giảng dạy, giáo viên không có phương
pháp tốt để mang lại hiệu quả cho tiết dạy của mình, dẫn đến chất lượng lịch sử
thấp và kéo theo đó học sinh càng chán môn Lịch sử mà dần có thói quen học lịch
sử chỉ để nắm các sự kiện và nội dung có trong sách giáo khoa và thầy cô truyền
đạt là đủ, không có sự tìm tòi, phát hiện, chủ động học môn Lịch sử một cách hứng
thú như đối với môn Khoa học tự nhiên.
Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai đặt ra cho
giáo viên lịch sử nhiệm vụ: làm thế nào nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử,
kích thích sự hứng thú học Lịch sử cho học sinh.
Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi người giáo viên dạy Lịch sử không
chỉ có có kiến thức vững vàng về bộ môn Lịch sử mà biết vận dụng có hiệu quả
các giải pháp để nâng cao đổi mới dạy học ở trường THCS đó là thiết kế một giáo
án khoa học; Tổ chức linh hoạt hoạt động nhóm; Khai thác hiệu quả và tối đa các
thiết bị dạy học; Hướng dẫn học sinh khai thác nguồn sử liệu trong SGK và trình

2



bày nội dung đó; Đa dạng hóa các hình thức học tập gắn với ngày lễ kỷ niệm hoặc
một buổi ngoại khóa; Khai thác các bài theo chuyên đề.
Băn khoăn trước thực trạng đó, qua kinh nghiệm tích lũy được và thực tế
dạy học bộ môn tại đơn vị, bản thân tôi đã tôi đã sử dụng các giải pháp trên để
phát huy tối đa một giờ dạy theo hình thức đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo
hứng thú cho học sinh trong môn học Lịch sử, làm cho môn học không trở nên
nặng nề, khô khan, nhàm chán, từ đó nâng cao dần chất lượng bộ môn.
Với việc sử dụng các giải pháp đổi mới phương pháp dạy học đã tạo điều
kiện cho học sinh có thể “suy nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn”
trong giờ học Lịch sử.
Trong quá trình giảng dạy bộ môn Lịch sử, cá nhân tôi với tư cách là một
giáo viên trẻ, đã cố gắng học hỏi bạn bè, đồng nghiệp, đồng thời mạnh dạn nghiên
cứu và sử dụng “ các giải pháp nâng cao hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học”.
Đây cũng là lí do mà tôi chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả đổi mới
phương pháp dạy học trong môn lịch sử ở trường THCS” để góp phần nâng cao
hơn nữa chất lượng dạy học môn Lịch sử.
2. Điểm mới của đề tài:
Đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo từ nghị quyết
29 của BCH Trung ương Đảng khóa XI đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp dạy
học một cách có hiệu quả.
Rèn cho học sinh cách học theo các phương pháp mới, học sinh sẽ được làm
chủ kiến thức, tự giải quyết các vấn đề trong chương trình học, khắc phục tình
trạng học sinh không thích học lịch sử, làm thay đổi nhận thức trong học sinh.
Nâng cao các kỹ năng phân tích, đánh giá, tổng hợp vấn đề, biết vận dụng
kiến thức lịch sử vào cuộc sống một cách dễ dàng. Chính vì thế mà làm thay đổi
cách nhìn nhận của phụ huynh về môn Lịch sử.

3



Là nguồn tư liệu để giáo viên sử dụng các giải pháp đổi mới phương pháp
dạy học có hiệu quả nhất, giúp giáo viên trau dồi thêm các kỹ năng để điều khiển
tốt một giờ dạy học, hướng học sinh theo mục đích để đạt yêu cầu bài học.
Tùy theo đơn vị kiến thức bài, giáo viên có thể lựa chọn các giải pháp đó
cho phù hợp với nội dung, thời gian của tiết học.
3. Phạm vi, giới hạn của đề tài, sáng kiến, giải pháp:
Tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài này từ tháng 9 năm 2016 đến nay. Và tôi áp
dụng đối với học sinh trong đơn vị tôi trực tiếp giảng dạy.

4


II. PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng:
Có thể nói, trong những năm gần đây việc thực hiện đổi mới căn bản toàn
diện giáo dục đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi ở các Trường trung học cơ sở.
Đại đa số giáo viên có tâm huyết với nghề nghiệp, có đam mê đã tích cực vận dụng
các phương pháp dạy học mới khá tốt, nên đã khêu gợi được tính tự lực của học
sinh, phát huy tốt vai trò của người học. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có một số
nguyên nhân cả về phía giáo viên, cả về phía học sinh, cả về phía cơ sở vật chất
lẫn cả về phía phụ huynh học sinh dẫn đến chất lượng dạy-học môn Lịch sử vẫn
còn nhiều băn khoăn, lo lắng. Sau đây là thực trạng ở đơn vị tôi công tác:
* Về phía giáo viên
Việc thay đổi chương trình lẫn phương pháp giảng dạy mới khiến nhiều giáo
viên thực sự lúng túng. Trong một tiết dạy, nhiều giáo viên thiếu vận dụng linh
hoạt, chỉ sử dụng một phương pháp, nhiều giáo viên chỉ nghiêng về nói lại nội
dung SGK làm cho tiết học đơn điệu, giờ học diễn ra rất nhàm chán, học sinh
không thể phát huy được tính tích cực học tập của mình.Thậm chí chỉ vì lo hoàn
thành khối lượng kiến thức mà nhiều giáo viên đã không chú trọng đến đối tượng
học sinh yếu (nếu không muốn nói là bỏ qua).


Một số giáo viên hầu như có

tiết không sử dụng thiết bị dạy học, không cho học sinh khai thác các kênh hình, tư
liệu trong SGK.Một số giáo viên chưa có sự đầu tư cho tiết dạy, chưa sử dụng công
nghệ thông tin vào dạy học.Nếu có sử dụng công nghệ thông tin, thì giáo viên trình
chiếu tất cả các kiến thức dẫn đến học sinh thụ động trong việc tiếp nhận tri
thức.Từ đó nảy sinh tâm lý chán họcmôn Lịch sử.Đây là một trong những nguyên
nhân dẫn đến chất lượng dạy- học Lịch sử còn thấp so với các môn khác.
Sau đây là bảng khảo sát việc giáo viên ngại áp dụng phương pháp mới, lo dạy
xong kiến thức, chỉ chú ý đối tượng học sinh Khá, Giỏi, bỏ qua đối tượng học sinh
Yếu để chứng minh cho những điều tôi phân tích ở trên:

5


BẢNG KHẢO SÁT MINH CHỨNG VIỆC GIÁO VIÊN NGẠI ÁP DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MỚI TRONG MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG
THCS
N.dung Sử dụng PPDH/tiết
1
2
3
GV
GV 1

x

GV 2
GV 3


-

4

Khi dạy GV chú ý đến
HSG HSKhá HS
nghịch
x

-

-

-

X

x

x

-

x

X

x


-

-

-

X

x

K.thứ

T.gian

c
x

x

x
x

x

x

(Trong đó x có sử dụng, - không sử dụng)
* Về phía học sinh
Đã qua nhiều năm thực hiện đổi mới, nhìn chung đại đa số học sinh đã tiếp
cận được với nội dung, kiến thức, chương trình và phương pháp dạy học mới, song

quá trình tiếp thu của học sinh chưa đồng đều, chưa linh hoạt trong quá trình hoạt
động của mình, việc tiếp cận với phương pháp dạy học mới và thiết bị dạy học mới
đối với một số học sinh còn khó khăn do đó kết quả tiếp thu của học sinh chưa đạt
kết quả cao.
Bên cạnh đó. nhiều học sinh coi môn Lịch sử là “môn phụ” vì vậy các em ít
chú ý nghe giảng; các em ghi chép một cách máy móc những gì giáo viên ghi trên
bảng và chỉ học thuộc lòng những gì ghi trong vở thậm chí là không học bài chứ
chưa nói đến việc kết hợp với SGK để giải quyết các câu hỏi trong sách. Từ đó lại
càng không biết phát hiện những vấn đề cần được giải quyết. Từ chỗ lười suy nghĩ,
không biết phân tích vấn đề, nên càng không biết nêu vấn đề để thảo luận bàn bạc
dẫn đến việc chán chê, bỏ bê. Và đây là nguyên nhân thứ hai trong nhiều nguyên
nhân dẫn đến chất lượng môn Lịch sử thấp trong thời gian qua mà các phương tiện
thông tin đại chúng luôn đề cập.
6


Sau đây là bảng khảo sát về thái độ học tập Lịch sử ở trường THCS trong
năm học 2017 - 2018 mà tôi đang trực tiếp giảng dạy:
Khố
i

Sĩ số Rất thích
SL

6
7
8
9

%


Thích
SL

Không thích Hứng thú
%

40
5
12,5 11
27,5
38
4
10,5 12
31,6
42
3
7,1
12
28,6
30
3
10
10
33,3
* Về cơ sở vật chất phục vụ dạy học:

SL

%


SL

%

20
18
25
15

50
47,4
59,5
50

4
4
2
2

10
10,5
4,8
6,7

Trong những năm gần đây, do yêu cầu của đổi mới sự nghiệp giáo dục,
CSVC của nhà trường được tăng trưởng mạnh. Song ở một số trường phương tiện
dạy học chưa đầy đủ, cơ sở vật chất chưa đảm bảo, phòng học bộ môn Lịch sử
chưa có, các bản đồ, tranh ảnh, băng hình chưa đầy đủ. Ở một số bài dạy, một số
nội dung cần thiết đến sơ đồ, lược đồ nhưng sách giáo khoa và sách giáo viên

không thể hiện rõ và không đưa ra định hướng chung để thực hiện nên dễ gây ra sự
tuỳ ý trong một số nội dung khi thực hiện. Việc học sinh quá đông trong một lớp
học cũng dẫn đến khó khăn trong việc phân chia nhóm cũng ảnh hưởng đến rất lớn
trong quá trình dạy học.
* Về phía phụ huynh học sinh:
Do tâm lý sợ con mình học vất vả (vì phải học thuộc lòng nhiều), lại sợ khó
xin việc trong tương lai nên nhiều phụ huynh không cho con mình theo ngành sử.
Thậm chí khi đã học sử xong xin được việc song lương của các công việc có liên
quan đến ngành sử cũng thấp nên tâm lý lo lắng luôn thường trực trong mỗi một
phụ huynh khi con em mình học sử nói chung, các môn xã hội nói riêng. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc học sinh thiếu chăm lo học tập, bỏ
bê môn Lịch sử. Tôi cũng đã tiến hành điều tra ý kiến của phụ huynh học sinh đối
với môn Lịch sử và nhận được kết quả như sau:
BẢNG THỐNG KÊ Ý KIẾN CỦA PHỤ HUYNH VỀ MÔN LỊCH SỬ:

7


Tổng
Lịch sử khó Chỉ là môn Ra trường Thích các Thích
số phụ thuộc,
dài phụ
khó
xin môn KHTN môn Lịch
huynh dòng
việc
sử vì biết
cội nguồn
dân tộc,
tổ tiên

SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL %
137

25

18,2

25

18,2

60

43,
8

22

16,1

5


3,7

Tóm lại, từ tháng 9 năm 2016 cho đến nay qua giảng dạy, phân tích, điều tra
tôi đã nhận thấy chất lượng dạy học môn Lịch sử còn thấp là do nhiều nguyên
nhân, trong đó tôi chú ý đến các nguyên nhân đã phân tích trên
Sau đây là kết quả khảo sát chất lượng môn Lịch sử so với một số môn
khác:
- Kết quả học tập bộ môn qua thống kê của một số môn cuối năm học 2016-2017 ở
đơn vị tôi công tác:
Môn
Toán
T.Anh
Ngữ văn
Lịch sử

Kết quả
Giỏi
SL
%

Khá
SL

20
25
25
10

42
45

41
38

14,6
18,2
18,2
7,3

%

TB
SL

30,7
32,8
29,9
27,7

65
55
59
75

%

Yếu
SL

%


47,4
40,1
43,1
54,7

10
12
12
14

7,3
8,8
8,8
10,3

- Kết quả bài kiểm tra số 1 qua thống kê của một số môn đầu năm học 2017-2018
ở đơn vị tôi công tác:
Kết quả
Giỏi
SL
%

Khá
SL

Toán
T.Anh

22
27


15
18,4

Ngữ văn

27

18,4

Môn

%

TB
SL

Yếu
SL

%

50
50

34,0
34,0

65
58


44,2 10
39,45 12

6,8
8,2

52

35,4

59

40,1

6,8

10

%

8


Lịch sử

15

10,2


42

28,6

75

51,0

15

10,

2
Qua số liệu khảo sát trên, tôi nhận thấy: đúng như tình trạng đã điều tra,

phân tích, học sinh nắm kiến thức lịch sử không chắc chắn, có nhiều điểm yếu, tỉ lệ
điểm yếu kém cao, kĩ năng vận dụng kiến thức để làm bài tập lịch sử của nhiều em
còn yếu, có quá nhiều chỗ hỏng về kiến thức ….Chất lượng học lịch sử thấp hơn
các môn khác về số lượng Giỏi, Khá cũng như Trung bình, Yếu.
Để khắc phục tình trạng này, trong mỗi tiết lên lớp, tôi cố gắng tìm tòi
những giải pháp thích hợp để cuốn hút các em vào bài giảng, huy động suy nghĩ,
trí tuệ của các em khi tìm hiểu sự kiện, đánh giá, nhận xét, phân tích, tổng hợp sự
kiện lịch sử trong bài dạy. Sau đây là các giải pháp mà tôi đã thực hiện.

2. Giải pháp:
Cũng như các môn học khác, môn học Lịch sử cung cấp cho học sinh những
kiến thức cơ sở, nên đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng
kiến thức đã học vào cuộc sống. Cho nên, việc học tập các môn nói chung, Lịch sử
nói riêng đòi hỏi phải phát huy khả năng tư duy, thông minh, sáng tạo của cả thầy
lẫn của cả trò. Để làm được việc đó cần phải kết hợp nhiều yếu tố trong một quá

trình dạy học từ khâu thiết kế bài soạn, tổ chức hoạt động cho học sinh, sử dụng
thiết bị đến cả việc kiểm tra đánh giá.
9


Giải pháp 1:
Xây dựng và thiết kế giáo án khoa học
Xây dựng giáo án là một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của bài
giảng. Những bài giảng có khi là một giáo án chuẩn bị chu đáo, cũng có khi là
những ý tưởng bất ngờ nảy đến. Không cứng nhắc như nhiều giờ học khác, trong
giờ học Lịch sử bạn có thể tổ chức nhiều hoạt động như đóng kịch, chơi trò chơi,
học Lịch sử qua sự kiện, qua tem…. Nhưng điều quan trọng nhất là gì? Là mục
tiêu giảng dạy? Vậy thì một giáo án như thế nào là hiệu quả? Và một giáo án cần
những đặc điểm tiên quyết gì để có thể đạt được mục tiêu giảng dạy?
Dưới đây, tôi xin đưa ra 8 vấn đề cần lưu ý mà tôi đã thực hiện để xây dựng
một giáo án hiệu quả để chúng ta có thể hướng tới mục tiêu cao nhất của mỗi
người giáo viên. Đó là nâng cao hiệu quả giờ dạy đồng thời đánh giá chính xác quá
trình học tập của học sinh. Kể cả khi không cần thiết phải thiết kế giáo án trên giấy
thì 8 bước đó cũng sẽ luôn nhắc nhở chúng ta nhằm đạt hiệu quả tốt nhất trong
công việc giảng dạy hàng ngày.
Vấn đề 1. Mục tiêu bài dạy
Trong mỗi một giờ lên lớp hãy đề ra mục tiêu mà cả lớp phải hoàn thành.
Và dù chúng ta có tiến hành hoạt động nào hay tổ chức trò chơi gì cho giờ học
thêm sôi nổi thì vẫn phải hướng đến mục tiêu của bài giảng.
Ví dụ khi dạy tiết 15, Bài 11, Các nước Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX. Giáo viên cần cho học sinh nắm rõ mục tiêu của bài học:
*Về kiến thức:
- Biết nguyên nhân Đông Nam Á trở thành đối tượng xâm lược của các nước tư
bản Phương Tây.
- Hiểu rõ quá trình xâm lược của các nước tư bản Phương Tây đối với Đông Nam

Á.
- Giải thích được vì sao chỉ có Xiêm ( Thái Lan) thoát khỏi tình trạng thuộc địa.
- Lập bảng thống kê các phong trào đấu tranh tiêu biểu của nhân dân Đông Nam Á
cuối thế XIX – đầu thế kỷ XX.
10


*Về kỹ năng:
+ Rèn luyện kỹ năng khai thác lược đồ, phân tích, đánh giá sự kiện.
*Về thái độ:
- Có tinh thần đoàn kết, hữu nghị, ủng hộ các cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và
tiến bộ của nhân dân các nước toàn khu vực.
Vấn đề 2. Dẫn dắt.
Trước khi đi sâu vào nội dung của bài, nên có một vài lời dẫn dắt bằng cách
liên hệ giữa các kiến thức cũ và mới hoặc tạo ra một lý giải hợp lý cho việc thực
hiện mục tiêu bài giảng ngày hôm đó. Việc đó khiến học sinh thích thú, tập trung
vào vấn đề cần đạt hơn hẳn.
Ví dụ: Giáo viên có thể tạo hứng thú cho học sinh bằng một trò chơi trên
lược đồ.
GV treo bản đồ Đông Nam Á nhưng đã che khuất các nước trong khu vực
Đông Nam Á. GV yêu cầu học sinh đoán xem trong mỗi mảnh ghép từ ô số 1 đến
ô số 11 là nước nào? Sau đó học sinh đưa ra một câu hỏi có vấn đề: Hầu hết các
nước ở châu Á, cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX đều bị các nước phương Tây
xâm lược đó là Ấn Độ, Trung Quốc. Vậy theo các em, khu vực Đông Nam Á có
phải là đối tượng tiếp theo mà các nước tư bản phương Tây đang tiếp tục xâm lấn?

Vấn đề 3. Hướng dẫn trực tiếp.
Khi thiết kế giáo án, chúng ta hãy đưa ra một cách cụ thể và chi tiết để làm
sao truyền tải được các khái niệm của bài học hôm ấy với các học sinh. Có rất
nhiều cách khác nhau và chúng ta có thể thay đổi theo từng đề tài.

Ví dụ: Ở bài 11 này, học sinh phải nắm được khái niệm thế nào là nửa thuộc
địa, nữa phong kiến. GV cho học sinh suy nghĩ, sau đó gọi cá nhân học sinh trả lời.
GV gợi ý và chốt lại đầy đủ về khái niệm: Những nước bị các nước đế quốc chủ
nghĩa cai trị, bóc lột. Về thực chất đó là một nước thuộc địa, nhưng vẫn được duy
11


trì chế độ phong kiến bằng cách nuôi dưỡng, sử dụng bọn tay sai phong kiến bản
địa để tăng cường thống trị, đàn áp nhân dân.
Vấn đề 4. Luyện tập theo hướng dẫn.
Chuẩn bị các bài luyện tập các kiến thức mới vừa học để củng cố kiến thức
cho học sinh đồng thời áp dụng các kỹ năng mà chúng ta vừa truyền đạt thông qua
các chỉ dẫn trực tiếp. Tất nhiên là chúng luôn phải có một sự theo dõi sát sao quá
trình làm việc của học sinh trong lớp mình.
Ví dụ: Giáo viên có thể củng cố bài học bằng cách cho học sinh chơi trò
chơi giải đáp ô chữ.
Vấn đề 5. Kết thúc.
Kết thúc bài học cũng là khởi đầu cho những kiến thức tiếp theo. Vậy sẽ rất
hữu ích nếu chúng ta có thể đặt ra những câu hỏi đầy tính gợi mở để khuyến khích
sự tự nghiên cứu thêm của học sinh cũng như sự chuẩn bị của họ cho bài học tiếp
theo.
Ví dụ: Khi kết thúc bài học, giáo viên có thể cho học sinh khái quát lại nội
dung bài học. Giáo viên có thể đưa ra một câu hỏi để học sinh chuẩn bị cho bài học
tiếp theo: Ngoài Xiêm, thì có một nước ở châu Á, không bị sự thôn tính của các
nước phương Tây. Đó là Nhật Bản. Em hãy tìm những nguyên nhân để cho thấy
Nhật Bản không bị các nước phương Tây xâm lấn?
Vấn đề 6. Tự luyện.
Khi hoàn thành các bài tập về nhà hoặc các bài luận cá nhân, học sinh có thể
thể hiện mức độ tiếp thu những kiến thức đã học. Thông qua việc trả bài, chúng ta
sẽ xác định được rằng mình đã thực hiện được mục tiêu giảng dạy hay chưa.

Ví dụ: GV có thể cho học sinh thảo luận nhóm, vẽ sơ đồ tư duy bài học.
Ví dụ:
Vấn đề 7 Tài liệu và thiết bị cần thiết.

12


Hãy chuẩn bị những nguồn tài liệu cần thiết giúp chúng ta giảng bài hiệu
quả. Và nếu có thể, chúng ta nên giới thiệu cho học sinh tài liệu tham khảo cho
từng mục kiến thức khác nhau để học sinh tự tìm tòi.
Ví dụ: Trước khi học mỗi bài, giáo viên có thể cho học sinh sưu tầm các tài
liệu về khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn này. Cho học sinh tìm đọc Lịch sử
thế giới cận đại của Nguyễn Văn Minh, Vũ Dương Hồng, NXB Giáo dục. Giáo
viên có thể cho học sinh tự vẽ bản đồ các nước Đông Nam Á.
Vấn đề 8 Đánh giá.
Bài học chỉ có thể coi là đã được hoàn thành khi bạn thành công trong việc
đánh giá quá trình học của học sinh trong từng tiết dạy. Phần đánh giá này là một
trong những phần quan trọng nhất, là tiền đề để chúng ta đặt ra những mục tiêu
mới trong giờ học tiếp theo.Ví dụ: Giáo viên có thể cho học sinh làm một bài khảo
sát theo dạng trắc nghiệm và tự luận về các vấn đề đã học. Các câu hỏi có thể ra
theo mức độ từ dễ đến khó, phân hóa đối tượng học sinh
Giáo viên có thể cho học sinh lược đồ Đông Nam Á trống. Yêu cầu các
nhóm học sinh lên điền tên các nước chiếm đóng và khu vực chiếm đóng.
Tóm lại, trong suốt quá trình giảng dạy, giáo án sẽ luôn là một cuốn cẩm
nang tin cậy mỗi khi chúng ta đứng trước lớp. Như vậy, một giáo án phải có một
mục đích rõ ràng, lôi cuốn được sự tham gia tích cực của học sinh, có thể áp dụng
với nhiều phương pháp học khác nhau và đưa học sinh đến những chân trời kiến
thức mới. Với việc chú ý 8 bước trên, tôi tin rằng, chúng sẽ thành công trong việc
xây dựng một giáo án thực sự hiệu quả.
Giải pháp 2:

Tổ chức linh hoạt hoạt động nhóm
Việc khuyến khích học sinh hợp tác với các thành viên khác trong lớp góp
phần tạo lập nên cộng đồng, gia tăng sự đoàn kết và khiến việc học trở nên tích
cực hơn. Tuy nhiên, quyết định xem có nên cho hoạt động nhóm hay không và tổ
chức như thế nào, việc đó có thể làm bạn cảm thấy mệt mỏi.

13


Bởi vì làm việc nhóm có thể là một thách thức và phức tạp, nhiều giáo viên
hoặc là tránh không cho hoạt động nhóm hoặc giữ học sinh ở những nhóm cố định.
Duy trì các “nhóm cố định” trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Họ không có sự
điều chỉnh thường xuyên tùy theo mục đích của bài tập và hồ sơ đánh giá học sinh.
Điều này có thể tước đi cơ hội cho học sinh được học hỏi và phát triển các mối
quan hệ với tất cả các bạn trong lớp.Ngược lại, nhóm linh hoạt, sắp xếp học sinh
một cách có chủ ý và thay đổi thường xuyên tùy theo các trải nghiệm học tập trong
một khoảng thời gian tương đối ngắn (ví dụ: một hoặc hai tuần). Hoạt động nhóm
kết nối với nhiệm vụ học tập và dựa trên kết quả đánh giá lớp học cũng như các
đặc điểm khác của học sinh.
Qua quá trình tổ chức hoạt động nhóm linh hoạt tôi nhận thấy có ba lợi thế so
với hoạt động nhóm cố định, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Hoạt động nhóm linh hoạt kết nối các học sinh với nhau: Bất cứ khi
nào học sinh hoạt động trong một nhóm nhỏ, họ tách biệt với phần còn lại của lớp.
Với nhóm linh hoạt, sự tách biệt là tạm thời. Sau một khóa học kéo dài nhiều ngày,
nhiều tuần, nhiều tháng, học sinh cộng tác với nhiều người khác theo những cách
mới mà không phải thực hiện những buổi hoạt động cả nhóm, cá nhân hoặc tương
tác trong một nhóm nhỏ cố định. Hoạt động nhóm linh hoạt củng cố tình cảm trong
lớp học.
Thứ hai: Hoạt động nhóm linh hoạt đưa học sinh đến với những quan điểm
mới và khác biệt: Cũng như người lớn, trẻ em ở mọi lứa tuổi bị lôi cuốn bởi

những người giống họ – người chia sẻ quan điểm với họ, có cùng trải nghiệm, sở
thích và dường như cùng có sự đánh giá cao với một số thứ. Nhu cầu kết bạn là
chuyện bình thường và rất có ích. Tuy nhiên, học sinh có thể rất thoải mái hoặc có
xích mích với cùng những thành viên trong nhóm ở trong hoặc ngoài không gian
lớp học. Nhóm linh hoạt tách học sinh ra khỏi vùng thoải mái và buộc họ làm việc
chung với những người mà họ không thể từ chối để trải nghiệm những mối quan
hệ mới.

14


Thứ ba: Nhóm linh hoạt chống lại sự khác biệt: Khi tiến hành hoạt động nhóm
linh hoạt giáo viên đã gửi thông điệp mạnh mẽ đến học sinh về vai trò của giáo
viên đối với lớp học. Khi được sắp nhóm, hầu hết học sinh sẽ đặt ra các câu hỏi: Ai
cùng nhóm với mình? Chúng tôi sẽ làm gì? Họ sẽ làm gì?… Học sinh đang tiến
hành một dạng thức kiểm tra “độ cứng của giáo viên” cũng như niềm tin của giáo
viên đối với năng lực học tập của học sinh. Nhóm linh hoạt làm đã thử thách người
học ở chỗ họ bị sắp xếp làm việc với người khác theo những mục đích của giáo
viên. Các nhóm đôi khi được chia dựa trên độ sẵn sàng của học sinh hoặc cấp độ kĩ
năng nhưng các thành viên trong nhóm kết nối với nhau dựa trên mối quan tâm, sở
thích học tập, trải nghiệm,…Từ những yếu tố trên, chúng ta phải xây dựng kế
hoạch tổ chức nhóm linh hoạt. Để giải quyết tốt vấn đề này, giáo viên phải trả lời
được các câu hỏi sau: Học sinh có nên ở trong nhóm lớn hay là làm việc theo cặp?
Cho tự đọc hay đọc theo nhóm ba? Nhóm bốn người quá to hay quá nhỏ cho trò
ghép hình? Học sinh có thể tự chọn nhóm không, hay là giáo viên nên chọn?
Có phải cấp độ kĩ năng ảnh hưởng phần lớn đến các bài tập nhóm, hay là sở thích?
Trong dạy học, để xây dựng kế hoạch hoạt động nhóm linh hoạt, tùy theo từng bài
học, giáo viên có thể chia các nhóm:
Nhóm nhỏ ( 2 học sinh): thường dùng khi cần học sinh trao đổi những vấn đề cụ
thể, đơn giản, thời gian ngắn.

Nhóm đôi: Dùng để nghiên cứu, trao đổi vấn đề phức tạp đòi hỏi sự cộng tác cao.
Nhóm 4 – 6 học sinh: Dùng khi trao đổi ý kiến hoặc thực hiện công việc cụ thể đòi
hỏi sự nổ lực chung của cả nhóm.
Để hoạt động nhóm tốt, giáo viên có thể ghi trên bảng theo dõi quá trình của
nhóm.
Giải pháp 3:
Tăng cường khai thác thiết bị dạy học hiệu quả
Đổi mới PPDH đang là một vấn đề vô cùng quan trọng trong việc quyết
định dến chất lượng giáo dục. Muốn vậy cần phải nâng cao, cải tiến đồng bộ các
thành tố liên quan, trong đó phương tiện dạy và học là một thành tố quan trọng.
15


Trong quá trình dạy học, các PTDH giảm nhẹ công việc của giáo viên và
giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi. Có được các phương tiện
thích hợp, người giáo viên sẽ phát huy hết năng lực sáng tạo của mình trong công
tác giảng dạy, làm cho hoạt động nhận thức của học sinh trở nên nhẹ nhàng và hấp
dẫn hơn, tạo ra cho học sinh những tình cảm tốt đẹp với môn học.
Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến thức mới của học
sinh tăng dần theo các cấp độ của tri giác: nghe - thấy - làm được (những gì nghe
được không bằng những gì nhìn thấy và những gì nhìn thấy thì không bằng những
gì tự tay làm), nên khi đưa những phương tiện vào quá trình dạy học, giáo viên có
điều kiện để nâng cao tính tích cực, độc lập của học sinh và từ đó nâng cao hiệu
quả của quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và hình thành kỹ năng, kỹ xảo của các
em. Có rất nhiều loại phương tiện dạy học với các hình thức và chức năng khác
nhau, trong đó có: phương tiện tạo hình ảnh (bảng đen, bảng trắng, tranh ảnh, bảng
biểu,...), những phương tiện khuếch đại hình ảnh (máy chiếu), phương tiện
thu/phát khuếch đại âm thanh (máy quay, máy ghi âm, ...)
Vì vậy người giáo viên khi sử dụng phương tiện dạy học phải bảo đảm các
nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học. Phương tiện dạy học có tác dụng làm

tăng hiệu quả của quá trình nhận thức của học sinh, giúp cho học sinh thu nhận
được kiến thức về đối tượng thực tiễn khách quan. Tuy vậy, nếu không sử dụng
phương tiện dạy học một cách hợp lý thì hiệu quả sư phạm của phương tiện dạy
học không những không tăng lên mà còn làm cho học sinh khó hiểu, rối loạn, căng
thẳng...
Theo ý kiến của bản thân tôi thì mỗi giáo viên nên khai thác thiết bị dạy học
theo hướng sau đây:
- Khai thác máy tính, máy chiếu và các phần mềm dạy học cho công tác soạn,
giảng. Trong quá trình trình bày bài giảng, tùy theo từng nội dung bài học cụ thể
mà ứng dụng công nghệ thông tin với những mức độ và hình thức khác nhau.

16


- Xây dựng giáo án điện tử, bài giảng Elearning, sự tích hợp các công nghệ phần
mềm dạy. Bài giảng có thể lưu trữ trên các ổ đĩa hoặc trên một kho tài nguyên học
tập trên mạng, người học có thể sử dụng học tập bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu.
- Khai thác tối đa tài nguyên dạy học trên mạng Internet
- Khai thác ứng dụng của các phần mềm mô phỏng trong giảng dạy làm cho quá
trình truyền thụ kiến thức được thuận tiện hơn. Cần biết vận dụng và khai thác các
phần mềm dạy học phổ biến.
Tuy nhiên cần chú ý những điểm sau đây:
- Trước hết giáo viên phải nhận thức đúng và đầy đủ vai trò của việc sử dụng thiết
bị vào đổi mới phương pháp giảng dạy. Giáo viên cần mạnh dạn, không ngại khó,
tự thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử của mình sẽ giúp rèn luyện được nhiều kỹ
năng và phối hợp tốt các phương pháp dạy học tích cực khác.
- Không lạm dụng công nghệ thông tin nếu chúng không tác động tích cực đến quá
trình dạy học và sự phát triển của học sinh.
- Ứng dụng CNTT trong dạy học không phải là một phương pháp mới mà chỉ là sự
hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học bằng các công cụ, phương tiện. Cần tránh

việc chuyển từ đọc - chép sang nhìn – chép.
- Cần có cách tổ chức lớp học khoa học hợp lý để huy động mọi học sinh đều tham
gia vào việc học. Tránh tình trạng chỉ một vài học sinh thực hiện còn các học sinh
khác thì không tập trung chú ý.
- Đối với bản đồ, lược đồ: đó là nguồn kiến thức quan trọng và được coi như cuốn
sách lịch sử thứ hai của học sinh. Tổ chức cho học sinh làm việc với bản đồ theo
các bước sau:
+ Cho học sinh quan sát bản đồ về nội dung và các ký hiệu của bản đồ.
+ Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề gợi ý học sinh tìm hiểu nội dung bản đồ.
+ Học sinh trả lời câu hỏi bằng việc trình bày kết quả tìm hiểu nội dung bản
đồ đó.
+ Giáo viên nhận xét, bổ sung, hoàn chỉnh nội dung cần cung cấp cho học
sinh.
17


Ví dụ: Hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ lược đồ “Hành trình cứu nước
của Hồ Chí Minh” - Lịch sử 9 bài 16 “Hoạt động của NAQ ở nước ngoài trong
những năm 1919-1925.
- Cho học sinh quan sát ở lược đồ để thấy được hoạt động của NAQ ở nước ngoài
qua 3 giai đoạn theo hướng đi bằng các màu sắc thể hiện khác nhau.
+ Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917-1923)
+ Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1923-1924)
+ Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc (1924-1925)
- Đối với tranh ảnh: Để việc khai thác tranh ảnh có hiệu quả, phát huy được tính
tích cực của học sinh cần thực hiện các yêu cầu sau:
+ Cho học sinh khai thác tranh ảnh để xác định nội dung cần khai thác.
+ Giáo viên nêu câu hỏi nêu vấn đề, tổ chức học sinh tìm hiểu nội dung tranh
ảnh.
+ Học sinh trình bày kết quả sau khi đã quan sát, tìm hiểu.

+ Giáo viên nhận xét, bổ sung, hoàn thiện nội dung khai thác tranh ảnh.
Ví dụ: Khai thác tranh Nguyễn Ái Quốc ở đại hội Tua.
+ Cho học sinh quan sát để xác định đây là bức tranh mà Nguyễn Ái Quốc tham
dự đại hội Tua.
+ Trong đại hội Tua người có những quyết định gì.
+ Giáo viên nêu các nội dung trong đại hội Tua.

Giải pháp 4:
Tổ chức hướng dẫn học sinh làm việc với các sử liệu có trong SGK và trình
bày lại (rèn kỹ năng nghiên cứu tài liệu).

18


Qua kết quả nghiên cứu thực tiễn tại cơ sở, tôi xin đưa ra các biện pháp rèn
kĩ năng tự nghiên cứu tài liệu bằng cách tổ chức cho học sinh làm báo cáo hay bài
tập về chuyên đề. Bởi vì, theo tôi để viết được một báo cáo hoặc hoàn thành tốt
bài tập theo chuyên đề tốt, buộc học sinh phải có kĩ năng khai thác và xử lí thông
tin từ các nguồn tài liệu khác nhau. Ngược lại, viết báo cáo hay thực hiện bài tập
chuyên đề là để các em luyện tập, khai thác tối đa khả năng nghiên cứu của bản
thân. Trên cơ sở đó mà kĩ năng tự nghiên cứu tài liệu cũng sẽ được củng cố, hoàn
thiện, nâng cao và dần trở thành năng lực, phẩm chất nhân cách của các em, thứ
mà các em cần trong suốt cuộc đời.
Từ điều tra thực tiễn, nhận thấy kĩ năng tự học, tự nghiên cứu tài liệu của
học sinh còn ở mức trung bình và kém, từ đo tôi đã xây dựng quy trình rèn kĩ năng
tự nghiên cứu tài liệu bằng cách tổ chức cho hoch sinh thực hiện làm báo cáo hay
bài tập chuyên đề thành hai giai đoạn.
Giai đoạn 1 là rèn kĩ năng tự nghiên cứu tài liệu trang bị cho người học những kĩ
năng tự nghiên cứu tài liệu cơ bản.
Giai đoạn 2 là tổ chức học sinh làm báo cáo hay bài tập chuyên đề.

Thực chất, ở giai đoạn 1, việc tổ chức rèn học sinh các kĩ năng tự nghiên
cứu tài liệu, sử dụng các câu hỏi ngắn. Những kỹ năng cần rèn ở giai đoạn này cụ
thể như sau:
Kĩ năng xác định vấn đề cần nghiên cứu
Kĩ năng này đóng vai trò quan trọng, định hướng toàn bộ mọi hoạt động của
học sinh. Với học sinh, việc vấn đề cần nghiên cứu thường do giáo viên giao cho
hoặc các em tự xác định được thông qua các câu hỏi, các bài tập và tình huống có
vấn đề mà giáo viên đưa ra. Các em cũng có thể độc lập xác định được vấn đề cần
nghiên cứu trong quá trình tự học mà không cần sự định hướng hay gợi ý của giáo
viên.
Để rèn kĩ năng xác định vấn đề nghiên cứu cho học sinh, trong quá trình dạy
tôi giao cho các em các câu hỏi, bài tập dựa trên các tình huống có vấn đề rồi
hướng dẫn các em cách xác định các yêu cầu của câu hỏi, bài tập (phân tích đề).
19


Giáo viên cũng có thể lựa chọn cùng một nội dung phù hợp, đặt các câu hỏi khai
thác vấn đề theo các hướng khác nhau, yêu cầu học sinh trả lời. Qua quá trình phân
tích các câu hỏi này học sinh sẽ xác định được với cùng một vấn đề, với những
cách hỏi khác nhau , thậm chí chỉ một vài từ thì nội dung câu trả lời sẽ khác. Việc
làm này sẽ góp phần đắc lực trong quá trình rèn kĩ năng xác định vấn đề cần
nghiên cứu của học sinh. Kĩ năng rất cần cho các em trong quá trình học, thi cử,
cuộc sống nói chung và hoàn thành bài học nói riêng.
Kĩ năng lựa chọn tài liệu
Trước và sau khi xác định được vấn đề cần nghiên cứu, học sinh cần biết tìm
nguồn tài liệu phù hợp. Khả năng tìm kiếm tài liệu sẽ góp sức đắc lực cho người
học trong cả quá trình làm bài, làm cho bài của mình có cả chiều sâu và độ rộng.
Nguồn tài liệu phù hợp cũng giúp học sinh kiểm tra lại khâu xác định vấn đề cần
nghiên cứu của mình xem mình xác định vấn đề đã đúng và đủ chưa. Nguồn tài
liệu cơ bản nhất của học sinh là SGK và vở ghi. Tuy nhiên, với học sinh nguồn đó

nhiều khi là chưa đủ, các em cần biết lựa chọn các tài liệu bổ trợ khác. Nguồn tài
liệu bổ trợ hay được dùng nhất ngoài sách tham khảo mà các em có là các sách
tham khảo có trên thư viện.
Vì vậy, các em cần biết cách tra các tên sách từ các mục lục phân loại trên
thư viện. Ngoài ra, các em có thể sử dụng nguồn thông tin từ internet. Để các em
khai thác tốt Internet, giáo viên cần hướng dẫn các em biết cách sử dụng các công
cụ tìm kiếm, các từ khóa (đôi khi phải dùng các từ khóa tiếng Anh thì các em cần
biết các sử dụng từ điển Anh Việt hoặc Việt Anh, sử dụng các công cụ dịch một
cách hợp lí).
Trong nhiều trường hợp, giáo viên có thể đưa ra một số trang web tin cậy làm
nguồn chỉ dẫn tài liệu tham khảo cho học sinh .
Kĩ năng xác định mục đích đọc tài liệu
Khi đọc một tài liệu nào đó, người đọc cần xác định mục đích đọc của mình.
Đầu tiên cần xác định thông tin mình cần có trong toàn bộ tài liệu đó hay không
hay chỉ là một đoạn nhỏ. Muốn vậy cần có thói quen đọc phần mở đầu và đọc qua
20


mục lục, nếu không có mục lục cần đọc lướt qua các ý chính. Sau khi tìm được nội
dung cần đọc, hãy đọc kĩ, vừa đọc vừa nghiền ngẫm để có thể hiểu sâu sắc.
Kĩ năng ghi chép thông tin
Học sinh khi đọc tài liệu cũng như khi nghe giảng cần phải ghi chép lại để
đỡ tốn thời gian đọc lại cũng như sử dụng thông tin từ tài liệu để giải quyết vấn đề
tốt hơn, ghi nhớ thông tin nhanh và lâu hơn. Trong học tập, kĩ năng ghi chép của
người học đóng vai trò quan trọng, nó thể hiện cách thu nhận, xử lý và định hướng
quá trình ghi nhớ và sử dụng thông tin. Để rèn học sinh kĩ năng này, ngay từ đầu
giáo viên yêu cầu học sinh chuyên sử dụng vở ghi, chia vở thành 4 cột: Một cột
(phía ngoài cùng tay phải) ghi nội dung chính thầy cô giáo dạy trên lớp, cột ngay
bên cạnh ghi các câu hỏi thầy cô hỏi và những hướng dẫn của thầy cô, cột kế bên
ghi nội dung đọc được trong sách giáo khoa tài tài liệu tham khảo, cột cuối cùng

ghi tổng hợp lại những gì đã học và đọc được. Các nội dung ghi trong vở cũng nên
chú thích nguồn để sau này không mất nhiều công đọc lại nữa.
Học sinh được rèn thói quen chủ động nắm bắt và ghi những vấn đề mà giáo
viên giảng, không thụ động ngồi chờ giáo viên đọc cho chép. Do được yêu cầu
chuẩn bị bài trước ở nhà nên chúng tôi kết hợp rèn cho học sinh kĩ năng ghi những
vấn đề cần thiết, những vấn đề chưa rõ,… Để làm được như vậy, tôi hướng dẫn
học sinh trong quá trình đọc trước ở nhà, cần xác định trọng tâm của bài, xác định
nội dung nào mình đã hiểu kĩ, nội dung nào chưa hiểu để tập trung lắng nghe và
ghi bài vào nội dung đó. Giáo viên cũng hướng dẫn học sinh khi đọc tài liệu cần
xác định ý chính, ghi lại một cách ngắn gọn nội dung chính cũng như thành bảng,
sơ đồ, bản đồ khái niệm.
Kĩ năng đặt câu hỏi
Khi đọc tài liệu, bên cạnh việc trả lời các câu hỏi của thầy cô, học sinh cũng
cần luôn tự đặt các câu hỏi tại sao, như thế nào, để làm gì, là cái gì… Các câu hỏi
đó có thể được đặt khi học sinh không hiểu vấn đề mà tài liệu trình bày nhưng
cũng có thể được đặt ra để tranh luận với bạn, với thầy. Cách làm này làm cho vấn
đề được đào sâu hơn do nó được lật đi lật lại nhiều lần theo nhiều hướng khác
21


nhau. Đồng thời, trong quá trình tranh luận, người học được bổ sung thêm kiến
thức từ bạn, kích thích thêm tính ham học của mỗi người. Khi vấn đề khó đi đến
thống nhất có thể hỏi thầy. Để học sinh có được kĩ năng này, vai trò của người thầy
trong quá trình tổ chức dạy học vô cùng quan trọng. Trong quá trình đặt câu hỏi và
trả lời câu hỏi mà mình đặt ra, học sinh cũng tự rèn được cách xác định vấn đề cần
nghiên cứu, kĩ năng đọc và tổng hợp tài liệu.
Kĩ năng diễn đạt lại thông tin đã thu được theo ý hiểu của người học
Thông tin thu được có thể được học sinh ghi lại một cách vắn tắt, lập thành
sơ đồ, bảng biểu,… Các sơ đồ, bảng biểu có thể được sử dụng để giúp người học
ghi nhớ nhưng có thể là để hiểu, để củng cố hoặc mở rộng, nâng cao về một nội

dung cụ thể hoặc để hệ thống hóa kiến thức. Kĩ năng diễn đạt lại thông tin trong
quá trình học theo ý hiểu của người học là một kĩ năng vô cùng quan trọng, nó
giúp người học không chỉ biết mà còn phải hiểu và vận dụng được kiến thức đã
học một cách linh hoạt. Kĩ năng này cũng chỉ được hình thành và hoàn thiện khi
người học được rèn luyện một cách tỉ mỉ trong quá trình học.
Kĩ năng tư duy đa chiều
Đó chính là cách nhìn nhận vấn đề theo nhiều chiều hướng, nhiều mặt khác
nhau, thậm chí là đối lập nhau. Thực tế cho thấy, sách không phải lúc nào cũng
đúng, cũng đủ. Tương tự như vậy, không phải mọi điều thầy nói ra đều đúng và
đều là “khuôn vàng thước ngọc”. Điều đó là tất yếu vì người thầy dù có tài mấy thì
trình độ nhận thức cũng chỉ có hạn. Có những điều thầy nhận thức đúng, nhưng có
điều chưa nhận thức được hoặc nhận thức còn chưa đúng. Thứ nữa, có những điều,
với trình độ nhận thức của nhân loại lúc đó là đúng nhưng chỉ cần một thời gian
ngắn sau, nó là sai hoặc chưa đủ.
Trong quá trình đọc tài liệu để làm bài tập, báo cáo chuyên đề, học sinh rất
dễ gặp nhiều nguồn thông tin khác nhau thậm chí là trái chiều nhau làm cho các
em rất lúng túng. Đặc biệt, khi sử dụng Internet, đương nhiên học sinh sẽ có thể
đọc được những nguồn thông tin không chính xác, nhiều khi là có hại cho các em.

22


Đây cũng là khó khăn mà nhiều học sinh vấp phải khi đọc tài liệu để hoàn thành
bài tập.
Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi quyết định đưa thêm việc rèn
kĩ năng tư duy đa chiều vào quá trình rèn kĩ năng tự nghiên cứu tài liệu. Trong quá
trình rèn kĩ năng này, tôi đã giúp học sinh chỉ ra những chỗ mà tài liệu viết chưa
chính xác hoặc còn thiếu. Đôi chỗ, “giả vờ” nói sai để thử phản ứng của học sinh.
Hoặc đưa ra một tình huống trái ngược với tình huống được học và đặt câu hỏi
“Điều gì xảy ra nếu ….”. Cách làm này kích thích ham muốn tìm tòi của học sinh

rất nhiều vì các em được quyền đưa ra chủ kiến của mình, được giải thích rõ ràng
tại sao ý kiến của mình còn chưa đúng, chưa đủ và được tự hào khi mình “thắng
cô” mình. Đặc biệt, giúp học sinh tăng cường khả năng lập luận, hùng biện trước
đám đông. Ngoài ra, nó cũng có ích cho cuộc sống sau này của học sinh do các em
luôn tư duy về một vấn đề theo nhiều chiều hướng, dự đoán được nhiều tình huống
có thể xảy ra để có thể giải quyết sớm hoặc chí ít là không quá bất ngờ. Nó cũng
kích thích thầy luôn tự đọc, tự tìm tòi để tăng cường chuyên môn nghiệp vụ. Đây
cũng là việc làm vô cùng khó, do thói quen tin tưởng tuyệt đối vào thầy, vào sách
đã ăn sâu vào các em từ lâu. Mặt khác, cũng ít người thầy chấp nhận thua hoặc
“giả vờ thua” học trò vì sợ “mất thiêng”.

Giải pháp 5:
Đa dạng hóa hình thức học tập.
23


Một trong ba đặc trưng của phân môn Lịch sử đã chỉ ra rằng: Lịch sử qua đi
nhưng không hoàn toàn biến mất mà còn để lại “dấu vết ” của nó qua kí ức của
nhân loại như văn học dân gian, phong tục tập quán, lễ hội…, qua các chứng tích
lịch sử, các hiện tượng lịch sử, qua ghi chép của người xưa. Những chứng cứ vật
chất đó chính là cơ sở để trình bày hay nhận thức về lịch sử. Vì vậy, giáo viên cần
phải hết sức quan tâm đến các hình thức tổ chức dạy học lịch sử đa dạng, tạo điều
kiện để học sinh tiếp xúc với các nguồn sử liệu nói trên.
Bản thân tôi đã đa dạng hóa hình thức học tập bằng các nhóm giải pháp như
sau:
- Gắn kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện lịch sử với việc dạy học phân môn Lịch
sử: Trong quá trình trực tiếp giảng dạy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu
về các ngày lễ lớn, các sự kiện lịch sử qua các hoạt động: đọc báo, xem truyền
hình (các hình ảnh tư liệu), đài phát thanh … để giúp các em hiểu rõ, nắm sâu hơn
về các sự kiện và nhân vật lịch sử.

- Gắn việc tham quan dã ngoại với việc tham quan bảo tàng, di tích lịch sử dâng
hoa lên tượng anh hùng để các em cảm nhận được hồn sử. Tổ chức cho học sinh
tham quan dã ngoại các di tích lịch sử - văn hóa, các cảnh đẹp ở địa phương, gặp
gỡ các cá nhân, tập thể trực tiếp tham gia vào những sự kiện lịch sử và hoạt động
xã hội; tham quan các bảo tàng lịch sử để các em được trực tiếp nắm được các sự
kiện, nhân vật lịch sử.
- Hướng dẫn học sinh cách học ở nhà: Việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh rất
quan trọng. Giáo viên cần phải giải thích bài học lịch sử sắp tới để học sinh ở nhà
có thể sưu tầm tài liệu, tranh ảnh liên quan để tham gia thảo luận, các em sẽ thích
thú nếu được hướng dẫn tự sưu tầm tài liệu cho tiết học mới.
- Hình thức học tập cá nhân có thể được tiến hành như sau.
Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức chung cho cả lớp và hướng
dẫn học sinh làm việc.
+ Làm việc cá nhân ( ghi kết quả ra giấy hoặc trả lời vào phiếu học tập)

24


+ Giáo viên chỉ định một vài học sinh báo cáo kết quả, các học sinh khác theo
dõi, góp ý bổ sung.
+ Giáo viên tóm tắt, củng cố và chuẩn xác kiến thức.
- Hình thức học tập theo nhóm.
+ Tuỳ theo số lượng học sinh trong mỗi lớp mà giáo viên chia thành bao nhiêu
nhóm, thông thường mỗi nhóm từ 4-6 học sinh. Các nhóm có thể được duy trì ổn
định trong cả tiết học hoặc thay đổi theo từng hoạt động, từng phần của tiết học.
Các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác nhau.
+ Các bước tiến hành tổ chức học tập theo nhóm có thể làm việc chung cả lớp,
làm việc theo nhóm. Giáo viên nêu vấn đề để xác định nhiệm vụ, trong nhóm cử
nhóm trưởng, thư kí, các thành viên trao đổi bàn luận, ghi kết quả, đại diện nhóm
trình bày, các nhóm khác nhận xét bổ sung.

+ Giáo viên tổng kết, chuẩn xác kiến thức.
Ví dụ 1: Lịch sử 7:
Bài: Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427)
- GV dự kiến tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm ở phần 2: Trận Chi Lăng Xương Giang.
- GV tổ chức cho các em thảo luận theo nhóm nhiều trình độ bằng những câu hỏi
mở đã được dự kiến từ trước.
+ Đến 1427, tương quan lực lượng giữa ta và địch như thế nào?
+ Vì sao nói việc nghĩa quân Lam Sơn chủ trương diệt viện là đúng đắn.
+ Trận Chi Lăng thể hiện nghệ thuật quân sự của nghĩa quân Lam Sơn NTN?
+ Vì sao nghĩa quân Lam Sơn chấp nhận việc Vương Thông xin hoà?
- Thời gian thảo luận: 5 phút
- Thời gian các nhóm trình bày: 2 phút
- GV tổng kết, chốt kiến thức: 2 phút.

Giải pháp 6:
25


×