Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Vấn đề bản thể luận trong Triết học Nho giáo. Đóng góp và hạn chế của học thuyết này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.19 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Nền văn minh cổ đại Trung Quốc là một trong những nền văn minh rộng lớn
và rực rỡ nhất thế giới. Đã có biết bao hệ tư tưởng xuất hiện và tồn tại mãi cho
đến ngày nay. Từ thuyết âm dương ngũ hành, học thuyết của Khổng Tử, Lão
Tử… Tuy nhiên, trong các học thuyết ấy, không ai có thể chối cãi được rằng học
thuyết Nho giáo, kể từ khi xuất hiện từ vài thế kỷ trước Công nguyên cho đến thời
nhà Hán, đã chính thức trở thành hệ tư tưởng độc tôn và luôn giữ vị trí đó cho đến
ngày cuối cùng của chế độ phong kiến. Qua đó có thể khẳng định những giá trị
tích cực đặc biệt và sức sống mạnh mẽ của Nho giáo.
Từ những kiến thức được học, qua tìm hiểu, nghiên cứu lý luận và thực
tiễn, nhóm chúng tôi thực hiện đề tài số 5: “Vấn đề bản thể luận trong Triết học
Nho giáo. Đóng góp và hạn chế của học thuyết này” để hiểu hơn về vấn đề bản
thể luận trong Triết học Nho giáo và những đóng góp, hạn chế của học thuyết này.
NỘI DUNG
1. Khái quát chung về bản thể luận
Bản thể luận với tư cách là bộ phận căn bản nhất của siêu hình học đã ra
đời cùng với siêu hình học và trải qua quá trình phát triển liên tục, gắn bó hữu
cơ với tiến trình lịch sử triết học. Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng
Hy Lạp, nó là sự kết hợp giữa hai từ on (όv) – “cái thực tồn”, cái đang tồn tại
và logos (λόγος) – lời lẽ, học thuyết, tạo thành “học thuyết về tồn tại”. Khái quát
lại bản thể luận là là một bộ môn nghiên cứu các khái niệm về thực tại và bản
chất của sự tồn tại.
Có nhiều quan điểm khác nhau về tồn tại. Pácmênít – nhà triết học Hy lạp
cổ đại, được coi là người đầu tiên đề cập đến khái niệm “tồn tại” khi đồng nhất
tư duy với tồn tại là một. Arixtốt thì coi các phạm trù chính là nội dung của tồn
tại. Xôcrát lại cho rằng tồn tại không phải là giới tự nhiên. Điểm xuất phát của
tồn tại chỉ có trong ý thức, tư duy. Đó là tồn tại – tự ý thức. Với Platôn, từ học
thuyết trọng tâm về ý niệm, ông cũng quy tồn tại là tổng thể những ý niệm về
1



thế giới. Sự tồn tại của các sự vật cảm tính chẳng qua chỉ là bản sao của ý niệm.
Chỉ có ý niệm mới là cái tồn tại đích thực...
Thời trung cổ, các nhà triết học theo quan điểm nhà thờ đã mưu toan lợi
dụng tư tưởng của Arixtốt về siêu hình học để xây dựng học thuyết về tồn tại
nhằm chứng minh về mặt triết học cho các chân lý của tôn giáo. Thời cận đại
người ta bắt đầu hiểu bản thể luận là một bộ phận đặc biệt của siêu hình học, là
học thuyết về cơ cấu siêu cảm giác, phi vật chất của tất cả những gì đang tồn tại.
Đến triết học cổ điển Đức, họ cho rằng bản thể luận là không có nội dung
và lặp lại; đồng thời học đòi hỏi tạo ra một bản thể luận (siêu hình học) mới,
hoàn thiện hơn, thay thế nó bằng triết học tiên nghiệm (Căng) hay bằng hệ thống
chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm (Selinh) hay bằng logic học (Hêghen).
Triết học phương Tây hiện đại thế kỷ XX, phản ứng trước việc phổ biến
những trào lưu duy tâm chủ quan (chủ nghĩa Căng mới; chủ nghĩa thực chứng)
có ý thức xây dựng một cách hiểu mới về Bản thể luận trên cơ sở duy tâm khách
quan như quan niệm về bản thể luận tiên nghiệm của Huxéclơ; bản thể luận phê
phán của Háctman; bản thể luận cơ bản của Heidegger; bản thể luận hiện tượng
học của Sartre.... Trong học thuyết bản thể luận mới, người ta hiểu bản thể luận
là một hệ thống những khái niệm phổ biến về tồn tại mà có thể hiểu được nhờ
một số trực giác siêu cảm tính và siêu lý tính.
2. Bản thể luận trong Nho giáo qua tư tưởng của các nhà Triết gia
2.1. Khổng Tử (551 - 479 TCN)
Nho gia là một trong những trường phái triết học lớn của Trung Quốc thời
Xuân thu - Chiến quốc do Khổng Tử - nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà giáo dục
lớn sáng lập. Tư tưởng triết học của Khổng Tử thể hiện tập trung ở ba nội dung
chính: Quan niệm về trời, quỷ thần, con người; học thuyết về luân lý đạo đức và
tư tưởng về chính trị - xã hội. Trong đó, quan niệm về trời, thiên mệnh, quỷ thần
và con người được coi là cơ sở cho những quan điểm khác trong hệ thống tư
tưởng của Khổng Tử. Ông là người có tư tưởng triết học không nhất quán,

2



nhưng xét cho cùng, những quan điểm của ông thuộc tư tưởng triết học duy tâm
khách quan.
Thứ nhất, về chính trị xã hội, Khổng Tử sống trong thời đại nhà Chu suy
tàn, trật tự xã hội bị đảo lộn. Trước tình hình đó, ông chủ trương lập lại lễ giáo
nhà Chu, lập ra học thuyết, mở trường dạy học và đi khắp nơi để truyền bá tư
tưởng của mình. Để thực hiện điều đó, ông đã xây dụng nên học thuyết về chính
trị xã hội mà cốt lõi là 3 phạm trù nhân – lễ - chính danh.
Thứ hai, về đức nhân, Khổng Tử đưa ra quan niệm về con người và học
thuyết luân lý đạo đức xã hội, mà cụ thể là tư tưởng thương người, nhân đạo đối
với con người. Theo Khổng Tử, con người và vạn vật trong vũ trụ đều là kết quả
của sự bẩm thụ lý- khí của trời đất và sự hội hợp của âm dương mà thành. Xuất
phát từ quan điểm “Thiên nhân tương đồng”, Khổng Tử cho rằng, đạo sống của
con người là biểu hiện của đạo trời. Bản tính của con người, theo Khổng Tử, là
tính tự nhiên trời phú cho con người, sinh ra đã có. Bản tính đó là “con người ta
hết thảy đều giống nhau. Nhưng bởi nhiễm thói quen, nên họ thành ra xa khác
nhau”1. Ngoài ra, Khổng Tử đưa ra các tiêu chuẩn đạo đức cụ thể, đặc biệt là đối
với tầng lớp quân tử bởi theo ông, “nhân” cũng được hiểu là đức hạnh của người
quân tử. Ông cho rằng đối với những người làm chính trị quản lý xã hội muốn
có đức nhân phải có 5 điều: Một là trọng dân, hai là khoan dung độ lượng với
dân, ba là giữ lòng tin với dân, bốn là mẫn cán (tận tụy trong công việc): lo việc
chung, năm là đem lòng nhân ái đối xử với dân. Bên cạnh đó, những phạm trù
phản ánh những đức tính của con người, theo Khổng Tử, không tách rời nhau
mà có liên hệ mật thiết với nhau. Con người muốn thực hiện điều nhân phải có
lễ, thực hiện điều nhân theo lễ là nghĩa, là trung, là hiếu, là kính đễ… Bởi vậy,
trong quan niệm về lễ, Khổng tử cho rằng để đạt được đức nhân, phải chủ
trương dùng lễ để duy trì trật tự xã hội. Lễ trước hết là lễ nghi, cách thờ cúng, tế
lễ; lễ là kỷ cương, trật tự xã hội, là những qui định có tính pháp luật đòi hỏi mọi


1 />
3


người phải chấp hành. Ai làm trái những điều qui định đó là trái với đạo đức.
Như vậy, lễ là biện pháp đạt đến đức nhân.
- Quan niệm về chính danh: quy định rõ danh phận của mỗi người trong
xã hội. Khổng Tử cũng như các nhà Nho có hoài bão về một xã hội kỷ cương.
Khổng Tử cho rằng danh và thực phải thống nhất với nhau. Từ đó ông chia xã
hội thành 5 mối quan hệ gọi là Ngũ Luân: Vua - tôi (quân-thần): vua nhân - tôi
trung, chồng - vợ (phu - phụ): chồng biết điều - vợ biết nghe lẽ phải, cha - con
(phụ - tử): cha hiền - con thảo, anh - em (huynh - đệ): anh tốt - em ngoan, bạn bè
(bằng hữu): chung thủy. Khổng Tử cho rằng nếu mỗi người mỗi đẳng cấp thực
hiện đúng danh phận của mình thì xã hội có chính danh và một xã hội có chính
danh là một xã hội có kỷ cương thì đất nước sẽ thái bình thịnh trị.
Thứ ba, trong quan điểm về thế giới, Khổng Tử có sự giao động gĩưa lập
trường duy vật và lập trường duy tâm. Một mặt, ông cho rằng “tử sinh có mệnh”
(sống chết tại ở trời, không cãi được mệnh trời); người quân tử có ba điều sợ
trong đó sợ nhất là mệnh trời, hai là sợ bậc đại nhân, ba là sợ lời thánh nhân.
Ông cũng tin có quỷ thần và cho rằng quỷ thần là khí thiêng của trời đất tạo
thành. Song mặt khác, Khổng Tử lại không tin có mệnh trời và cho rằng trời là
lực lượng tự nhiên không có ý chí, không can thiệp vào công việc của con
người; quỷ thần không có tác dụng chi phối đời sống con người. Ông phê phán
mê tín sung bái quỷ thần và tin rằng trí thông minh, khôn ngoan của con người
đối lập với mê tín quỷ thần. Một mặt ông tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần,
nhưng mặt khác ông lại nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của hoạt động của con
người trong đời sống: “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ vận hành thay đổi,
trăm vật trong vũ trụ cứ sinh sôi”.
Không thể phủ nhận, trong quan điểm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử
luôn có những mâu thuẫn. Thực chất, nó phản ánh những mâu thuẫn của đời

sống hiện thực. Sự phát triển của xã hội giúp Khổng Tử có những quan điểm
tiến bộ, thoát ly chủ nghĩa thần bí, tôn giáo, đặt vấn đề của con người lên hàng
đầu để giải quyết. Đó là yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự
4


phát, một bước tiến so với quan điểm duy tâm, thần bí, tôn giáo phổ biến thời
Thương, Chu. Nhưng do hiện trạng xã hội và hạn chế của lợi ích giai cấp,
Khổng Tử hoang mang, dao động và quay lại với chủ nghĩa duy tâm, tuyên
truyền cho sức mạnh của Trời, thần thánh hóa quyền lực của giới cầm quyền
trên mặt đất nhằm duy trì trật tự xã hội theo lễ nghĩa nhà Chu.
Tóm lại, mặc dù đứng trên lập trường thế giới quan duy tâm bảo thủ,
những tư tưởng đề cao vai trò đạo đức kỷ cương xã hội, đề cao nguyên tắc giáo
dục đào tạo con người, nhân đạo đối với con người và những quan niệm của
Khổng Tử nhằm xây dựng xã hội thái bình thịnh trị là những yếu tố tiến bộ
không thể phủ nhận.
2.1. Mạnh Tử (327-289 – TCN)
Mạnh Tử, họ Mạnh tên Kha, tự là Tử Dư. Ông là thủ lĩnh môn phái triết
học duy tâm chống lại trào lưu tư tưởng duy vật, được kế thừa và phát triển quan
điểm duy tâm chủ nghĩa trong học thuyết Khổng Tử, xây dựng hệ thống triết học
duy tâm của Nho gia nổi tiếng thời Chiến quốc. Quan điểm triết học của Mạnh
Tử thể hiện ở 3 nội dung sau:
Thứ nhất, trong quan điểm về chính trị xã hội, Mạnh Tử có nhiều tiến bộ
đặc biệt là tư tưởng của ông về dân quyền, tức đề cao vai trò của quần chúng
nhân dân. Ông cho rằng trong một xã hội thì quý nhất là dân rồi mới đến vua,
đến của cải xã tắc “dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi”. Với tinh thần ấy,
Mạnh tử chủ trương xây dựng một chế độ bảo dân, dưỡng dân tức là phải chăm
lo, bảo vệ nhân dân và ông yêu cầu người trị vì đất nước phải quan tâm đến dân,
phải tạo cho dân có nhà cửa, ruộng vường, tài sản bởi vì họ “hàm sản mới hàm
tâm”. Ông là người chủ trương khôi phục chế độ tĩnh điền để cấp đất cho dân.

Ông khuyên các bậc vua chúa tiết kiệm chi tiêu, thu thuế của dân có chừng mực.
Đó là những quan điểm hết sức mới mẽ và tiên bộ của ông khiến ông mạnh dạn
đưa vào đường lối chính trị của trường phái Nho gia hàng loạt vấn đề mới mẽ
toát lên tinh thần nhân bản theo đường lối lấy dân làm gốc.
Thứ hai, về bản chất con người, Mạnh Tử cho rằng bản chất con người
vốn là thiện, tính thiện đó là do thiên phú chứ không phải là do con người lựa
5


chọn. Nếu con người biết giữ gìn thì làm cho tính thiện ngày càng mạnh thêm;
nếu không biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng mai mọt đi thì con người trở
nên nhỏ nhen, ti tiện không khác gì loài cầm thú. Từ đó, Mạnh Tử kết luận: bản
chất con người là thiện nhưng con người hiện thực có thể là ác, đó là do xã hội
rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo lộn. Cho nên, để thiết lập quốc gia thái bình
thịnh trị thì phải trả lại cho con người tính thiện bằng đường lối chính trị lấy
nhân nghĩa làm gốc.
Thứ ba, trong quan điểm về thế giới, Mạnh tử phát triển tư tưởng “thiên
mệnh” của Khổng Tử và đẩy thế giới quan ấy tới đỉnh cao của chủ nghĩa duy
tâm. Ông cho rằng không có việc gì xảy ra mà không do mệnh trời, mình nên
tùy phận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Từ đó, Mạnh Tử đưa ra học
thuyết “Vạn vật đều có đủ ở trong ta, nên chỉ cần tự tĩnh nội tâm là biết được tất
cả”, nghĩa là không phải tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu dưỡng
nội tâm là biết được tất cả. Ông đã chuyển từ quan điểm duy tâm khách quan
sang quan điểm duy tâm chủ quan.
2.2.

Tuân Tử (315-230 TCN)

Tuân Tử tên Huống, tự là Khanh, người nước Triệu. Ông là nhà duy vật
kiệt xuất cổ đại trong cuộc đấu tranh chống tư tưởng thần bí, tôn giáo, duy tâm

cuối thời Chiến quốc. Ông đã tiếp thu có chọn lọc quan điểm duy vật của nhiều
môn phái triết học tiền bối và nâng triết học duy vật cổ đại lên giai đoạn phát
triển tổng hợp cao hơn. Nổi bật trong đó là các tư tưởng của Tuân Tử về thế giới.
Trái với những tư tưởng về “Thiên mệnh” của Khổng, Mạnh, Tuân Tử đã
đưa ra thế giới quan duy vật, vô thần của mình. Ông khẳng định rằng tự nhiên có
ba bộ phận: “Trời có bốn mùa, đất có vạn vật, người có văn trị”. Trong đó, Trời
chỉ là một bộ phận của tự nhiên, bản thân tự nhiên là cơ sở hình thành và biến
hóa của vạn vật. Ông cho rằng mỗi loại sự vật trong giới tự nhiên đều thông qua
sự cạnh tranh giữa cái này với cái kia, tiêu diệt lẫn nhau, “cắt bỏ cái không đúng
loại của nó, để nuôi loại chính”.

6


Theo Tuân Tử, đạo Trời luôn diễn ra theo lẽ tự nhiên nhất định, không
liên quan đến đạo người. Trời không có ý thức gì cả. Sự biến hóa của vạn vật, sự
thay đổi của vũ trụ do đạo Trời chi phối không hề liên quan gì tới sự sáng suốt
hay hôn muội của bọn cầm quyền. Tự nhiên và quy luật biến hóa của nó là
không thể thay đổi theo ý muốn chủ quan của con người.
Từ đó, Tuân Tử khẳng định Trời không thể quyết định được vận mệnh của
con người. Việc trị hay loạn, lành hay dữ là do con người làm ra chứ không phải
tại Trời. Đây là tư tưởng biểu hiện rõ nét tính chất duy vật và vô thần trong triết
học của ông, nó đối lập với quan niệm định mệnh luận đủ mọi màu sắc trong
triết học Trung Quốc đương thời.
Ông cho rằng Trời có việc của Trời, người có việc của người. Người quân
tử, bậc chí nhân là người hiểu đạo Trời, không ỷ lại Trời, không phụ thuộc vào
Trời mà lo làm tốt việc của người. Từ đó, Tuân Tử tiến thêm một bước nữa khi
đề ra học thuyết con người có thể cải tạo được tự nhiên, con người không thể
chờ đợi tự nhiên ban phát một cách bị động, phải vận dụng tài trí khả năng của
mình, dựa vào quy luật tự nhiên mà sáng tạo ra nhiều của cải phục vụ đời sống

con người.
Như vậy, trong quan điểm về thế giới, Tuân Tử là nhà triết học duy vật
triệt để. Ông đã khẳng định tính quy luật phát triển khách quan của tự nhiên và
khắc phục những thiếu sót của các quan điểm mục đích luận và định mệnh luận
của các nhà triết học trước kia. Không những thế, ông đã giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Theo đó, Trời được đồng nhất với
giới tự nhiên, Trời và người có mối quan hệ với nhau nhưng không chi phối
nhau. Ông cũng khẳng định giới tự nhiên có sự vân động phát triển của nó, đó là
thế giới vật chất phân giới tự nhiên thành các dạng vật chất khác nhau. Trong đó,
con người là dạng vật chất cao cấp nhất. Dựa trên quan điểm đó, ông đã phê
phán các học thuyết có tính chất duy tâm, tần bí tôn giáo một cách kiên quyết và
xác đáng.
3. Đóng góp và hạn chế của học thuyết này
7


3.1.

Đóng góp

Trải qua thời kỳ phát triển, Nho giáo đã có những giai đoạn hưng thịnh
cũng như không tránh khỏi những trầm luân, cái khó khăn nhất của Nho giáo là
làm thế nào để tồn tại và phát triển đến ngày nay. Để làm được điều đó thì quan
trọng nhất là tinh thần cứu đời mà Khổng Tử đã nêu lên như là mục đích cao cả,
tạo nên đặc tính thiêng liêng của một nho sĩ. Khổng Tử đã phát triển tư tưởng
của Chu Công Đán, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì
thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo. Mặc dù đứng trên
lập trường thế giới quan duy tâm bảo thủ, bảo vệ trật tự xã hội nhà Chu suy tàn
nhưng triết học Khổng Tử có yếu tố tiến bộ là đề cao vai trò đạo đức kỷ cương
xã hội, đề cao nguyên tắc giáo dục đào tạo con người, trọng người hiền tài, nhân

đạo đối với con người và quan niệm tiến bộ của ông nhằm xây dựng xã hội thái
bình thịnh trị.
Thứ nhất, Nho giáo đã đưa ra những tiêu chuẩn đạo đức nhằm cải tạo con
người, hoàn thiện nhân cách con người. Khổng Tử đã đóng góp cho triết học
Nho giáo thuyết Chính danh và Đức trị. Hai học thuyết này góp phần chỉ ra
nguồn gốc rối ren của xã hội, đề cao lối sống giản dị của người cai trị, xây dựng
lực lượng quân sự hùng mạnh và chiếm được lòng dân là điều thật cần thiết.
Khổng Tử chủ trương cải tạo xã hội bằng đạo đức.
Thứ hai, Mạnh Tử - học trò của Khổng Tử đã đưa ra một vài quan điểm
mới mẻ và tiến bộ trong vấn đề chính trị xã hội. Trong quan điểm về chính trị xã
hội, Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc biệt là tư tưởng về dân quyền, đề cao vai trò
của quần chúng nhân dân. Ông cho rằng trong một xã hội thì quý nhất là dân rồi
mới đến vua, đến của cải xã tắc “dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi”. Ông
là người chủ trương khôi phục chế độ tĩnh điền để cấp đất cho dân. Đây là quan
điểm hết sức mới mẻ và tiến bộ của ông khiến ông mạnh dạn đưa vào đường lối
chính trị của trường phái Nho gia hàng loạt vấn đề mới mẻ toát lên tinh thần
nhân bản theo đường lối lấy dân làm gốc.

8


Thứ ba, Tư tưởng giáo dục và tự giáo dục của Nho giáo là những tư
tưởng nền tảng ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần và hoạt động thực tiễn của
một số đại bộ phận dân tộc. Nho giáo có nhiều yếu tố tiến bộ khi quan niệm rằng
giáo dục là cần thiết cho tất cả mọi người, việc dạy dỗ không phân biệt loại
người (hữu giáo vô loại) nên ai cũng có cơ hội được học tập và giáo dục, đây là
biện pháp để hướng con người tới những phẩm chất cao quý như "nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín". Nho giáo cho rằng, giáo hóa con người là một trong những nhiệm vụ
cơ bản của nhà cầm quyền và cũng là phương tiện hữu hiệu để đưa xã hội từ
loạn lạc thành "thái bình thịnh trị". Trong giai đoạn giáo dục của nước ta từ xưa

đến nay thì học thuyết về “Chính danh”, “Ngũ luân” tư tưởng giáo dục, tự giáo
dục của Khổng Mạnh có giá trị rất lớn. Xã hội ngày nay theo luồng kinh tế thị
trường càng ngày càng phát triển đi cùng đó là việc xuống cấp, mai một về Đạo
đức chính bởi thế mà trong giáo dục rất cần phải khôi phục, phải giáo dục về
“Lễ”. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên kết hợp giữa giáo dục đạo đức và giáo dục
pháp luật. Việc giáo dục đạo đức còn góp phần vào việc thức tỉnh lương tâm,
thức tỉnh bản chất con người, phải sống không những có trách nhiệm với bản
thân mà còn sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội.
Nho giáo đã xây dựng và tạo lập thành công truyền thống học tập và tự
phát huy bản thân qua việc rèn luyện bản thân một tinh thần học tập, ham học
hỏi. Với một xã hội ngày càng phát triển thì điều không thể thiếu đó là lớp trẻ
năng động, sáng tạo và được đào tạo đầy đủ kiến thức cần thiết để áp dụng vào
thực tế.
Bên cạnh đó, Khổng Tử đã khởi xướng thuyết đại đồng và truyền bá sự
bình đẳng về tài sản là nền móng của xã hội ổn định. Ông từng nói: "Thiên hạ sẽ
thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ thiếu chỉ sợ có không đều".
Học trò của Khổng Tử là Mạnh Tử tiếp tục tư tưởng này và đề ra một kế hoạch
chi tiết để tổ chức sản xuất và tiêu thụ, bảo vệ sự phát triển lành mạnh của trẻ
em, sự giáo dục và lao động đối với người lớn, sự nghỉ ngơi của người già.

9


Thứ tư, Nho giáo đã góp phần tạo dựng cho con người lối sống có trách
nhiệm với gia đình, đất nước với cả chính mình và đặc biệt coi trọng lối sống
trật tự, kỷ cương.
Nho giáo đã tạo ra một cộng đồng xã hội có tôn ti, trật tự, hòa mục từ
trong gia đình đến Nhà nước, thiên hạ. Học thuyết “Đức trị” chứa đựng hầu hết
các giá trị tinh hoa của Nho giáo và ngày nay vẫn rất cần được chúng ta nghiên
cứu sâu thêm nữa và chắc chắn sẽ còn tìm được nhiều bài học bổ ích

Thứ năm, sự thịnh trị của Nho giáo từ thế kỉ XV cũng là một hiện tượng
góp phần thúc đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là một học
thuyết tích cực nhập thế, nó khuyến khích, cổ vũ mọi người đi sâu vào tìm hiểu
những quan hệ xã hội, những vấn đề chính trị, pháp luật và đạo đức. Do đó,
nhận thức lý luận của dân tộc ta về các vấn đề đó cũng được nâng cao hơn. Dựa
vào lịch sử của Nho giáo, nhà vua và các nho sĩ giải thích các vấn đề đó có lập
luận và có lý lẽ đầy đủ hơn
Các quy định về nghi thức, lễ nghi và thuyết chính danh của Khổng Tử
giúp cho xã hội sắp xếp lại quy củ, trật tự và luôn đề cao việc tuân thủ các đạo
đức ứng xử trong gia đình và xã hội. Việc này mang lại cho con người thói quen
và hình thành nên truyền thống được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
3.2.

Hạn chế

Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự
đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội
loạn lạc, Đức Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên) phát triển tư tưởng
của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế
mà người đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo.
3.2.1. Quan niệm về thế giới
Trong quan điểm của Khổng Tử về học thuyết Nho Giáo có những quan
điểm duy vật nhưng cũng có những quan điểm duy tâm. Khi bàn về Trời, có lúc
thừa nhận Trời là quy luật tự nhiên, là khách quan (quan điểm duy vật), nhưng
10


có lúc lại thừa nhận có mệnh Trời và Trời chi phối con người nên con người phải
theo mệnh Trời (quan điểm duy tâm). Khổng Tử rất tin ở trời, với ông trời như
một quan tòa công minh cầm cân, nảy mực phán xét mọi sự vật. Trời quyết định

sự thành, bại trong cuộc sống của con người. Khổng Tử đặt hết niềm tin và ý chí
vào trời. Ông khuyên mọi người phục tùng ý chí đó và coi việc hiểu biết mệnh
trời như một điều kiện để trở thành một con người hoàn thiện “không hiểu mệnh
trời không phải là quân tử”. Quan điểm của Khổng Tử về trời đất như vậy tất
yếu dẫn đến thuyết “sống chết có mạng, giàu sang tại trời”. Sở dĩ quyền lực và
sức mạnh của trời là sự thần thánh hóa quyền lực và sức mạnh của thế lực cầm
quyền trên mặt đất. Với quan điểm triết học cơ bản là duy tâm, muốn ru ngủ
quần chúng bằng niềm tin vào mệnh trời và số phận, Khổng Tử đã thể hiện rõ
thái độ của mình trong việc ủng hộ giai cấp chủ nô khi chế độ chiếm hữu nô lệ
đã bước vào thời kì suy tàn và khởi nghĩa vũ trang của nhân dân đang nổ ra khắp
nơi.
Những hạn chế trong quan điểm về thế giới của ông còn thể hiện ngay cả
trong những quan điểm duy vật. Những quan điểm mà ông đã rút ra chỉ là từ
những suy luận của chính mình, chỉ là sự hình dung trong đầu óc mà không đưa
ra bất cứ cơ sở khoa học nào để chứng minh. Như nhà triết học phương Tây
Franxi Beecon ví đó như phương pháp “con nhện”. Đó là “chỉ biết ngồi rút ra sự
thông thái của mình từ chính bản thân mình, muốn thay thế việc nghiên cứu giới
tự nhiên và những quy luật của nó bằng những luận điểm trừu tượng, bằng việc
rút ra những kết quả bằng những kết luận chung, không tính đến sự tồn tại thực
tế của chúng.
3.2.2. Chính trị
Những quan điểm như vua quan là cha là mẹ dân, rồi dung lễ nhạc để giáo
hóa nhân dân… thực chất đều là những quan điểm tiến bộ của Khổng Tử nhưng
những tư tưởng ấy đều bị giai cấp phong kiến xuyên tạc để ru ngủ nhân dân, để
củng cố địa vị thống trị của giai cấp phong kiến. Trong thực tế, bọn vua chúa
hầu hết là những người dâm ô, trụy lạc, tàn bạo nhất, đạo đức suy đồi nhất, đồng
11


thời cũng là những người được hưởng lạc nhiều nhất trên đời. Khổng Tử đề ra

khẩu hiệu ý dân là ý trời thì có vẻ tôn trọng quyền làm chủ của dân nhưng trong
thực tế đối với bọn vua chúa, chỉ một lời nói hay một cử chỉ vô ý phạm thượng
thì đã bị tội chém đầu rồi làm sao có thể thực hiện được dân chủ. Khổng Tử chủ
trương dung lễ nhạc để giáo hóa nhân dân, cái ấy là điều tốt nhưng tư tưởng ấy
chỉ có thể thành sự thực trong một xã hội văn minh nhất, ý thức con người đã
phát triển đến trình độ cao. (Lễ là cái quân vương có thể dùng để trị quốc, lúc ấy
chẳng cần pháp luật hà khắc thiên hạ cũng tự nhiên thái bình; trong khi đó nhạc
là cái củng cố giúp lễ trở nên trọn vẹn đầy đủ). Còn với điều kiện thời bấy giờ và
thậm chí cho tới cả ngày nay thì luật pháp vẫn cứ là một công cụ hữu hiệu để
duy trì trật tự xã hội. Nó luôn gắn với đạo đức và có đủ sức mạnh để khẳng định
hay phủ định một bộ luật đạo đức nào đó. Với tư cách là những đòi hỏi mang
tính cưỡng chế, luật pháp giữ vai trò cực kì quan trọng trong việc hình thành ý
thức đạo đức, hành vi đạo đức, thói quen đạo đức. Và thực tiễn đã chứng minh,
ngược lại với chủ trương của Khổng Tử, người ta dùng những hình phạt rất tàn
khốc như roi vọt, tra tấn nhục hình, gong cùm chém giết… để trấn áp nhân dân.
Giai cấp phong kiến còn lợi dụng lễ nhạc để củng cố thêm tôn ti trật tự phong
kiến. Từ đó đề ra những tư tưởng sang hèn, phân biệt người trên, kẻ dưới tư
tưởng độc đoán chuyên quyền hết sức nặng nề trước đây, mà ngày nay chưa
được quét sạch hết.
Nói chung, những quan điểm của Khổng Tử trong chính trị và đường lối
cai trị đất nước chủ yếu là để bảo vệ giai cấp thống trị mang nặng tư tưởng trọng
quan khinh dân làm cho những người khi đã tham gia vào tầng lớp thống trị thì
ngày càng trở nên xa rời quần chúng nhân dân. Thái độ của dân đối với vị vua
thời bấy giờ là thái độ sợ hãi và tôn sung một vị hoàng đế được thần thánh hóa
và đối lập với quần chúng nhân dân.
3.2.3. Quan điểm tam cương ngũ thường
Nho giáo dựa trên tam cương và ngũ thường để cai trị xã hội, các quy
định, tập tục, nghi lễ được đặt ra có phần hà khắc và giáo điều. Tuy nho giáo
12



giúp xã hội được trật tự kỷ cương, vai trò và trách nhiệm của mỗi người, nhưng
chính những quy tắc này đã làm hạn chế các quyền nhân sinh, lối sống bị lệ
thuộc, các lễ nghĩa, quy tắc có phần bị ép buộc. Xã hội không có sự bình đẳng
giới, người phụ nữ trong xã hội bị trói buộc bởi tam tong tứ đức một cách gay
gắt và dập khuôn. Tạo nên quan niệm “trọng nam kinh nữ” ăn sâu vào tiềm thức
của mỗi con người qua nhiều thời đại, đến ngày này quan niệm tư tưởng này tuy
có phần bớt gay gắt những vẫn còn ảnh hưởng rất nhiều đến xã hội về bình đẳng
giới.
Trong ngũ luân nghĩa là có 5 mối quan hệ đó là quan hệ vua – tôi, cha con, anh - em, chồng – vợ, bè bạn thì quan hệ vua tôi đứng đầu. Ông cho rằng đã
là quần thần thì phải tuyệt đối trung thành, tin tưởng và phục tùng nhà vua. Quan
điểm của ông là “Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung, phụ xử tử vong, tử bất
vong, bất hiếu” hay “cha mẹ đặt đâu, con nằm đấy” Điều ấy cho thấy Khổng Tử
đã chủ trương thực hiện ngu trung, ngu hiếu. Khổng Tử đòi hỏi một sự phục
tùng tuyệt đối của con cháu đối với cha ông bởi thời nay không bằng thời xưa và
cha ông bao giờ cũng là mẫu mực của con cháu.
Trong quan hệ vợ chồng thì tư tưởng khinh rẻ phụ nữ là tư tưởng nổi bật
trong Khổng giáo. Khổng Tử cho phụ nữ là người khó dạy nên ông buộc người
phụ nữ phải theo tam tòng tứ đức. Địa vị người đàn ông được tôn trọng tuyệt
đối. Ông quy đạo đức của người phụ nữ vào 4 điểm công - dung - ngôn - hạnh.
Đàn ông thì có quyền năm thê bảy thiếp “gái chính chuyên thì lấy một chồng”.
Công của người phụ nữ là tinh thần tận tụy lao động bếp núc, vá may, phục vụ
cho cuộc sống an nhàn của người đàn ông. Những người phụ nữ xưa kia phải
nuôi chồng đến khi đỗ đạt làm quan. Đó là một nhiệm vụ của người phụ nữ bấy
giờ. Ngôn là lời nói dịu dàng, biết gọi dạ bảo vâng, tuyệt đối lễ phép với chồng,
bố chồng và mẹ chồng. Hạnh của người phụ nữ chỉ tập trung vào điểm giữ được
trinh tiết mặc dù người chồng xấu xa hèn mọn như thế nào. Pháp luật phong
kiến cho phép người chồng đuổi vợ và cắt đứt hôn nhân trong trường hợp vợ
hỗn với bố mẹ chồng hoặc vợ tàn tật, không có con.
13



Nhìn chung, chủ nghĩa giáo điều phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng
và trong địa hạt giáo dục khoa học. Các quan lại, sĩ phu đều lấy kinh thánh hiền
truyện của Nho giáo làm khuôn thước vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ và
hành động của mìn, lấy xã hội thời Nghiêu Thuấn làm khuôn mẫu cho mội tình
trạng xã hội; lấy những sự tích, điều phạm trong thư, kinh xuân thu làm tiêu
chuẩn để bình giá mọi sự việc.
Sự thịnh trị của Nho giáo làm cho những người gia nhập tầng lớp Nho sĩ
xa rời sinh hoạt thực tế và lĩnh vực sản xuất xã hội, chỉ biết đề cao tư than và
đạo tự nước, không màng đến các tri thức về khoa học tư nhiên cũng nghư các
nghành về sản xuất và lưu thông.

3.2.4. Về tư tưởng
Tư tưởng của Khổng Tử là không nhất quán, về cơ bản là duy tâm. Điển
hình như, khi bàn về Trời, có lúc thừa nhận Trời là quy luật tự nhiên, là khách
quan (quan điểm duy vật), nhưng có lúc lại thừa nhận có mệnh Trời và Trời chi
phối con người nên con người phải theo mệnh Trời (quan điểm duy tâm). Hay
như khi bàn về Quỷ thần, Khổng Tử cho rằng Thần là do con người tạo ra nhưng
cũng có lúc thừa nhận là có Quỷ thần nên phải kính rất cẩn thận. Nhưng sau đó,
qua nhiều quá trình đã kết luận tư tưởng của Khổng Tử nặng về duy tâm vì đã
thừa nhận có Trời và phải tuân theo mệnh Trời.
Tóm lại, Nho giáo còn mang nặng tư tưởng duy tâm, thần bí, quá chú
trọng hướng nội, chuyên suy xét trong tâm mà không hướng dẫn con người
hướng ra bên ngoài thực hành những điều tìm thấy được, chinh phục được thiên
nhiên vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tự nhiên –
kỹ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh
phương Tây vốn xuất hiện sau.
KẾT LUẬN


14


Qua những hiểu biết, nghiên cứu và tìm hiểu có thể thấy được những giá trị
lớn lao, không thể chối cãi mà Nho giáo đã đóng góp vào sự tạo thành diện mạo
tinh thần dân tộc và sự hình thành văn hoá dân tộc. Mặc dù có tồn tại những hạn
chế về một số các quan điểm của Nho giáo, nhưng không thể phụ nhận những
đóng góp của Nho giáo trong nền văn minh tư tưởng chung của toàn nhân loại.

Danh mục tài liệu tham khảo:
/> />Luận án tiến sĩ của Đinh Quang Hổ đề tài: “Bản thể luận Phật giáo qua Kinh
Viên Giác, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm” năm 2016

15



×