Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Định giá doanh nghiệp theo phương pháp hệ số PE cho mục đích phát hành cổ phiếu lần đầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.14 KB, 54 trang )

z

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN



ĐỀ TÀI:

ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP THEO PHƢƠNG
PHÁP HỆ SỐ P/E CHO MỤC ĐÍCH PHÁT HÀNH
CỔ PHIẾU LẦN ĐẦU
Giảng viên hướng dẫn
: NGÔ VĂN PHONG
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN MINH NHẬT
Khóa
: 33
MSSV
: 107204620


Lời mở đầu
Ngày nay, nhu cầu định giá Doanh nghiệp nhằm mục đích mua bán,
sáp nhập, tái cấu trúc Doanh nghiệp để trở thành Công ty cổ phần, niêm
yết trên thị trường chứng khoán hay để mua cổ phần... ngày càng cao.
Trước đây, theo quy định của Nhà nước (Nghị Định 64/2004) thì chỉ có hai
phương pháp định giá được sử dụng, đó là phương pháp chiết khấu dòng
tiền (DCF) và phương pháp tài sản, điều này làm cho các Doanh nghiệp
khó linh hoạt trong việc quyết định phương pháp định giá phù hợp với mục
đích cần thẩm định giá. Nghị Định mới ra đời (Nghị Định 109) quy định


doanh nghiệp được phép sử dụng các phương pháp khác ngoài hai phương
pháp trên đã giúp cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc lựa chọn
các phương pháp định giá . Hiện nay có nhiều phương pháp thẩm định giá
trị doanh nghiệp, mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm nhất định.
Nhưng đối với mỗi mục đích định giá khác nhau thì Doanh nghiệp nên
chọn ra phương pháp định giá hợp lý để bảo đảm được mục tiêu định giá
Doanh nghiệp.
Nhằm hỗ trợ cho các Doanh nghiệp lần đầu tiên phát hành cổ phiếu
ra công chúng để huy động vốn, cũng như các nhà đầu tư cần thẩm định
các khoản đầu tư nhằm đưa ra quyết định. Đề tài đã nghiên cứu vấn đề:
Định giá doanh nghiệp theo phương pháp hệ số P/E cho mục đích phát
hành cổ phiếu lần đầu.


Mục tiêu nghiên cứu
Định giá doanh nghiệp theo phương pháp tỷ lệ P/E, từ đó rút ra
những ưu nhược điểm và những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng phương
pháp này.
Giúp cho nhà đầu tư xác định liệu một cổ phiếu của công ty gấp bao
nhiêu lần thu nhập hiện tại của nó, giá cổ phiếu trên thị trường là đắt hay rẻ
và có phản ánh đúng giá trị nội tại của cổ phiếu.
Giúp cho doanh nghiệp bán cổ phiếu của mình không quá cao hay
quá thấp.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu định giá đối với những doanh nghiệp phát hành cổ
phiếu lần đầu ra công chúng, hoặc những công ty cổ phần niêm yết trên sàn
chứng khoán
Phƣơng pháp nghiên cứu
Sử dụng các kỹ thuật phân tích
 Thống kê mô tả và so sánh

 Thu thập và phân tích dữ liệu
 Báo cáo tài chính của công ty cần thẩm định giá (sử dụng để định
giá) và dữ liệu trên thị trường chứng khoán.


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E

CHƢƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ THẨM ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH
NGHIỆP THEO PHƢƠNG PHÁP HỆ SỐ P/E
1.1.

Khái niệm về Doanh nghiệp và Định giá Doanh nghiệp

1.1.2. Doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là một thực thể kinh tế, là
một tài sản đầu tư và đồng thời nó cũng được nhìn nhận như một hàng hóa
có giá trị, nó tạo ra của cải vật chất hoặc cung cấp dịch vụ cho xã hội.
Doanh nghiệp được cấu thành bởi yếu tố vô hình và hữu hình.
1.1.3. Định giá
Định giá là việc xác định đúng giá trị thị trường của một tài sản cho
một mục đích cụ thể theo tiêu chuẩn định giá Việt Nam và theo thông lệ
quốc tế.
1.1.4. Định giá doanh nghiệp
Định giá doanh nghiệp là việc điều tra chi tiết và đánh giá các hoạt
động của doanh nghiệp nhằm xác định giá trị hiện hữu và tiềm năng của nó.
Nói rõ hơn, định giá doanh nghiệp là quá trình ước tính các nguồn
lực của doanh nghiệp hay lợi ích của nó. Việc định giá doanh nghiệp vừa
mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Tính khoa học thể hiện ở
chỗ: Định giá doanh nghiệp phải xem xét toàn diện tất cả các yếu tố cấu

thành nên giá trị doanh nghiệp. Còn tính nghệ thuật chính là việc ước tính
giá trị hiện tại của các dòng tiền mặt trong tương lai...
1.1.5. Mục đích định giá doanh nghiệp
Định giá doanh nghiệp phục vụ cho nhiều mục đích. Tùy thuộc vào
những mục đích khác nhau để chọn các phương pháp định giá khác nhau.
Hiện nay định giá doanh nghiệp phục vụ cho cá mục đích sau:

SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 1


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
Thứ nhất, kết quả định giá làm cơ sở cho các hoạt động sáp nhập,
mua lại, hợp nhất giải thể, thanh lý tài sản hay thành lập các liên doanh, cổ
phần hóa, chuyển nhượng vốn cổ phần, phát hành trái phiếu lần đầu tiên ra
công chúng...
Thứ hai, kết quả định giá doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp có
những giải pháp cải tiến quản lý cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh.
Thứ ba, kết quả định giá cũng là cơ sở cho các tổ chức, cá nhân và
công chúng đầu tư ra quyết định đầu tư vào các loại chứng khoán do doanh
nghiệp phát hành trên thị trường tài chính.
Thứ tư, để hoàn thành tốt vai trò của mình, trong những thời điểm
nhất định, Nhà nước cũng cần tiến hành đánh giá các doanh nghiệp, đánh
giá những tác động của môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ
sở đó, Nhà nước sẽ ban hành những quyết định liên quan đến doanh nghiệp
như chính sách thuế, chính sách hỗ trợ đầu tư, tài trợ tín dụng... nhằm cải
thiện môi trường kinh doanh.
1.1.6. Vai trò định giá doanh nghiệp đối với nền kinh tế

Một trong những nguyên nhân thúc đẩy các hoạt động định giá
doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ là do những lợi ích mà chúng mang lại
cho nền kinh tế. Việc định giá doanh nghiệp là một nhu cầu thiết yếu và đã
thu hút được sự quan tâm của các đối tượng khác nhau. Do đó, giá trị
doanh nghiệp cần được xác định một cách hợp lý để bảo đảm quyền lợi của
các bên tham gia đến hoạt động của doanh nghiệp. Mặc dù được coi như là
hàng hóa nhưng không phải ai cũng có tiền để mua doanh nghiệp, bởi
doanh nghiệp không phải là hàng hóa thông thường mà là hệ thống phức
tạp của nhiều yếu tố cấu thành và có mối quan hệ hữu cơ với nhau.

SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 2


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
 Đối với doanh nghiệp
Định giá doanh nghiệp là công cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp cải
tiến, liên tục nâng cao hiệu quả kinh doanh, góp phần ổn định môi trường
kinh doanh và hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
Định giá doanh nghiệp là công cụ cho phép doanh nghiệp đánh giá
khả năng cạnh tranh của chính nó với các đối thủ. Trên cơ sở đó nêu ra
những quyết định thích hợp.
Định giá doanh nghiệp là công cụ hữu hiệu để xác định giá trị doanh
nghiệp khi tiến hành sáp nhập, mua bán hay định giá cổ phần.
 Đối với chính phủ
Chính phủ có thể sử dụng các kết quả định giá doanh nghiệp để đánh
giá các nguồn lực, năng lực quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp Nhà nước. Trên cơ sở đó, chính phủ có thể quyết định cổ
phần hóa, sáp nhập hay giải thể doanh nghiệp.

 Đối với các định chế và công chúng đầu tư
Định giá doanh nghiệp giúp công chúng đầu tư hạn chế rủi ro khi
đầu tư hay hùn vốn vào doanh nghiệp. Dựa vào việc định giá doanh nghiệp,
họ có thể chọn lựa các loại cổ phiếu công ty để đầu tư.
1.1.7. Cơ sở định giá doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp là một giá trị phức hợp bao gồm các nhân tố
hữu hình và vô hình. Do vậy, việc định giá doanh nghiệp phải thể hiện
được giá trị của hai loại nhân tố trên, tùy vào từng đặc điểm cụ thể của tài
sản do doanh nghiệp sở hữu mà định giá doanh nghiệp dựa trên giá trị thị
trường hay giá trị phi thị trường, trong đó:
Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua
bán trên thị trường vào thời điểm định giá giữa một bên là người mua sẵn
sàng mua và một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch mua
bán khách quan độc lập, trong điều kiện thương mại bình thường.
SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 3


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
Giá trị phi thị trường của một tài sản là mức giá ước tính được xác
định theo các căn cứ khác với giá trị thị trường hoặc có thể được mua bán
trao đổi theo các mức giá không phản ánh giá trị thị trường như: giá trị
đang trong quá trình sử dụng, giá trị đầu tư, giá trị bảo hiểm, giá trị đặc
biệt, giá trị thanh lý, giá trị tài sản bắt buộc phải bán, giá trị doanh nghiệp,
giá trị tài sản chuyên dùng, giá trị tài sản có thị trường hạn chế, giá trị để
tính thuế...
1.2.

Những yếu tố tác động đến giá trị doanh nghiệp

Một là khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Khi định giá trị tài sản để

đầu tư, thực chất nhà đầu tư không mua tài sản đó mà muốn sở hữu dòng
thu nhập do tài sản đó mang lại cho họ trong tương lai. Do đó, khả năng
sinh lợi của doanh nghiệp là mối quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư khi
mua doanh nghiệp.
Hai là xu thế của sự tăng trưởng lợi nhuận trong tương lai. Đầu tư có
nghĩa là mua tương lai, và là hoạt động có tính rủi ro. Chỉ có xu thế tăng
trưởng của lợi nhuận mà doanh nghiệp tạo ra trong tương lai cao hơn mức
lợi tức hiện tại mới hấp dẫn được các nhà đầu tư.
Ba là sự lành mạnh của tình hình tài chính. Một doanh nghiệp có tình
hình tài chính lành mạnh sẽ giảm rủi ro của đồng vốn đầu tư, hay nói cách
khác các nhà đầu tư đánh giá cao các cơ hội đầu tư tương đối an toan.
Những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính yếu sẽ khó tìm được người mua
hoặc phải bán với giá thấp. Nhà đầu tư trả giá thấp để có thể đạt được một
tỷ suất lợi nhuận cao bù đắp cho mức rủi ro mà họ có thể phải gánh chịu.
Bốn là hiện trạng của tài sản hữu hình (TSHH). TSHH là những
trang thiết bị cũ hay mới, trình độ công nghệ như thế nào sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến việc sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ trong tương lai, đồng thời
cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của chúng trên thị trường về mặt
chi phí sản xuất và chất lượng. Điều này sẽ quyết định thị phần của doanh
SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 4


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
nghiệp, và trực tiếp ảnh hưởng đến dòng doanh thu và lợi nhuận mong đợi
sẽ kiếm được trong tương lai.
Yếu tố thứ năm là tài sản vô hình(TSVH), bao gồm các mối quan hệ

hợp tác, các nguồn lực và đặc quyền kinh doanh, hợp đồng thuê bao, bằng
phát minh sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hóa... đây là những yếu tố
tác động đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Các công ty danh tiếng sẽ
dễ dàng thành công khi tung một sản phẩm mới ra thị trường. Một sản
phẩm mang nhãn hiệu uy tín bao giờ giá cả cũng cao hơn những sản phẩm
cùng loại khác của các công ty vô danh.
Ngoài ra, yếu tố nhân sự cũng được kể đến khi định giá doanh
nghiệp. Trong thời đại ngày nay, mọi thứ đều cơ bản được quyết định bởi
năng lực hoạt động của con người. Đây là yếu tố quyết định năng suất lao
động- một yếu tố chi phí của đầu vào, đồng thời nó cũng quyết định đến
quá trình đổi mới công nghệ và hoàn thiện sản phẩm cũng như khả năng
thích ứng của doanh nghiệp đối với sự thay đổi của môi trường kinh doanh.
1.3.

Các kỹ thuật phân tích đƣợc sử dụng trong định giá doanh nghiệp
Hiện nay có các kỹ thuật phân tích được sử dụng như: Thống kê mô

tả và so sánh, phân tích hồi quy, phỏng vấn ý kiến các chuyên gia...
 Phân tích mô tả và so sánh: là nghiên cứu tình hình, thực trạng của
doanh nghiệp đối với những doanh nghiệp khác trong cùng một ngành, từ
đó nhằm đưa ra một bức tranh tổng thể của doanh nghiệp đối với tình hình
chung của ngành, của thị trường.
 Phỏng vấn ý kiến chuyên gia: Đây là phương pháp phù hợp với lĩnh
vực này, phương pháp này sẽ cho ta biết các ưu, nhược điểm, các vấn đề
khúc mắc gặp phải khi tiến hành sử dụng các phương pháp định giá trong
thực tế.

SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 5



Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
1.4.

Các phƣơng pháp định giá doanh nghiệp

1.4.1. Phƣơng pháp tài sản
Khái niệm
Phương pháp tài sản là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
trên cơ sở đánh giá giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp
tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Phương pháp này xuất phát từ
nguyên tắc: Một công ty có giá trị không kém hơn tổng các giá trị của từng
loại tài sản riêng của nó trừ đi các khoản nợ của nó. Tài sản riêng ở đây
được hiểu bao gồm cả những giá trị lợi thế của công ty.
Phương pháp tài sản thường được sử dụng khi muốn xác định mức
giá trị thấp nhất đối với một doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh
doanh. Các mô hình phổ biến nhất trong phương pháp này là giá trị tài sản
ròng. Giá trị tài sản ròng giúp xác định vốn cổ phần của doanh nghiệp sau
khi các tài sản đã được điều chỉnh lại theo giá trị thị trường và các khoản
nợ được thanh toán tại mức giá trị danh nghĩa (giá trị sổ sách).
Các bƣớc tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp
Căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp
 Căn cứ vào bảng cân đối kế toán đã được kiểm toán hoặc danh sách
kiểm kê tài sản để xác định giá trị doanh nghiệp
 Căn cứ vào giá trị thị trường để đánh giá lại giá trị tài sản hữu hình
của DN.
Cách tính:

vE  vA  vD

Trong đó:
VE : là giá trị thị trường vốn chủ sở hữu

VA : là giá trị thị trường toàn bộ tài sản (bao gồm giá trị TSVH và giá trị

TSHH).
SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 6


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
VD : là giá trị thị trường của nợ.

Xét về lý thuyết, V là giá trị thị trường toàn bộ tài sản có nghĩa là đã
bao gồm giá trị TSVH của DN được thị trường đánh giá. Tuy nhiên, trên
thực tế hiện nay khi định giá DN bằng phương pháp tài sản rất khó xác
định giá trị thị trường của toàn bộ tài sản DN. Điều này dẫn đến VA chỉ
được xác định trên cơ sở giá trị TSHH mà bỏ qua giá trị TSVH.
Nhận xét
Ưu điểm:
Phương pháp này đơn giản và được kiểm chứng, đối chiếu bằng
những băng chứng kế toán. Đây là phương pháp tỏ ra thích hợp với trình độ
tỏ ra thích hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế hiện nay, giá trị được
xác định là giá trị thanh lý.
Ưu điểm chính của phương pháp này là nó cho phép ước tính sự ảnh
hưởng của chất lượng tài sản tới vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Minh
chứng cho các bên liên quan thấy rằng:đầu tư vào doanh nghiệp luôn luôn
được đảm bảo bằng giá trị của các tài sản có trong doanh nghiệp chứ
không phải bằng cái có như nhiều phương pháp khác. Nhà đầu tư có thiể

nhìn vào giá trị của nó để lương hóa , tính toán hiệu quả việc đầu tư.
Việc xác định giá trị doang nghiệp theo phương pháp này đảm bảo
cho việc khong thất thoát vốn của nhà nước.
Nhƣợc điểm:
Việc tính toán chỉ dược trên các chỉ số này sẽ không đảm bảo tính
chính xác, chẳng hạn như tỉ suất lợi nhuận có thể tăng đột biến trong 1-2
năm gần đây do điều kiện đặc biệt hay DN kê khai không chính xác nên sẽ
ngay lập tức ảnh hưởng đến kết quả tính toán.
Không nhưỡng thế, sử dụng phương pháp này khó tách biệt giá trị
tài sản vô hình và giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp.
SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 7


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
Bên cạnh đó, việc xác định mức độ hao mòn thực tế của tài sản cố
định có khấu hao thường mang tính chủ quan.
Phương pháp tài sản chưa thể hịn được giá giá trị thực tế của DN do
không tính hết các giá trị tài năng của DN, và chỉ căn cứ trên cơ sở các tài
sản thự có tại thời điểm thẩm định giá, không tính được khả năng sing lời
của doanh nghiệp trong tương lai và không thực sự phù hợp với doanh
nghiệp đang tăng trưởng và có hệ số sử dụng tài sản cao.Hay nói cách khác,
phương pháp này chỉ thể hiện giá trị thanh lí của DN, trong khi đó đối với
đầu tư mua Cpthif tương lai của DN mới là điều đáng quan tâm hơn cả.
Phạm vi ứng dụng:
Theo lý thuyết thì phương pháp tài sản có áp dụng cho tất cả các loại
hình doanh nghiệp, tuy nhiên, đối tượng thường áp dụng phương pháp này
là những DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và những DN đang trong
lĩnh vực thua lỗ có dòng tiền tương lai âm do dối với các doanh nghiệp này,

việc dự đoán dòng tiền tương lai sẽ rất khó khăn vì doanh nghiệp có khả
năng phá sản.
Ngoài ra, phương pháp này có thể sử dụng khi phương pháp chiết
khấu dòng tiền cho ra kết quả doanh nghiệp thấp hơn giá trị sở hữu vô hình
của doanh nghiệp vì trường hợp này giá trị của doanh nghiệp có thể phụ
thuộc vào phàn lớn vào tài sản mà nó đang nắm giữ (chẳng hạn công ty đầu
tư bất DN động sản).
1.4.2. Phƣơng pháp chiếc khấu dòng tiền(DCF):
Khái niệm
Phương pháp này xuất phát từ quan điểm: giá trị của DN được đo
bằng độ lớn của các khoảng thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho
nhà đầu tư trong tương lai. Trên quan điểm về thời giá tiền tệ, về chi phí cơ
hội thì DCF có nghĩa:giá trị đồng tiền ở các thời điểm khác nhau sẽ không
SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 8


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
giống nhau vì thế, người ta quy đổicác khoản thu nhập về cùng một thời
điểm.
Như vậy, phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) là phương pháp
xác định giá trị doanh nghieepjtrong tương lai. Giá trị của DN được xác
định bằng các luồng thu nhập dự kiến mà DN đó thu được trong tương lai
được quy về giá trị hiện tại bằng cách chiết khấu chúng bằng một mức lãi
xuất chiết khấu phù hợp với mức độ rủi ro của DN đó.
Hay nói cách khác, phương pháp chiết khấu dòng tiền được sử dụng
khi ước tính giá trị của một dòng thu nhập cụ thể cùng với việc xem xét rủi
ro tiềm ẩn trong luồng thu nhập đó. Mô hình phổ biến nhất theo phương
pháp này là chiết khấu dòng tiền đối với cổ đông. Mô hình chiết khấu dòng

tiền sẽ thực hiện chiết khấu các dòng tiền tự do trong tương lai về giá trị
hiện tại theo một tỉ lệ chiết khấu nhất định. Tỷ lệ chiết khấu có tính đến
mức rứi ro tiềm ẩn của các dòng tiền tự do trong tương lai.
Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở những nước mà TTCK
phát triển, nơi thường có đầy đủ thông tin về lịch sử cũng như thông tin
hiện tại và dư báo hợp lí về tình hình tài chính và rủi ro của doanh nghiệp.
Hiện nay, việc áp dụng công thức này ở việt nam cũng được nhiều người
tiếp nhận bởi giá CP tính theo phương pháp này phản ảnh được bản chất
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty so với các phương pháp khác
và đức trên điểm của nhà đầu tư thì ngoài việc tính toán theo phương pháp
này rất đơn giản, nó còn đáp ứng đúng suy nghĩ, nguyệt vọng của họ khi
đầu tư vào một DN.
Tuy nhiên, tại việc nam áp dụng công thức này có một số khó khăn
làm cho việc ước tính nguồn thu trong tương lai của các công ty khó có thể
chính xác như: Tình hình môi trường kinh doanh có nhiều biến động; Các
DN Viêt Nam trong đó có các công ty đang niêm yết đều chưa quen với

SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 9


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn, đạc biệt là còn xa lạ với việc
dư báo chi tiết luồng tiền dài hạn ra , vào công ty...
 Các bƣớc tiến hành xác định giá trị DN
Căn cức để xác định giá trị doanh nghiệp


Báo tài chính của doanh nghiệp trong 5 năm liền kề trước khi xác

định giá trị doanh nghiệp.



Phương án hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần
hóa từ 3 năm đến 5 năm sau khi chuyển thành công ty cổ phần.



Lãi xuất của trái phiếu Chính phủ có kì hạn 05 năm tại thời điểm
gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp và hệ số chiết
khấu dòng tiền của doanh nghiệp.



Giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đát được giao.
Cách tính:
Để có thể ứng dụng một cách linh hoạt phương pháp này cho từng

doanh nghiệp với từng mục đích cụ thể , phương pháp DCF được chia
thành 3 mô hình: mô hình chiết khấu cổ tức, mô hình chiết khấu dòng tiền
tốn chủ sở hữu, mô hình chiết khấu dòng tiền thuần của doanh nghiệp.
Ngoài ra, trong mỗi mô hình còn có các biến thế tương đương với sự tăng
trưởng của doanh nghiệp như: tăng trưởng dều tăng trưởng nhiều giai
đoạn.
Công thức tổng quát:
V   Et / (1  r )t

Trong đó:
V: giá trị DN

Et : lợi nhuận ròng ước tính

r : tỷ xuất chiết khấu
SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 10


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
t : số năm chiết khấu
Thực tế, khi ứng dụng phương pháp DCF, tỷ suất chiết khấu được
ước lượng một cách chủ quan theo những người làm công tác định giá. Tỷ
suất chiết khấu có thể là lãi xuất ngân hàng, tỷ lệ tăng trưởng trung bình
quân của ngành hay được xác định giá tài sản vốn CAPM như sau:

Re  R f   xRp
Trong đó:

Re

: Tỷ lệ chiết khấu hay lãi suất kì vọng của cổ đông

R f : Lãi suất phi rủi ro (Trái phiếu Chính phủ cùng kì vọng, ở đây chúng ta

sử dụng Trái phiếu Chính phủ 15 năm là trái phiếu có thời gian đáo hạn dài
nhất hiện nay trên thị trường)
β : Beta (Hệ số rủi ro của doanh nghiệp, nguồn dữ liệu của Bloomberg)
R p : Mức bù rủi ro( Theo thống kê của giáo sư tài chính Mỹ Damoradan)

Mô hình chiết khấu dòng tiền vốn chủ sở hữu:

V   FCFE / (1  r )t

Trong đó, dòng tiền tự do cho cổ đông được xác định trong mỗi năm
tài chính dựa trên dự báo về lợi nhuận ròng, chi phí đầu tư tài sản cố định,
nhu cầu vốn lưu động. Công thức tính như sau:
Dòng tiền tự do cho cổ đông (FCFE) = Lợi nhuận sau thuế + (Khấu hao)
+/- (Thay đổi vốn lưu động) – (Chi phí đầu tư TSCĐ)
Mô hình chiết khấu cổ tức:
Là mô hình sử dụng dòng cổ tức dự kiến trong tương lai được chi trả
cho các cổ đông chiết khấu về thời điểm định giá để ước tính giá trị doanh
nghiệp. Công thức tính:
V   DIVt / (1  r )t

SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 11


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
Trong đó:
V: giá trị công ty
DIVt : cổ tức dự kiến trả cho cổ đông

Mô hình chiết khấu dòng tiền thuần của doanh nghiệp:
Mô hình này xác định giá trị của toàn bộ doanh nghiệp kể cả nợ và
cổ phần ưu đãi bằng cách chiết khấu dòng tiền đối với doanh nghiệp là thu
nhập thuần từ hoạt động sau khi đã loại trừ các khoản đầu tư vào tài sản.
Công thức tính:
V   FCFF / (1  WACC )t
t


Trong đó, dòng tiền thuần của doanh nghiệp được tính theo công thức:
FCFF  EBIT *(1  t )  Dp  Cex  We

Với:
EBIT: lợi nhuận trước thuế và lãi vay
t: thuế thu nhập doanh nghiệp
Nhận xét:
Ƣu điểm:
Phương pháp DCF có các ưu điểm sau:
Làm chính xác hơn giá trị của các công ty đang hoạt động có hiệu
quả và có khả năng phát triển trong tương lai, đặc biệt là các đơn vị đang
hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, bảo hiểm...
Bên cạnh đó, phương pháp này sẽ đạt được hiệu quả trong việc định
giá các yếu tố như: thương hiệu, lợi thế kinh doanh... (thông qua việc đánh
giá thu nhập mà các yếu tố này đem lại cho công ty).
Ngoài ra việc áp dụng phương pháp này cũng sẽ giải quyết được một
phần các vướng mắc trong việc xác định lợi thế thương mại của doanh
SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 12


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
nghiệp, đặc biệt là những công ty đang làm ăn có lãi, thương hiệu và thị
phần trên thị trường.
Dòng tiền sử dụng trong phương pháp này là thực và dễ hiểu, chúng
không bị tác động bởi các nguyên tắc kế toán.
Nhƣợc điểm:
Bên cạnh các ưu điểm thì phương pháp DCF này vẫn còn một số

nhược điểm:
Một là việc xác định những thông tin chủ yếu để định giá DN theo
phương pháp DCF như ý: tỷ suất lợi nhuận của 3-5 năm liền và dự đoán
trong 5-10 năm tương lai, tỉ lệ tăng trưởng, hệ số rủi ro, ...hiện nay rất khó
khăn và mất rất nhiều thời gian. Thậm chí nhiều dữ liệu trên để có thể
chính xác phải do tính toán của các chuyên gia.
Hai là đối với các doanh nghiệp mới thành lập hoặc hoạt động chưa
lâu thì không đủ số liệu làm căn cứ dự đoán tương lai.
Ba là những giả định trong mỗi mô hình của phương pháp này được
xây dựng trong môi trường của một nền kinh tế hiệu quả, do đó, việc vận
dụng các mô hình này ở các nước đang phát triển gặp nhiều khó khăn do
thiếu thông tin thị trường, nhất là trong tình hìn biến động về các chính
sách như hiện nay tại Việt Nam.
Bốn là phương pháp này đòi hỏi người định giá phải am tường kĩ thuật
dự báo, có kiến thức kinh tế sâu rộng luôn luôn được cập nhật mới để có
thể dự báo dòng tiền DN trong tương lai.
Thêm một nhược điểm của mô hình này đó là mô hình định giá tài sản
vốn được sử dụng trong phương pháp định giá DCF không tính được hết
các rủi ro của doanh nghiệp vừa và nhỏ không niêm yết nên có thể dẫn đến
việc đánh giá quá cao giá trị của bộ phận DN này, mà tâm lí đại bộ phận

SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 13


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
DNQD thì không muốn giá trị được đánh giá quá cao vì sợ khó bán cổ phần
cũng như bất lợi trong việc phân chia cổ phần ưu đãi trong nội bộ DN.
Phạm vi ứng dụng :

Đây là phương pháp thích hợp cho những DN có dòng tiền ổn định và
có triển vọng trong tương lai, sản phẩm đang ở trong thời kì ổn định.
Theo thông tư 146 (Hướng dẫn thực hiện dự định 109 của chính phủ):
Đói tượng thực hiện phương pháp này là các DN có nghành nghề kinh
doanh chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại ,tư
vấn, thiết kế xây dựng tin học và chuyển giao doanh nghiệp, có tỷ suất
công nghệ, có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân 5
năm liền kề trước khi cổ phần hóa cao hơn lãi suất của trái phiếu Chính phủ
có kì hạn 5 năm tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị DN.
1.4.3. Phƣơng pháp hệ số tỷ lệ P/E
Phương pháp này dựa trên quan điiểm các nhà đầu tư trong tương lai
sẽ đánh giá chính xác giá trị doanh nghiệp thông qua cổ phần của doang
nghiệp. Vì các nhà đầu tư thông qua thị trường chứng khoánđể quyết định
đầu tư nên sự đánh giá của họ là quan điểm thị trường. Đồng thời kỳ vọng
của nhà đầu tư cũng đã được tính đến.
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến đối với các công ty đã
niêm yết trên sàn. Hệ số P/E là hệ số giữa giá cổ phần (thị giá) và thu nhập
hàng năm của một cổ phiếu đem lại cho người nắm giữ. Thông thường, để
dự tính giá của một cổ phiếu người ta thường dùng thu nhập trên mỗi cổ
phần của công ty nhân với hệ số P/E trung bình ngành hoặc của một công
ty tương tự về quy mô, ngành nghề và đã được giao dịch trên thị trường.
Các bƣớc tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp
Căn cứ xác định giá trị doanh nghiệp
 Căn cứ vào giá trị thị trường của cổ phần doanh nghiệp trên thị
trường chứng khoán.
SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 14



Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
 Căn cứ vào báo cáo thu nhập của doanh nghiệp tại thời điểm thẩm
định giá.
Cách tính:
V = lợi nhuận ròng * P/E
Trong đó:
P/E = P/EPS
P là giá bán cổ phần trên thị trường
EPS là thu nhập của mỗi cổ phần dự kiến
EPS= P/N
P là lợi nhuận thuần
N là số cổ phần đã phát hành
Phạm vi ứng dụng:
Phương pháp này áp dụng với các công ty cổ phần đại chúng và công
ty cổ phần niêm yết, có tính ngắn hạn vì hàm chứa trong đó yếu tố đầu cơ
cổ phiếu.
1.5. Tổng quan về cổ phiếu và định giá cho mục đích phát hành cổ phiếu
1.5.1. Khái niệm cổ phiếu:
Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều
phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ
đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu và chỉ
có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một
chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty
cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Thông
thường hiện nay các công ty cổ phần thường phát hành 02 dạng cổ phiếu:
Cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Các cổ đông sở hữu cổ phiếu thông
thường có quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty như: Được chia cổ tức
theo kết quả kinh doanh; Được quyền bầu cử, ứng cử vào bộ máy quản trị
và kiểm soát công ty; Và phải chịu trách nhiệm về sự thua lỗ hoặc phá sản
SVTH: Nguyễn Minh Nhật


Trang 15


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
tương ứng với phần vốn góp của mình. Các cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi
cũng là hình thức đầu tư vốn cổ phần như cổ phiếu thông thường nhưng
quyền hạn và trách nhiệm hạn chế như: lợi tức cố định; không có quyền
bầu cử, ứng cử...
1.5.2. Tác dụng của việc phát hành Cổ phiếu
 Đối với Công ty phát hành:
Việc phát hành cổ phiếu sẽ giúp cho Công ty có thể huy động vốn
khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy động này không
cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như
áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều,
trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty,
vay nợ từ các tổ chức tín dụng ...thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên, mỗi
phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý
công ty phải cân nhắc, lựa chọn tùy từng thời điểm và dựa trên những đặc
thù cũng như chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định phương thức
áp dụng thích hợp.
 Đối với nhà đầu tƣ cổ phiếu:
Các nhà đầu tư trên thị trường sẵn sàng mua Cổ phiếu được công ty
phát hành. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần được phát hành dưới dạng
chứng thư có giá và được xác định thông qua việc chuyển dịch, mua bán
chúng trên thị trường chứng khoán giữa các chủ thể đầu tư và được pháp
luật bảo vệ. Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ đầu tư
được các nhà quản lý công ty sử dụng có hiệu quả, tạo ra nhiều lợi nhuận
hoặc đánh giá hoạt động cũng như tiềm năng phát triển, sinh lợi của công
ty dự định đầu tư là cao, và đương nhiên họ sẽ được hưởng một phần từ

những thành quả đó thông qua việc thanh toán cổ tức cho các cổ đông,
đồng thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại và triển
SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 16


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
vọng phát triển của công ty mình đã chọn. Thông thường, khả năng sinh
lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ phiếu tỷ lệ thuận với giá cả giao dịch cổ phiếu
trên thị trường.
Đề tài đi vào nghiên cứu phương pháp tỷ lệ P/E để định giá doanh
nghiệp cho mục đích phát hành cổ phiếu. Tuy nhiên, trước khi bắt đầu định
giá cần phân biệt một số cặp khái niệm sau đây về giá trị.
1.5.3. Các cặp khái niệm về giá trị
 Giá trị thanh lý và giá trị hoạt động
Cặp khái niệm này dùng để chỉ giá trị của doanh nghiệp dưới hai
giác độ khác nhau. Giá trị thanh lý (liquidation value) là giá trị hay số tiền
thu được khi bán doanh nghiệp hay tài sản không còn tiếp tục hoạt động
nữa. Giá trị hoạt động (going-concern value) là giá trị hay số tiền thu được
khi bán doanh nghiệp vẫn còn tiếp tục hoạt động. Hai loại giá trị này ít khi
nào bằng nhau, thậm chí giá trị thanh lý đôi khi còn cao hơn cả giá trị hoạt
động.
 Giá trị sổ sách và giá trị thị trƣờng
Khi nói giá trị sổ sách (book value), người ta có thể đề cập đến giá trị
sổ sách của một tài sản hoặc giá trị sổ sách của một doanh nghiệp. Giá trị
sổ sách của tài sản tức là giá trị kế toán của tài sản đó, nó bằng chi phí mua
sắm tài sản trừ đi phần khấu hao tích lũy của tài sản đó. Giá trị sổ sách của
doanh nghiệp hay công ty tức là giá trị toàn bộ tài sản của doanh nghiệp trừ
đi giá trị các khoản nợ phải trả và giá trị cổ phiếu ưu đãi được liệt kê trên

bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Giá trị thị trường (market value) là
giá của tài sản hoặc doanh nghiệp được giao dịch trên thị trường. Nhìn
chung, giá trị thị trường của doanh nghiệp thường cao hơn giá trị thanh lý
và giá trị hoạt động của nó.

SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 17


Chương 1: Tổng quan về thẩm định giá trị doanh nghiệp theo hệ số P/E
 Giá trị thị trƣờng và giá trị lý thuyết
Cặp giá trị này thường dùng để chỉ giá trị của chứng khoán, tức là
giá trị của các loại tài sản tài chính. Giá trị thị trường (market value) của
một chứng khoán tức là giá trị của chứng khoán đó khi nó được giao dịch
mua bán trên thị trường. Giá trị lý thuyết (intrinsic value) của một chứng
khoán là giá trị mà chứng khoán đó nên có dựa trên những yếu có liên quan
khi định giá chứng khoán đó. Nói khác đi, giá trị lý thuyết của một chứng
khoán tức là giá trị kinh tế của nó và trong điều kiện thị trường hiệu quả thì
giá cả thị trường của chứng khoán sẽ phản ánh gần đúng giá trị lý thuyết
của nó.

SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 18


Chương 2: Ứng dụng phương pháp hệ số P/E để thẩm định công ty OPC

CHƢƠNG 2:

ỨNG DỤNG PHƢƠNG PHÁP HỆ SỐ P/E ĐỂ THẨM ĐỊNH
CÔNG TY CỔ PHẦN DƢỢC PHẨM OPC
2.1. Tổng quan về mục đích phát hành cổ phiếu lần đầu(IPO)
2.1.1.Định nghĩa về IPO
IPO (Initial Public Offering) hay còn gọi là Phát hành chứng khoán
lần đầu ra công chúng là việc 1 doanh nghiệp cổ phần lần đầu tiên thực
hiện phát hành chứng khoán của mình tới công chúng đầu tư ở bên ngoài
công ty và phương thức thực hiện để chào bán chứng khoán phải tiến hành
công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong định nghĩa về IPO cần lưu ý tới các điểm sau:
(1) .Để hiểu định nghĩa IPO, cần hiểu khái niệm phát hành cổ phiếu lần
đầu. Phát hành cổ phiếu lần đầu là việc một công ty lần đầu tiên thực hiện
đợt phát hành cổ phiếu của mình cho công chúng.
(2) .Khái niệm IPO dễ bị lẫn lộn với một khái niệm khác là phát hành sơ
cấp. IPO là một bộ phận của phát hành sơ cấp, do đó, phát hành sơ cấp
chưa chắc đã là IPO. Điểm khác nhau quan trọng giữa IPO và phát hành sơ
cấp là phát hành sơ cấp là việc phát hành chứng khoán mới, còn IPO phải
là lần phát hành chứng khoán đầu tiên của một công ty. Từ đó có thể thấy
một công ty có thể có nhiều lần phát hành sơ cấp nhưng chỉ có duy nhất
một lần phát hành IPO.
(3) .Tiếp theo lần phát hành IPO, những lần phát hành tiếp thêm các cổ
phiếu ra công chúng của một công ty được gọi là phát hành bổ sung (SOEs
– seasoned equity offerings).
(4) .Công chúng trong định nghĩa về IPO được hiểu là một số lượng lớn
nhất định các nhà đầu tư tham gia mua một tỷ lệ nhất định chứng khoán
phát hành. Tỷ lệ này phụ thuộc vào quy định cho phép của Nhà nước,
SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 19



Chương 2: Ứng dụng phương pháp hệ số P/E để thẩm định công ty OPC
thường thì các nước khác nhau có tỷ lệ khác nhau. Điều 3 khoản 7 Nghị
định 144/2003/NĐ-CP Về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán quy
định: “Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc chào bán một đợt
chứng khoán có thể chuyển nhƣợng đƣợc thông qua tổ chức trung gian
cho ít nhất 50 nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành.”
(5) .Việc phát hành IPO phải gắn liền với việc cổ phiếu này sẽ phải được
giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán. Khi đó, đối tượng các nhà đầu tư
sẽ rất rộng. Họ sẽ mua cổ phiếu nhằm nhiều mục đích khác nhau: Mua để
đầu tư, mua để đầu cơ, ăn chênh lệch giá…
(6) .Phát hành IPO có các đặc điểm sau: Chứng khoán phát hành là
những chứng khoán có chất lượng cao; Công ty phát hành là các công ty có
triển vọng phát triển trong tương lai.
2.1.2.Điều kiện phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng của các
doanh nghiệp Việt Nam
Điều kiện phát hành
Theo điều 12 của bộ luật chứng khoán được Quốc hội thông qua vào
ngày 29/6/2006 thì điều kiện để chào bán chứng khoán lần đầu ra công
chúng gồm có:
a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký
chào bán từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế
toán.
b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán
phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán.
c) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ
đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua.
Nói một cách cụ thể, tiêu chuẩn mà các công ty phải đáp ứng trước khi được
phép phát hành chứng khoán ra công chúng được chia ra làm hai nhóm tiêu chuẩn
SVTH: Nguyễn Minh Nhật


Trang 20


Chương 2: Ứng dụng phương pháp hệ số P/E để thẩm định công ty OPC
bao gồm nhóm các tiêu chuẩn định lượng và nhóm các tiêu chuẩn định tính
* Các chỉ tiêu định lƣợng
1.Công ty phải có quy mô nhất định;
2.Công ty phải hoạt động có hiệu quả trong một số năm liên tục trước
khi xin phép phát hành ra công chúng;
3.Tổng giá trị của đợt phát hành phải đạt quy mô nhất định;
4.Một tỷ lệ nhất định của đợt phát hành phải được bán cho một số lượng
quy định công chúng đầu tư;
5.Các thành viên sáng lập của công ty phải cam kết nắm một tỷ lệ nhất
định vốn cổ phẩn của công ty trong một khoảng thời gian quy định.
* Các chỉ tiêu định tính
1.Các nhà quản lý công ty bao gồm thành viên ban giám đốc điều hành
và hội đồng quản trị phải có trình độ và kinh nghiệm quản lý công ty;
2.Cơ cấu tổ chức của công ty phải hợp lý và phải vì lợi ích của các nhà
đầu tư. Có nghĩa là cơ cấu công ty phải hạn chế ở mức độ cao nhất những
xung đột liên quan đến quyền lợi của các bên liên quan, xung đột giữa chủ
sở hữu và nhà quản lý v.v…;
3.Các báo cáo tài chính, bản cáo bạch và các tài liệu cung cấp thông tin
của công ty phải có độ tin cậy cao nhất. Điều này có nghĩa là các báo cáo
tài chính của công ty phải được kiểm toán bởi các tổ chức kiểm toán có uy
tín. Các tài liệu khác phải được lập theo đúng quy định, ngôn từ và các ký
hiệu trong các tài liệu phải rõ ràng và phải được lập hay thẩm tra của các tổ
chức theo quy định;
4.Công ty phải có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ
đợt phát hành;

Công ty phải được một hoặc một số các tổ chức bảo lãnh phát hành đứng ra
cam kết bảo lãnh cho đợt phát hành

SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 21


Chương 2: Ứng dụng phương pháp hệ số P/E để thẩm định công ty OPC
Việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng của các công ty
thường phải đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn cao của các cơ quan quản lý
thị trường chứng khoán và phải hoàn thành các thủ tục khá phức tạp trước
và sau khi phát hành chứng khoán ra công chúng. Nguyên nhân khiến các
cơ quan quản lý đặt ra các yêu cầu cao cho việc phát hành IPO là do:
1.

Phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng là việc phát hành

chứng khoán cho một số lượng lớn công chúng đầu tư. Nhiều người trong
số đó là các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư không có sự hiểu biết và khả
năng phân tích cao về chứng khoán. Để bảo vệ các nhà đầu tư này, chứng
khoán phát hành phải là các chứng khoán có chất lượng cao và công ty phát
hành phải là các công ty có triển vọng phát triển trong tương lai.
2.

Do các công ty nêu trên là các công ty lần đầu phát hành ra công

chúng nên các thông tin liên quan đến các công ty không được nhiều người
biết đến. Các chuyên gia phân tích cũng không có điều kiện theo dõi các
công ty này trước khi công ty thực hiện việc phát hành . Việc đưa ra các

yêu cầu cao về chất lượng đối với các công ty lần đầu phát hành ra công
chúng là để bù đắp những sự thiếu hụt về thông tin cho công chúng đầu tư.
3. Ở các nước đang trong giai đoạn xây dựng thị trường chứng khoán
như Việt Nam, thị trường chứng khoán còn là một khái niệm mới mẻ nên
nhiều tầng lớp dân cư còn dè dặt trong việc chọn thị trường chứng khoán là
nơi đầu tư các khoản tiết kiệm của mình. Việc đưa ra các loại hàng hoá có
chất lượng cao sẽ bước đầu tạo dựng được niềm tin cho công chúng vào thị
trường chứng khoán và đây cũng được coi là một trong những biện pháp
kích cầu chứng khoán trong giai đoạn đầu thành lập thị trường.
2.1.3.Quy trình tiến hành IPO
Thông thường việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng
được thực hiện theo các bước sau:
SVTH: Nguyễn Minh Nhật

Trang 22


×