Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Luận Văn Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Tại Ngân Hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.71 KB, 116 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

6

1.1. Sự cần thiết phát triển tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa Việt Nam
1.2. Hình thức và đặc điểm tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa

6

tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
22
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 32
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

40

2.1. Tổng quan hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam
2.2. Thực trạng tiếp cận tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và


40

vừa Việt Nam
2.3. Hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân

47

hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

56

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TÍN
DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

81

3.1. Phương hướng mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
3.2. Các giải pháp phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

81
84


KẾT LUẬN

108


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

110

AFTA

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

(ASEAN Free Trade Agreement)
BIDV

:

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

(Bank of Investment and Development)
BLC1

:

Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và

Phát triển Việt Nam
CTTC

:

Cho thuê tài chính


DNNN

:

Doanh nghiệp nhà nước

DNNQD

:

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh

DNTN

:

Doanh nghiệp tư nhân

DNNVV

:

Doanh nghiệp nhỏ và vừa

NHNN

:

Ngân hàng nhà nước


NHTM

:

Ngân hàng thương mại

TDNH

:

Tín dụng ngân hàng

TMCP

:

Thương mại cổ phần

TNHH

:

Trách nhiệm hữu hạn

VCCI

:

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam


WTO

:

Tổ chức thương mại thế giới
(World Trade Organization)
DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của BIDV giai đoạn 2005-2008 42
Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn vốn huy động của BIDV giai đoạn 2006-2008

44

Bảng 2.3: Số lượng DNNVV đăng ký kinh doanh mới từ năm 2000

47

Bảng 2.4: Tổng vốn đầu tư của các DNNVV (năm 2002)

49

Bảng 2.5: Kết quả hoạt động tín dụng đối với các DNNVV

53

Bảng 2.6: Khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của DNNVV


55

Bảng 2.7: Tình hình dư nợ đối với DNNVV của BIDV

56

Bảng 2.8: Cơ cấu dư nợ đối với DNNVV trong tổng dư nợ của BIDV

57

Bảng 2.9: Tình hình dư nợ đối với DNNVV theo thời hạn

58

Bảng 2.10: Tình hình dư nợ tín dụng đối với DNNVV theo thành phần
kinh tế
Bảng 2.11: Vòng quay vốn tín dụng đối với DNNVV

59
61

62
Bảng 2.13: Tỷ lệ nợ khó đòi của các DNNVV tại BIDV

64

Bảng 2.14: Cơ cấu khách hàng DNNVV của BLC1

66


Bảng 2.15: Tỷ lệ nợ quá hạn DNNVV theo loại hình doanh nghiệp thuê
tại BLC1 năm 2008

67

Bảng 2.16: Cơ cấu tài sản cho thuê tài chính đối với DNNVV của BLC1

68

Bảng 3.1: Phân loại khách hàng

93

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Tổng tài sản của BIDV giai đoạn 2004 - 2008 42


Biểu đồ 2.2: Lợi nhuận trước thuế của BIDV 2004 - 2008 43
Biểu đồ 2.3: Vốn chủ sở hữu của BIDV 2004 -2008

44

Biểu đồ 2.4: Tăng trưởng tín dụng của BIDV qua các năm

46

Biểu đồ 2.5: Mức gia tăng dư nợ CTTC đối với DNNVV của BLC1
giai đoạn 2001-2008


66

Biểu đồ 2.6: Nợ quá hạn DNNVV theo loại hình doanh nghiệp thuê của
BLC1 năm 2008

67


1
M U
1. Tớnh cp thit ca ti
Ngõn hng u t v Phỏt trin Vit Nam (BIDV) c thnh lp ngy
26/4/1957, l mt trong nhng ngõn hng ln nht Vit Nam hin nay.
Trc nm 2000, ngõn hng ch yu tp trung vo cỏc d ỏn ln, cỏc Tng
cụng ty ln ca Nh nc, nờn thng c bit n nh l mt ngõn hng
ca Chớnh ph. n nay, trong iu kin phỏt trin mnh m ca c ch th
trng, ngõn hng ó cú nhng nh hng mi trong chin lc hot ng,
trong ú cú hot ng tớn dng. Giai on 2001-2005, c cu tớn dng c
chuyn i mt cỏch cn bn t hot ng chớnh sỏch (cho vay theo k hoch
Nh nc) l ch yu sang cho vay thng mi. Mt trong nhng mc tiờu
BIDV t ra l t c s thay i mnh m v c cu, c bit l chuyn
dch c cu khỏch hng. T nm 2005, BIDV ó xỏc nh mc tiờu u tiờn
phỏt trin tớn dng doanh nghip nh v va (DNNVV). õy l mt bc
chuyn bin phự hp vi iu kin trong lnh vc tớn dng xut hin ngy
cng nhiu ngõn hng cựng tham gia cnh tranh v DNNVV ang tr thnh
i tng khỏch hng nhiu tim nng.
Vit Nam cng nh cỏc nc khỏc trờn th gii, DNNVV ang ngy
cng khng nh vai trũ i vi nn kinh t. Theo thng kờ, DNNVV chim
ti 95% trong tng s doanh nghip ti Vit Nam, úng gúp trờn 40% GDP,
thu hỳt hn 50% tng s lao ng, chim 17,26% tng np ngõn sỏch nh

nc. iu quan trng l DNNVV cú vai trũ to ln trong mi quan h gn kt
vi cỏc doanh nghip cú quy mụ ln hn, gúp phn chuyn dch c cu kinh
t, khai thỏc tim nng t nc.
Những năm gần đây, chúng ta đã bắt đầu nhận thức và quan tâm
đến tầm quan trọng của DNNVV, th hin trong cỏc ch trng, chớnh sỏch
ln ca ng v Nh nc ta nh: Hin phỏp 1992, Lut doanh nghip nm
1999 (cú hiu lc t ngy 1/1/2000) ó chớnh thc thc tha nhn v to iu


2
kiện bình đẳng về pháp lý cho hoạt động của DNNVV; Nghị định
90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ; Chỉ thị 40/2005/CT-TTg ngày 16/12/2005 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa; DNNVV 2005-2010. Chính phủ cũng không ngừng có
những bước tiến tích cực trong việc tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ
các nước có DNNVV hoạt động hiêu quả, thông qua các cuộc hội thảo trong
và ngoài nước, và khuyến khích các dự án phát triển DNNVV ở nước ta.
Ngµy 29/11/2000, tại Hà nội, Ngân hàng thế giới (WB) đã công bố bản báo
cáo: “Việt Nam tiến vào thế kỷ 21” với đề xuất đưa ra 6 trụ cột của chiến lược
phát triển nền kinh tế Việt nam và trụ cột đầu tiên là: “Tạo dựng môi trường
giúp đỡ các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV”.
Mặc dù vậy, với đặc thù và nhiều bất lợi, DNNVV chịu nhiều tác động
tiêu cực khi nền kinh tế có những biến động lớn. Trong những năm gần đây,
khi Việt Nam đã tham gia hội nhập quốc tế, các DNNVV Việt Nam vẫn đang
gặp phải rất nhiều thách thức, trong đó khó khăn lớn nhất là thiếu vốn. Kênh
huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp là các ngân hàng thương mại, tuy
nhiên, phần lớn tín dụng tập trung vào các doanh nghiệp lớn, vì vậy các
DNNVV phải huy động vốn từ các nguồn không chính thức như: vốn tiết
kiệm của chủ doanh nghiệp, vốn vay cá nhân thông qua các mối quan hệ thân

tín, vay vốn của nhau với lãi suất cao hơn 3 - 6 lần so với lãi suất ngân hàng.
Ngoài ra, tuy lãi suất vay ngân hàng thấp nhưng các thủ tục vay rất phức tạp
với những quy định khắt khe về tài sản thế chấp và xem xét tín khả thi của dự
án khiến cho DNNVV càng khó tiếp cận nguồn vốn vay và dễ lâm vào tình
trạng thiếu vốn trầm trọng.
Sự chuyển dịch cơ cấu khách hàng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam, trong đó có việc tập trung nhiều hơn vào các DNNVV xuất phát từ
sự nhận thức rõ vai trò, tiềm năng và điều kiện khó khăn về vốn của các
doanh nghiệp này. Đồng thời, trong điều kiện phát triển của DNNVV Việt


3

Nam hiện nay, BIDV cũng nhận thấy nhiều lợi ích thiết thực từ việc phát triển
tín dụng đối với DNNVV. Tuy Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam mở
rộng quan hệ tín dụng với đối tượng khách hàng này chậm hơn nhiều ngân
hàng thương mại khác nhưng với tiềm năng và uy tín của mình, BIDV có
nhiều cơ hội thành công nếu có những phương hướng, giải pháp đúng đắn.
Vì vậy, tác giả luận văn lựa chọn vấn đề “Tín dụng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ” làm đề
tài nghiên cứu với mong muốn từ việc tổng kết lý luận và phân tích thực trạng
chuyển biến hoạt động tín dụng đối với DNNVV tại Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam để tìm ra những giải pháp mang lại lợi ích thiết thực cho
cả ngân hàng và DNNVV.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp
phát triển DNNVV ở nước ta, đặc biệt là giải pháp tăng cường hỗ trợ TDNH,
đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu dưới những góc độ và quy mô
khác nhau như: công trình của GS. TS Nguyễn Đình Hương - “Giải pháp
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, 2002; công trình nghiên cứu “Chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV ở
Việt Nam” và “Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV ở Việt
Nam đến năm 2005”do PGS, PTS Nguyễn Cúc chủ trì; công trình của hai tác
giả Vũ Quốc Tuấn và Hoàng Thu Hoà - “Phát triển DNNVV, kinh nghiệm nước
ngoài và phát triển DNNVV ở Việt Nam”, Nxb thống kê, 2001; Luận án Tiến sĩ
kinh tế “Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế”, do tiến sĩ Phạm Văn Hồng thực hiện năm 2007. Ngoài ra, đã có
nhiều dự án liên quan như: dự án của Uỷ ban tài trợ phát triển các doanh
nghiệp nhỏ về “Dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh đối sự phát triển của các
DNNVV”, 1997; Dự án USNIE/95/004 về “Hoàn thiện chính sách vĩ mô phát


4
triển DNNVV”; Bản “Nghiên cứu xúc tiến DN công nghiệp vừa và nhỏ” của
Viện nghiên cứu Nomura, tháng 10/1999.
Đối với hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, đã có
luận án Tiến sĩ kinh tế của TS. Trần Văn Hiệu - “Xây dựng nền khách hàng
bền vững tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” (2008) và một số
luận văn thạc sỹ khác nghiên cứu ở góc độ nghiệp vụ ngân hàng. Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị về
hoạt động tín dụng đối với DNNVV tại BIDV vì hoạt động này chỉ được triển
khai mạnh mẽ tại ngân hàng từ năm 2005 đến nay. Vì vậy việc tổng kết, đánh
giá, rút kinh nghiệm nhằm phát triển tín dụng đối với DNNVV cho tương
xứng với tiềm năng của BIDV là cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển tín dụng ngân
hàng nói chung và của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói riêng đối với các
DNNVV. Từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường tín dụng của Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam đối với nhóm doanh nghiệp này.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ sự cần thiết phát triển TDNH đối với DNNVV ở nước ta phù
hợp với những đặc thù của doanh nghiệp. Luận văn cũng nghiên cứu thực
trạng tình hình tiếp cận tín dụng ngân hàng của DNNVV nước ta từ khi có
Luật doanh nghiệp năm 2000 đến nay, tìm hiểu cụ thể hoạt động tín dụng của
BIDV đối với DNNVV. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp phát
triển tín dụng đối với DNNVV tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu khái quát tình hình phát triển và tiếp cận tín dụng
ngân hàng của DNNVV có đăng ký kinh doanh ở Việt Nam từ năm 2000 đến


5

nay, từ đó tập trung tìm hiểu hoạt động tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển đối với DNNVV giai đoạn 2005 - 2009.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, khoá luận đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
phương pháp trừu tượng hoá khoa học; phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận, luận văn hệ thống hoá những nội dung cơ bản về tín dụng
ngân hàng đối với DNNVV, gắn liền với những đặc thù của doanh nghiệp
trong điều kiện hiện nay, đồng thời làm rõ sự cần thiết phát triển tín dụng
ngân hàng đối với DNNVV nước ta.
Về thực tiễn, luận văn khái quát tình hình phát triển và tiếp cận tín dụng
ngân hàng của DNNVV Việt Nam, từ đó đi sâu nghiên cứu sự phát triển tín
dụng đối với DNNVV tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - một
trong những trường hợp điển hình của ngân hàng thương mại quốc doanh
đang trong quá trình hướng tới nhóm khách hàng DNNVV, tìm ra những bất

cập và đề xuất giải pháp khắc phục.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍN
DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm, hình thức của tín dụng ngân hàng
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng


6
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở
hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một
lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu [7].
Theo quan điểm này, phạm trù tín dụng có 3 nội dung chủ yếu là: tính
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả.
Như vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi
vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình
thức tiền tệ hoặc hàng hóa. Quá trình đó được thể hiện qua 3 giai đoạn sau:
Thứ nhất, phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Ở giai đoạn này,
giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, ở đây chỉ có một bên
nhận được giá trị và cũng chỉ một bên nhượng đi giá trị.
Thứ hai, sử dụng vốn trong quá trình tái sản xuất. Người đi vay sau khi
nhận được giá trị vốn tín dụng, họ được quyền sử dụng giá trị đó để thỏa mãn
nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của mình. Tuy nhiên, người đi vay chỉ được
quyền sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định mà không được quyền sở
hữu về giá trị đó.

Thứ ba, đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau
khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kì sản xuất để trở về hình thái tiền tệ
thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay.
Có nhiều hình thức tín dụng như: tín dụng thương mại, tín dụng ngân
hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng, tín dụng quốc tế…Trong đó, tín
dụng ngân hàng là hình thức phổ biến và có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế. Đồng thời, nó cũng giữ vị trí chủ chốt trong hoạt động của mỗi ngân hàng.
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân
hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất
định”[15].
Như vậy, tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ kinh tế giữa một bên
là ngân hàng một bên là khách hàng, trong đó ngân hàng chuyển tiền hay tài
sản cho khách hàng với những thoả thuận hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời


7

gian nhất định. Tín dụng ngân hàng bao gồm các hoạt động chính là: cho vay,
bảo lãnh, cho thuê tài chính.
Tín dụng ngân hàng khác với các loại hình tín dụng khác là ngân hàng
cho khách hàng vay từ nguồn vốn nhận gửi từ dân cư, các doanh nghiệp, các
tổ chức khác…và hưởng lợi từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi.
Tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng nhưng cũng là
hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì vậy tín dụng ngân hàng phải tuân
thủ chặt chẽ các nguyên tắc cơ bản.
1.1.1.2. Hình thức tín dụng ngân hàng
Căn cứ thời hạn tín dụng có thể phân chia thành các loại tín dụng sau:
Một là, cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới một năm.
Mục đích của loại cho vay này thường là tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản
lưu động

Hai là, cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
Mục đích của loại cho vay này là tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
Ba là, cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, loại cho
vay này thường nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án lớn.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, có các loại tín dụng sau:
Thứ nhất, cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
Thứ hai, cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo
đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba
khác.
Dựa vào phương thức vay, tín dụng có thể chia thành hai loại là: cho
vay theo món vay và cho vay theo hạn mức tín dụng.
Căn cứ vào phương thức hoàn trả vốn vay, có các loại tín dụng sau:


8
Một là, cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ
một lần khi đáo hạn.
Hai là, cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp
Ba là, Cho vay trả nợ nhiều lần phụ thuộc vào khả năng tài chính của
người đi vay.
Việc lựa chọn hình thức vay phụ thuộc vào điều kiện sản xuất kinh
doanh của khách hàng và mức độ đáp ứng yêu cầu quy định của ngân hàng
đặt ra.
1.1.2. Vai trò và đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các quốc gia sử dụng tiêu chí khác nhau để phân loại doanh nghiệp nhỏ
và vừa. Hiện nay có hai nhãm tiªu chÝ phæ biÕn là: tiêu chí định tính và tiêu
chí định lượng.

Tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của các DNNVV
như: trình độ chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít…Tiêu chí này có ưu
thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên
thực tế, do đó ít được sử dụng.
Tiêu chí định lượng gồm các tiêu thức như: số lao động, giá trị tài sản
hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Ở các nước, những tiêu chí này rất đa dạng,
trong 12 nước và khu vực thuộc APEC, tiêu chí số lao động được sử dụng phổ
biến nhất (11/12 nước sử dụng, chiếm 91,67%). Các tiêu chí khác tuỳ theo
điều kiện từng nước: vốn đầu tư (3/12 nước sử dụng, chiếm 25%), tổng giá trị
tài sản (4/12 nước sử dụng, chiếm 33,33%, doanh thu (4/12 nước sử dụng,
chiếm 33,33%), tỷ lệ vốn góp (1/12 nước sử dụng, chiếm 8,33%). Số lượng
tiêu chí chỉ có từ một đến hai và cao nhất là ba tiêu chí phân loại.
Việt Nam phân loại DNNVV theo tiêu chí phổ biến nhất là số lao động
thường xuyên và vốn sản xuất. Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng
11 năm 2001 quy định: “DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ


9

đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Theo tiêu
chí này thì hầu hết doanh nghiệp của nước ta đều là DNNVV, đối tượng
DNNVV được đề cập tới bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước, hoặc hộ kinh
doanh cá thể thoả mãn các tiêu chí của Nghị định 90.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có tiêu chí xác định DNNVV
để đáp ứng nhu cầu quản lý, điều hành như sau:
Đối với doanh nghiệp đủ điều kiện xếp hạng trên Hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ của BIDV ở mức quy mô vừa (điểm quy mô từ 12 đến 21 điểm)
và quy mô nhỏ (điểm quy mô dưới 12 điểm).

Đối với doanh nghiệp không đủ điều kiện xếp hạng trên Hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ của BIDV: DNNVV được xác định theo các tiêu chí
pháp luật quy định (hiện nay theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ).
1.1.2.2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của các nước tư bản có nền
đại công nghiệp phát triển gắn với những công ty, tập đoàn kinh tế lớn - vốn
khởi đầu từ những xí nghiệp, công trường thủ công sản xuất nhỏ. Trong quá
trình phát triển, sự tích tụ và tập trung vốn cùng với quá trình cạnh tranh gay
gắt giữa những xí nghiệp trong nước và ngoài nước đã tạo ra những tập đoàn
kinh tế lớn như ngày nay. Tuy vậy, ngay cả ở các nước tư bản phát triển, các
DNNVV vẫn giữ một vị trí quan trọng. Sau mỗi thời kỳ suy thoái kinh tế, khu
vực DNNVV luôn trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy và mở rộng cạnh
tranh, ổn định kinh tế, phòng ngừa nguy cơ khủng hoảng. Đặc biệt, khi cuộc
Cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng phát triển đã tạo điều kiện cho
các DNNVV nhiều cơ hội tập trung kỹ thuật, có khả năng sản xuất các sản
phẩm không thua kém các doanh nghiệp lớn. Mặc khác, xét trên phạm vi toàn
cầu hiện nay, các doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh giá cả sang cạnh


10
tranh về chất lượng và công nghệ. Trong điều kiện này, lợi thế của các doanh
nghiệp có quy mô lớn sẽ bị giảm sút. Sự phát triển của chuyên môn hoá và
hợp tác hoá đã làm phát triển mô hình sản xuất kiểu vệ tinh, trong đó các
DNNVV là vệ tinh của doanh nghiệp lớn.
Ở Việt Nam, vai trò của các DNNVV đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội thể hiện như sau:
Thứ nhất, DNNVV đóng góp đáng kể vào tổng sản lượng và tạo việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Hiện nước ta có trên 350.000 doanh nghiệp, trong đó DNNVV chiếm
95% với tổng số vốn khoảng 85 tỷ USD, hàng năm đóng góp hơn 40% GDP,

sử dụng trên 90% lao động có việc làm thường xuyên, tạo thêm 50% việc làm
mới - số liệu thực tế này đã cho thấy sự đóng góp của DNNVV đối với nền
kinh tế. Với yêu cầu về vốn đăng ký thành lập không lớn nên DNNVV thành
lập dễ dàng, chiếm tỷ lệ áp đảo trong tổng số doanh nghiệp, tuy mỗi DNNVV
không sử dụng số lượng lớn lao động nhưng với một tỷ trọng lớn trong nền
kinh tế nên bộ phận doanh nghiệp này mỗi năm đã giải quyết việc làm cho
khoảng 2/3 lực lượng lao động xã hội. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, vai trò
của DNNVV xét trên góc độ giải quyết việc làm càng thể hiện rõ nét do các
doanh nghiệp lớn phải cắt giảm lao động nhằm giảm chi phí sản xuất ứng phó
với điều kiện thị trường bị thu hẹp. Ngược lại, các DNNVV với đặc tính linh
hoạt, dễ thích ứng với thay đổi của thị trường nên vẫn có thể duy trì hoạt
động, vì vậy, Hội đồng doanh nghiệp thế giới khẳng định: “DNNVV là liều
thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất nghiệp khi nền kinh tế suy thoái”. Hiện
nay, mặc dù kinh tế thế giới đang trên đà suy thoái, các DNNVV Việt Nam
vẫn khá lạc quan về tăng trưởng kinh tế, kế hoạch đầu tư vốn, kế hoạch tuyển
dụng và phát triển thương mại quốc tế. Khảo sát gần đây cho thấy phần lớn
các DNNVV sẽ duy trì nhân sự hiện tại, trong đó 55% sẽ giữ nguyên nhân sự
và 45% sẽ tăng thêm nhân sự.
Thứ hai, DNNVV là trụ cột kinh tế của địa bàn tại chỗ.


11

Nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế
lớn thì DNNVV có mặt ở khắp các địa phương, tận dụng được cơ hội khai
thác tiềm năng và thế mạnh vốn có của từng địa bàn nơi đóng trụ sở sản xuất
kinh doanh. Sự tồn tại và hoạt động của DNNVV đã góp phần thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi, cân đối ở các vùng, miền, giải
quyết được vấn đề an sinh xã hội của địa phương nói riêng và cả nước nói
chung. Đặc biệt là đối với các làng nghề truyền thống, các DNNVV hoạt động

sẽ mở rộng quy mô sản xuất, duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm truyền
thống, tập hợp và đào tạo lực lượng lao động tay nghề giỏi, góp phần quan
trọng vào việc thúc đẩy quá trình khôi phục và phát triển làng nghề theo chủ
trương của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, DNNVV có khả năng thu hút, tận dụng các nguồn lực xã hội
một cách có hiệu quả.
Đối với nguồn lực vốn:
Vốn là yếu tố có vai trò tiên quyết trong hoạt động của các DNNVV. Để
khởi sự và duy trì, phát triển sản xuất kinh doanh, các DNNVV không chỉ vay
vốn từ ngân hàng mà còn huy động vốn trong dân cư thông qua các mối quan
hệ cá nhân của doanh nghiệp. Vốn cho một DNNVV tuy không nhiều nhưng
thường xuyên và số lượng DNNVV rất lớn, vì vậy, thông qua hoạt động của
DNNVV, một lượng lớn tiền nhàn rỗi đã được đưa vào hoạt động sản xuất
kinh doanh, tạo nên vòng chu chuyển vốn sinh lời có ích cho bản thân doanh
nghiệp và nền kinh tế.
Đối với nguồn lực lao động:
Phần lớn các DNNVV hoạt động trong các ngành nghề thu hút được
nhiều lao động như: thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến
nông sản, thủ công mỹ nghệ, xây dựng…Yêu cầu về trình độ lao động không
cao, do đó tận dụng được nguồn lao động thủ công với chi phí thấp. Mặt khác,


12
trong quá trình sử dụng, DNNVV đồng thời đào tạo, nâng cao trình độ tay
nghề cho người lao động.
Về kỹ thuật và nguồn nguyên vật liệu:
Phần lớn DNNVV có kỹ thuật sản xuất bán thủ công, thiết bị chủ yếu
được sản xuất trong nước phù hợp với điều kiện trình độ lao động phổ thông
đang chiếm số lượng lớn ở nước ta. DNNVV phân bố ở hầu hết các địa
phương nên có khả năng khai thác được nguồn nguyên liệu sẵn có, giảm bớt

chi phí và thời gian vận chuyển.
Thứ tư, DNNVV tạo sự linh hoạt, năng động và có khả năng ổn định
nền kinh tế.
Về lý thuyết, DNNVV dễ điều chỉnh hoạt động của mình để đáp ứng đa
dạng nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ. Mặt khác, ở phần
lớn các nền kinh tế, các DNNVV là những nhà thầu phụ, gia công, vệ tinh cho
các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ, gia công tại các thời
điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định cần thiết, vì vậy, DNNVV được
ví là thanh giảm sóc cho nền kinh tế. Sự cạnh tranh không ngừng của các
DNNVV là tất yếu, từ đó thanh lọc được các doanh nghiệp yếu kém, vừa nâng
cao chất lượng sản phẩm cung ứng cho thị trường, hạn chế khả năng lũng
đoạn thị trường của các doạnh nghiệp lớn.
Thứ năm, DNNVV có vai trò quan trọng trong lĩnh vực phân phối lưu
thông, góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn hàng xuất khẩu.
Trong quá trình tái sản xuất xã hội, hàng hoá từ khâu sản xuất đến tiêu
dùng phải qua khâu trung gian đó là khâu lưu thông. Các doanh nghiệp lớn
không thể tổ chức riêng một mạng lưới bán lẻ để tiêu thụ hàng hoá của mình
mà phải thông qua các DNNVV do lợi thế của nhóm doanh nghiệp này rất
thích hợp với lĩnh vực kinh doanh thương mại và thực hiện các dịch vụ bán lẻ.
Ở Việt Nam, hiện DNNVV chiếm khoảng 31% tổng sản lượng công nghiệp
hàng năm, 78% doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 64% khối lượng vận
chuyển hành khách và hàng hoá.


13

Trong điều kiện mở cửa hội nhập, hợp tác phát triển kinh tế giữa các
quốc gia là một tất yếu thì việc khai thác lợi thế so sánh, xuất khẩu các sản
phẩm truyền thống, mang đậm bản sắc dân tộc trở nên quan trọng và mang
tính mục tiêu. Với đặc điểm phân bố rộng khắp các địa phương, DNNVV có

thế mạnh trong việc sản xuất những sản phẩm thủ công mỹ nghệ, khai thác và
chế biến thuỷ hải sản, nông sản, may mặc…nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ cho
đất nước.
Công cuộc đổi mới từ năm 1990 trở lại đây làm cho nền kinh tế nước ta
phát triển nhanh, ổn định, đẩy lùi lạm phát, tăng xuất khẩu và thu hút đầu tư
nước ngoài. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới ngày càng mở
rộng và phát triển. Với những lợi ích to lớn đó, việc khuyến khích, hỗ trợ,
phát triển các DNNVV là một giải pháp quan trọng để thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, đặc biệt là công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp nông thôn.
1.1.2.3. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
Những đặc điểm thuộc về thế mạnh của DNNVV
Một là, DNNVV có vốn đầu tư ban đầu ít, thu hồi vốn nhanh và hiệu
quả.
Số vốn đăng ký ban đầu của DNNVV không quá 10 tỷ đồng và chu kỳ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngắn nên khả năng thu hồi vốn nhanh,
tăng tốc độ quay vòng vốn để đầu tư vào công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại tạo
điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả.
Hai là, DNNVV tồn tại và phát triển ở hầu hết các lĩnh vực, các thành
phần kinh tế, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Các DNNVV hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế: thương
mại, dịch vụ, công nghiệp, xây dựng, nông - lâm - ngư nghiệp…và hoạt động
dưới nhiều hình thức: DNNN, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty


14
trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cơ sở
kinh tế cá thể.
Ba là, DNNVV có tính năng động và linh hoạt cao trước những thay
đổi của thị trường; có khả năng chuyển hướng sản xuất, kinh doanh và chuyển

hướng mặt hàng nhanh vì vốn đầu tư ít; quy mô nhỏ và thu hồi vốn nhanh.
Mặt khác, do DNNVV tồn tại ở mọi thành phần kinh tế nên khi không thích
ứng được với nhu cầu của thị trường, với loại hình sản xuất - kinh doanh này
thì doanh nghiệp có thể dễ dàng chuyển hướng sang loại hình khác cho phù
hợp với thị trường.
Bốn là, DNNVV có khả năng chấp nhận rủi ro, mạo hiểm: xuất phát từ
quy mô nhỏ, vốn đầu tư không lớn nên doanh nghiệp có thể mạnh dạn tham
gia vào những ngành mới, lợi nhuận ban đầu thấp hoặc những ngành sản xuất
ra những sản phẩm chỉ đáp ứng những nhu cầu cá biệt.
Năm là, DNNVV có bộ máy tổ chức sản xuất, quản lý gọn nhẹ: với quy
mô nhỏ, số lượng lao động ít, công tác quản lý điều hành mang tính trực tiếp,
quan hệ giữa người quản lý với người lao động khá chặt chẽ. Các quyết định
quản lý được đưa ra và thực hiện nhanh chóng, không ách tắc và trách nhiệm
phiền hà nên có thể tiết kiệm tối đa chi phí quản lý doanh nghiệp.
Những đặc điểm hạn chế của DNNVV
Một là, quy mô vốn và năng lực tài chính còn hạn chế nên DNNVV khó
tiếp cận các kênh huy động vốn. Với đặc trưng quy mô kinh doanh là vừa và
nhỏ, vốn điều lệ ban đầu thấp (dưới 10 tỷ đồng) nên các DNNVV thường
không đáp ứng được nhu cầu vốn cho đầu tư. Nguồn tài chính hạn hẹp, quy
mô lợi nhuận nhỏ dẫn đến tỷ lệ vốn từ lợi nhuận đạt được không cao, tích tụ
tập trung để tái sản xuất diễn ra chậm, giá trị tài sản thuần thấp (tổng giá trị tài
sản của doanh nghiệp sau khi trừ đi nợ phải trả), uy tín trên thương trường
không cao… nên các nhà đầu tư coi đây là khu vực nhiều rủi ro. Chính vì vậy
DNNVV gặp nhiều trở ngại khi tiếp cận các kênh huy động vốn trong nền
kinh tế.


15

Hai là, năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất kinh doanh còn yếu:

Nguồn tài chính hạn chế đã khiến cho các DNNVV không có điều kiện
đầu tư quá nhiều vào việc nâng cấp, đổi mới máy móc, mua sắm thiết bị công
nghệ tiên tiến, hiện đại, càng không thể tập trung nhiều vào công tác nghiên
cứu khoa học kỹ thuật.
Ba là, thị trường nhỏ hẹp và năng lực cạnh tranh hạn chế.
Do hạn chế về vốn, công nghệ, lao động, nên các DNNVV chỉ hoạt
động trong phạm vi nhỏ, đáp ứng yêu cầu cho một đoạn thị trường nhất định.
Việc sử dụng các công nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng sản phẩm không cao,
tính cạnh tranh trên thị trường kém. DNNVV cũng gặp nhiều khó khăn trong
việc tìm kiếm, thâm nhập thị trường và phân phối sản phẩm do thiếu thông tin
về thị trường, công tác marketing còn kém hiệu quả.
Bốn là, năng lực quản lý còn thấp.
Phần lớn DNNVV mới chỉ hoạt động trong thời gian ngắn nên trình độ,
kỹ năng của chủ doanh nghiệp cũng như của người lao động còn hạn chế. Số
lượng DNNVV có chủ DN, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng
lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc
doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý,
còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh. Mặt khác,
DNNVV ít có khả năng thu hút được những nhà quản lý và lao động có trình
độ, tay nghề cao do không thể trả lương cao kèm theo các chính sách đãi ngộ
hấp dẫn để thu hút và giữ chân những nhà quản lý và những người lao động
giỏi.
Năm là, sự liên kết giữa các DNNVV còn hạn chế
Tuy bước đầu đã có một số hiệp hội, tổ chức nghề nghiệp ra đời tập hợp
các DNNVV nhưng mới chỉ ở mức độ trao đổi kinh nghiệm, thông tin, cùng
đưa ra kiến nghị về chính sách, pháp luật…Phần lớn các DNNVV chưa có sự
liên kết chặt chẽ trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng tổ chức


16

phân công lao động sản xuất sâu, rộng; hỗ trợ nhau về vốn, công nghệ, kỹ
thuật; cùng nhau giải quyết những vấn đề phát sinh trong các khâu của quá
trình sản xuất nhằm nâng cao sức cạnh tranh.
Mặt khác, sự liên hợp tác, liên kết giữa các DNNVV và các doanh
nghiệp lớn còn hạn chế, vì vậy chưa khai thác được lợi thế nhờ quy mô của
hai khu vực này.
1.1.3. Tác dụng của sự phát triển tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
1.1.3.1. Tác dụng của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa
Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh
nghiệp.
Hiện nay để thực hiện các quyết định đầu tư, doanh nghiệp có thể sử
dụng hai nhóm nguồn vốn là: vốn tự có và vốn đi vay. Tuy nhiên, nhu cầu vay
vốn của doanh nghiệp không được đáp ứng và quy mô của khoản vay còn tùy
thuộc vào các điều kiện của doanh nghiệp, các quy định vay vốn của ngân
hàng, pháp luật của Nhà nước… Mặt khác, nếu quy mô vốn vay quá lớn sẽ
làm tăng chi phí trả lãi dẫn đến tăng giá sản phẩm, ảnh hưởng đến lợi nhuận
của doanh nghiệp. Do vậy buộc doanh nghiệp phải xây dựng cơ cấu vốn tối
ưu. Đây là sự kết hợp tốt nhất các nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của
một doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hóa giá trị thị trường của doanh
nghiệp tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho sự ra đời và phát triển của các DNNVV.
Ngân hàng hỗ trợ cho DNNVV từ lúc bắt đầu khởi sự và trong suốt quá
trình hoạt động, phát triển của doanh nghiệp. Nếu không có sự hỗ trợ này, các
DNNVV sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật
cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thậm chí không thành lập được. Nhiều
doanh nghiệp ra đời, song do hạn chế về vốn nên không có khả năng sử dụng
công nghệ, thiết bị hiện đại dẫn đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh



17

không cao, thiếu sức cạnh tranh và khó đứng vững trên thương trường. Để có
thể hoạt động thường xuyên, liên tục, các DNNVV phải có đủ vốn để đáp ứng
nhu cầu sản xuất kinh doanh, trong khi nguồn vốn tự có và vốn vay không
chính thức của doanh nghiệp rất hạn chế. Vì vậy vốn tín dụng ngân hàng là
một giải pháp hữu hiệu. Tín dụng ngân hàng còn giúp các DNNVV tái sản
xuất mở rộng, phát triển các ngành nghề mũi nhọn.
Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của
DNNVV trên thị trường.
Đặc trưng của tín dụng ngân hàng không chỉ là tài trợ vốn mà còn phải
đảm bảo hoàn trả gốc và lãi đúng hạn. Do vậy, khi sử dụng vốn vay, các
doanh nghiệp không phải chỉ thu hồi đủ vốn mà còn phải tìm mọi biện pháp
sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Mặt khác, các ngân hàng chỉ cho vay
khi đã thẩm định đầy đủ, kỹ càng mọi yếu tố liên quan đến doanh nghiệp,
trong đó đặc biệt là tính hiệu quả và khả thi của phương án, dự án kinh doanh
cần tài trợ vốn. Vì vậy, ngay từ khi thiết lập phương án sản xuất kinh doanh,
các doanh nghiệp đã phải nghiên cứu và phân tích kỹ nhằm tăng tính khả thi
của phương án, tăng cường sự tin tưởng của ngân hàng khi quyết định tài trợ.
Ngoài ra trong quá trình cấp tín dụng, ngân hàng còn tư vấn giúp cho các
doanh nghiệp đưa ra các quyết định đầu tư tốt nhất, đem lại lợi nhuận cao nhất
cho doanh nghiệp. Đồng thời công tác kiểm tra định kỳ của các ngân hàng đã
buộc các doanh nghiệp phải làm ăn đứng đắn, minh bạch, tuân thủ pháp luật.
Trên cơ sở đó năng lực cạnh tranh lành mạnh của DNNVV sẽ ngày càng được
nâng cao trên thị trường.
Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các
DNNVV thuộc loại hình doanh nghiệp nhà nước.
Trong thời gian qua Nhà nước ta đã và đang tập trung tiến hành cổ phần
hóa các DNNN. Cụ thể, các doanh nghiệp sau khi có quyết định cổ phần hóa

sẽ tự phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay các hình thức huy động vốn khác để


18
có vốn hoạt động. Trước tình hình đó, các ngân hàng cũng tập trung phát triển
các dịch vụ trên thị trường chứng khoán nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp huy
động vốn như dịch vụ lưu ký chứng khoán, mua bán cổ phiếu, trái phiếu, bảo
lãnh phát hành, tư vấn tài chính… Hơn nữa các doanh nghiệp cũng có thể sử
dụng các cổ phiếu, trái phiếu làm tài sản đảm bảo vay vốn tại ngân hàng. Với
hình thức cấp tín dụng này các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn khi tham gia
vào quá trình cổ phần hóa và đó chính là động lực thúc đẩy quá trình cổ phần
hóa hiện nay.
Tín dụng ngân hàng, đặc biệt là NHTM quốc doanh, là công cụ để Nhà
nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ và
giá cả, từ đó tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho DNNVV.
Thông qua tín dụng ngân hàng, đặc biệt là tín dụng của các ngân hàng
thương mại quốc doanh, có thể góp phần vào việc kiểm soát khối lượng tiền
cung ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ.
Với việc cung ứng tín dụng cho các chủ thể trong nền kinh tế, ngân hàng đã
góp phần làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông, thực hiện việc dẫn dắt các
luồng tiền; tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một
cách hiệu quả; thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô, góp phần tạo ra một
môi trường kinh doanh ổn định, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp
nói chung và DNNVV nói riêng.
Như vậy, để DNNVV có thể ra đời, tồn tại và phát triển cần sự hỗ trợ từ
phía ngân hàng thông qua nhiều loại hình dịch vụ, trong đó dịch vụ tín dụng là
chủ yếu. Vì vậy, việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNNVV là thực sự
quan trọng, cần thiết và đúng đắn, phù hợp với chủ trương, định hướng chính
sách tăng cường hỗ trợ phát triển DNNVV của Đảng và Nhà nước ta trong
thời kỳ đổi mới.

1.1.3.2. Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng


19

Các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ,
thu lợi nhuận chủ yếu từ việc cho vay. Doanh nghiệp nhỏ và vừa là loại hình
doanh nghiệp chiếm số lượng đông đảo nhất trong tổng số các doanh nghiệp ở
nước ta, vì vậy nếu ngân hàng khai thác hiệu quả nguồn thu từ việc tạo vốn
cho các DNNVV sẽ có điều kiện tăng lợi nhuận.
DNNVV góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế trước áp lực cạnh tranh ngày
càng gay gắt đặc biệt là với các đối thủ ngân hàng nước ngoài. Yêu cầu cấp
bách đặt ra cho các NHTM Việt Nam là phải tiến hành ngay công cuộc đổi
mới một cách toàn diện, một trong những nội dung quan trọng là hoạt động
tín dụng - một hoạt động cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn (70% - 80%) trên tổng tài
sản có sinh lời và là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chính cho các ngân
hàng Việt Nam.
Hiện nay, chất lượng tín dụng của các NHTM Việt Nam còn kém, tỷ
trọng nợ quá hạn, nợ xấu khá cao. Đặc biệt là các NHTM nhà nước trong cơ
cấu các khoản mục cho vay, tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp nhà nước là
chủ yếu - một thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, bước
vào hội nhập kinh tế quốc tế, nguy cơ nợ quá hạn, nợ xấu tiếp tục gia tăng từ
khu vực này là điều khó tránh khỏi. Tình trạng này đòi hỏi các NHTM cần
phải chuyển đổi cơ cấu danh mục đầu tư cho vay, mở rộng cho vay các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh (mà chủ yếu là các DNNVV và kinh tế tư nhân)
nhằm phân tán rủi ro giúp các ngân hàng vừa mở rộng vừa nâng cao chất
lượng tín dụng.
DNNVV làm phong phú thêm thị trường của các ngân hàng.

Tuy hoạt động với quy mô vừa và nhỏ, giao dịch vay vốn ngân hàng của
mỗi DNNVV không quá lớn nhưng với số lượng đông đảo, các DNNVV sẽ
trở thành những khách hàng mang lại lợi nhuận đáng kể cho ngân hàng.


20
Mặt khác, thị trường tài chính Việt Nam đang phát triển tương đối thuận
lợi, riêng thị trường chứng khoán tuy đang trong quá trình xây dựng phát triển
với nhiều biến động nhưng vẫn được đánh giá là có tiềm năng phát triển tốt,
điều đó dự báo trong tương lai gần các doanh nghiệp lớn, có tiềm lực tốt khi
cần huy động vốn sẽ không lựa chọn kênh tín dụng ngân hàng mà sẽ thông
qua thị trường chứng khoán với chi phí thấp hơn, nguồn vốn ổn định hơn, thủ
tục đơn giản hơn…Thực tế cũng cho thấy, các doanh nghiệp lớn đang có xu
hướng thành lập công ty tài chính, ngân hàng riêng để phục vụ cho nhu cầu
vốn của mình. Do đó ngân hàng không chỉ phải đối mặt với việc nguồn vốn
huy động bị “chảy” sang thị trường chứng khoán mà nguy cơ hoạt động tín
dụng bị thu hẹp cũng đang đến gần. Điều đó thúc đẩy các NHTM phải tìm
kiếm thị trường ngách, trong đó thị trường đầy tiềm năng là DNNVV và khu
vực kinh tế tư nhân.
Phát triển tín dụng đối với DNNVV là cần thiết đối với sự ổn định trong
hoạt động của ngân hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động, khả năng thay đổi linh
hoạt trong tổ chức và lĩnh vực kinh doanh cho phép DNNVV giữ được ổn
định cả về số lượng và hiệu quả kinh tế, từ đó bảo đảm an toàn cho các giao
dịch với ngân hàng. Trong khi đó, các doanh nghiệp lớn khi gặp khủng hoảng
thường phải thu hẹp sản xuất, sáp nhập, thậm chí phá sản gây ảnh hưởng bất
lợi cho ngân hàng.
Hơn nữa, theo xu hướng phát triển, các DNNVV đang ngày càng có vai
trò quan trọng và trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế. Đặc
biệt là Việt Nam bước vào hội nhập từ một nền kinh tế chưa phát triển,

DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc huy động tối đa các nguồn lực
cho đầu tư phát triển, giải quyết công ăn việc làm tạo thu nhập cho dân cư,
tăng GDP. Ước tính đến năm 2010, các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo việc
làm cho khoảng 20 triệu người.


21

Như vậy, việc ngân hàng mở rộng cho vay đối với các DNNVV là giải
pháp phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế và chủ trương đường lối
của Đảng và Nhà nước giúp cho các ngân hàng xây dựng được cơ cấu khách
hàng hợp lý, tăng trưởng tín dụng, đa dạng hóa các danh mục đầu tư cho vay,
phân tán rủi ro, tăng thu nhập nâng cao vị thế cạnh tranh cho các ngân hàng.
1.1.3.3. Phát triển tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa mang lại lợi ích thiết thực cho nền kinh tế
Một mặt, tín dụng ngân hàng đối với DNNVV thúc đẩy sự phát triển của
chính các doanh nghiệp, mặt khác là cách thức để tăng thu cho Ngân sách Nhà
nước thông qua việc nộp thuế và các nghĩa vụ khác của DNNVV đối với Nhà
nước. Ngoài ra, việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNNVV buộc các
ngân hàng phải phát huy tối đa năng lực của mình và tìm các biện pháp để có
thể huy động vốn, tăng cường tập trung, tích tụ những nguồn vốn nhàn rỗi
trong xã hội, từ đó mọi nguồn lực về vốn đã được khai thác một cách tối ưu
để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Tín dụng ngân hàng là một trong những công cụ quan trọng để nhà nước
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thông qua việc áp dụng những ưu đãi tín dụng,
nhà nước khuyến khích DNNVV thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển, đặc
biệt là các DNNVV trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ , góp
phần tham gia chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong thu nhập quốc dân.
Tín dụng ngân hàng cũng góp phần làm tăng nhanh vòng quay của vốn,

giảm lượng tiền mặt trong lưu thông vì các ngân hàng thương mại thường
xuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, đưa vào sản xuất kinh doanh
thông qua việc cho các doanh nghiệp vay, trong đó DNNVV chiếm số lượng
lớn. Các DNNVV cũng phân bố trên địa bàn rộng, sản xuất kinh doanh ở
nhiều lĩnh vực, vì vậy phát triển tín dụng đối với DNNVV góp phần thực hiện
điều hoà vốn trong nền kinh tế.


×