Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Xây dựng lộ trình tiến đến bảo hiểm y tế toàn dân tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (979.95 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

ĐÀO QUANG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2004


Trang 1

MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG ĐỀ TÀI
MỤC LỤC ĐỀ TÀI
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ ............................................3
1.1 NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA BẢO HIỂM Y TẾ ................................... 3
1.1.1 Nguồn gốc của Bảo hiểm Y tế......................................................................... 3
1.1.2 Bản chất của BHYT.......................................................................................... 4
1.2 VAI TRÒ CỦA BHYT............................................................................................ 7
1.2.1 Xét về mặt xã hội ............................................................................................. 7
1.2.2 Xét về mặt kinh tế ............................................................................................ 8
1.3 CÁC LOẠI HÌNH BHYT....................................................................................... 9
1.3.1 Bảo hiểm y tế bắt buộc .................................................................................... 9
1.3.2 Bảo hiểm y tế tự nguyện ................................................................................ 10
1.3.3 Bảo hiểm y tế nhân đạo ................................................................................. 11


1.4 BẢO HIỂM Y TẾ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .................................... 11
1.4.1 Bảo hiểm y tế với nguyên tắc bắt buộc ở Pháp ............................................ 11
1.4.2 Bảo hiểm y tế toàn dân ở Cộng hòa Liên bang Đức .................................... 13
1.4.3 Bảo hiểm y tế ở Nhật Bản ............................................................................. 14
1.4.4 Bảo hiểm y tế ở Hàn Quốc ............................................................................ 15
1.4.5 Bảo hiểm y tế ở Trung Quốc.......................................................................... 17
1.4.6 Bảo hiểm y tế ở Đài Loan.............................................................................. 17
1.4.7 Bảo hiểm y tế ở Philippin............................................................................... 18
1.5. NHẬN XÉT VÀ RÚT RA BÀI HỌC CHO VIỆT NAM .................................. 19


Trang 2

CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU THỰC TRẠNG BẢO HIỂM Y TẾ TẠI VIỆT NAM
........................................................................................................................21
2.1 VAI TRÒ CỦA BHYT Ở VIỆT NAM ................................................................ 21
2.1.1 Sự ra đời của BHYT Việt Nam những năm 1980 - 1992.............................. 21
2.1.2 Vai trò cuả BHYT trong nền kinh tế thò trường tại Việt Nam ..................... 22
2.2 TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI BHYT TẠI VIỆT NAM........................................ 24

2.2.1 Triển khai thực hiện chính sách BHYT trong cả nước (1992 – 1997)24
2.2.2 Đổi mới toàn diện chính sách, quản lý tập trung BHYT (1998 – 2002)
................................................................................................................26
2.2.3 Xây dựng lộ trình tiến tới BHYT toàn dân (2003 – Nay) ...................28
2.3 TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG QUỸ BHYT.................................. 31

2.3.1 Biểu phí và mức độ khai thác thẻ BHYT.............................................31
2.3.2 Tình hình thu BHYT ..............................................................................34
2.3.3 Phân phối và sử dụng nguồn thu BHYT ..............................................35
2.4 NHỮNG THÀNH TỰU VÀ NHỮNG HẠN CHẾ .............................................. 44


2.4.1 Những thành tựu đạt được .....................................................................44
2.4.2 Những mặt còn hạn chế ........................................................................46
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN BHYT ...........
TOÀN DÂN TẠI VIỆT NAM......................................................................55
3.1 PHƯƠNG HƯỚNG THỰC HIỆN BHYT TOÀN DÂN ..................................... 55

3.1.1 Mục tiêu .................................................................................................55
3.1.2 Nền tảng cơ sở thực hiện BHYT toàn dân tại Việt Nam ....................56
3.1.3 Đònh hướng phát triển BHYT toàn dân ................................................61
3.2 GIẢI PHÁP THỰC HIỆN BHYT TOÀN DÂN ................................................. 61

3.2.1 Giải pháp trước mắt ...............................................................................61
3.2.2 Giải pháp dài hạn tiến đến BHYT toàn dân ........................................76
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


Trang 3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ
1.1 NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA BẢO HIỂM Y TẾ
1.1.1 Nguồn gốc của Bảo hiểm Y tế
Bảo hiểm Y tế (BHYT) được hình thành kể từ khi nền công nghiệp và
kinh tế hàng hóa đang trong giai đoạn phát triển. Đây chính là quá trình đấu
tranh cho quyền lợi của người lao động đối với người chủ thuê mướn nhân công.
Người thuê mướn nhân công chỉ trả cho người lao động một mức lương với hàm
ý chỉ là trả tiền công trong thời gian người lao động còn làm việc. Nhưng khi
người lao động bò ốm đau, thai sản, tai nạn, tuổi già… và không thể làm việc

được thì làm sao họ có thể trang trải những chi phí thiết yếu cho cuộc sống đầy
khó khăn của mình?
Xét về mặt y học, sức khỏe của con người chứa đựng những rủi ro rất lớn
bao gồm: các bệnh theo tuổi tác, theo nghề nghiệp, theo sự phát triển của môi
trường sinh sống, tai nạn,… Vào một thời điểm nào đó của cuộc sống con người,
một hay nhiều yếu tố đó sẽ tạo ra một rủi ro ngoài ý muốn cho họ. Như vậy
người lao động cần phải có nguồn tài chính để dự phòng cho cuộc sống khi họ
gặp khó khăn, chính vì vậy họ buộc phải đấu tranh để mức lương họ nhận được
ngoài nội dung là chi trả công sức lao động còn phải được bao hàm cả nội dung
đảm bảo cuộc sống khi người lao động chẳng may bò tai nạn, ốm đau. Người lao
động đã phải trãi qua một cuộc đấu tranh trường kỳ và bền bó để buộc những
người chủ cam kết thực hiện các yêu cầu này.
Một khi rủi ro xảy ra, người lao động rất cần nhận được sự động viên, an
ủi về tâm lý – tinh thần, được bù đắp vật chất, được bồi dưỡng sức khỏe (các kỹ
thuật trò liệu, phục hồi chức năng, điều dưỡng…) để họ ổn đònh cuộc sống, tái hòa
nhập xã hội và sớm trở lại với môi trường lao động sản xuất. Với tài chính của


Trang 4

từng cá nhân sẽ khó có thể bù đắp đủ các khoản chi phí khi họ ốm đau, nhưng
nếu mọi người cùng đóng góp thường xuyên để hình thành một quỹ dự phòng
chung với mục đích là để giúp trang trải những chi phí vật chất cho mỗi cá nhân
tham gia quỹ khi họ gặp rủi ro, thì việc bù đắp khó khăn tài chính cho mỗi cá
nhân đó sẽ khả thi và dễ dàng hơn.
Để hình thành một quỹ chung như vậy, nhất thiết phải có một tổ chức
trung gian đứng ra thực hiện việc quản lý các nguồn của quỹ. Tổ chức trung gian
này giúp thực hiện những cam kết đã được thỏa thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động, thay vì người chủ phải trả một lần những khoản tiền lớn
khi chẳng may người lao độngï gặp rủi ro tai nạn ốm đau, giải pháp tối ưu được

thỏa thuận là người sử dụng lao động chỉ phải trả mỗi lần những khoản tiền nhỏ
và nộp đều đặn vào quỹ. Có như vậy công việc sản xuất kinh doanh của người
chủ sẽ không bò ảnh hưởng lớn vào một thời điểm nào đó khi rủi ro xảy ra và họ
cảm thấy việc chi trả rủi ro cho người lao động dễ dàng được thực hiện hơn.
BHYT đóng vai trò là tổ chức trung gian được đề cập ở trên và đã có lòch
sử ra đời hàng trăm năm nay. BHYT là một chính sách xã hội lớn, là loại hình
bảo hiểm đặc biệt, mang ý nghóa nhân đạo cộng đồng sâu sắc, góp phần quan
trọng thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Vào năm 1890, tại Pháp đã có một tổ chức dưới dạng một cơ quan xã hội có
chức năng gần giống BHYT.
1.1.2 Bản chất của BHYT
1.1.2.1 BHYT là chính sách xã hội
Đối tượng tham gia BHYT bắt buộc là những người làm công ăn lương ở
các cơ quan, xí nghiệp có vốn đầu tư trong và ngoài nước; những người được
hưởng chính sách ưu đãi có công cách mạng, hưởng chính sách bảo hiểm xã hội


Trang 5

bắt buộc và người nghèo. Vì là chính sách xã hội nên mức đóng BHYT rất thấp
và quỹ BHYT là một khoản phụ thêm vào chi phí y tế. Đây không phải là một
loại hình bao cấp của nhà nước cho các chi phí y tế, mà thực chất BHYT là một
biện pháp của chính phủ nhằm huy động các nguồn lực của xã hội vào sự nghiệp
chăm sóc sức khỏe (CSSK) nhân dân, BHYT san sẻ khó khăn giữa những người
có thu nhập và những người thuộc diện chính sách xã hội, những người nghèo…
thông qua đó BHYT góp phần tạo sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe cho
mọi người dân.
Do diện BHYT bắt buộc là mục tiêu chính của chính sách BHYT của
quốc gia nên nhà nước xếp cơ quan BHYT vào loại hình hành chánh sự nghiệp,
các sản phẩm dòch vụ BHYT bắt buộc phải tuân theo các qui đònh của nhà nước

được đònh hướng theo từng giai đoạn phát triển của quốc gia.
BHYT tự nguyện bao gồm các đối tượng không thuộc các diện nêu trên.
Và ngay cả trong trường hợp này, BHYT tự nguyện cũng vẫn là một hình thức
thực hiện chính sách xã hội áp dụng rộng rãi trong các tầng lớp dân chúng. Điều
này đã được tái xác nhận trong Luật kinh doanh bảo hiểm trong đó không chi
phối loại hình BHYT tự nguyện. Quỹ BHYT chỉ là một quỹ trợ giúp vào quỹ an
sinh xã hội của chính phủ, các đối tượng BHYT tự nguyện này sẽ là cơ sở để
hình thành nên thò trường CSSK tại Việt Nam.
1.1.2.2 BHYT là dòch vụ kinh doanh, thương mại
Kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế của nền kinh tế thò trường, vì
vậy cần tiến hành “thương mại hóa” trong lónh vực y tế với mục tiêu đáp ứng
cao nhất nhu cầu CSSK cho mọi người dân. BHYT cũng cần phải được xem là
một dòch vụ kinh doanh thương mại. Hiện nay, các dòch vụ CSSK đang bò giới
hạn bởi rào cản tài chính; quỹ BHYT tuy có một khoản thu đáng kể nhưng chi


Trang 6

cho dòch vụ CSSK thì rất đa dạng, chi phí khám chữa bệnh cao thấp tùy thuộc
vào từng loại bệnh. Với một mức thu phí gần như ngang nhau, BHYT sẽ không
mang tính công bằng trong phân phối, do vậy tính chất thương mại vẫn chưa
được thể hiện rõ.
Điều tiết và phân phối lại thu nhập cho toàn xã hội là một chức năng nổi
bật và có vai trò then chốt của BHYT. Với hệ thống dòch vụ y tế phát triển rộng
khắp trong cộng đồng xã hội, BHYT đã lấy số đông bù số ít và thực hiện chức
năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang, giữa những người
có thu nhập cao với những người lao động có thu nhập thấp, giữa những người
khỏe mạnh đang làm việc với những người ốm đau và khái quát hơn là giữa số
đông những người đóng góp vào quỹ bảo hiểm.
BHYT đã huy động được khoảng 20% kinh phí cho ngành Y tế, chính

khoản kinh phí này đã góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng về tài chính cho Ngân
sách nhà nước, nguồn thu này cũng đồng thời giúp đầu tư trang thiết bò, máy móc
phục vụ công tác khám chữa bệnh, góp phần nâng cao chất lượng khám và điều
trò. Ngoài ra, quỹ BHYT còn được dùng để đầu tư phát triển sản xuất đối với nền
kinh tế thông qua việc sử dụng tiền nhàn rỗi của quỹ để đầu tư tín phiếu, trái
phiếu do Kho bạc nhà nước phát hành. Điều này góp phần làm tăng nguồn dự
trữ của BHYT và lành mạnh nền tài chính của quốc gia.
Có thể nói sản phẩm của BHYT cung cấp ra thò trường chính là các dòch
vụ CSSK, qui luật cung cầu của thò trường vẫn được thể hiện rõ nét giữa một bên
là các dòch vụ y tế với chi phí y tế tương ứng và bên kia là cầu của người có thẻ
BHYT. Như vậy, BHYT thực chất là một dòch vụ có bản chất thuộc loại hàng
hóa – dòch vụ công, vì vậy, sự can thiệp của Chính phủ là rất cần thiết để hạn
chế các khuyết tật thò trường (như giảm bớt các tác động tiêu cực trên các mặt


Trang 7

xã hội, giảm bớt bất bình đẳng trong phân phối thu nhập…) và giúp điều hòa các
lợi ích xã hội trong đó có chính sách BHYT.
1.2 VAI TRÒ CỦA BHYT
1.2.1 Xét về mặt xã hội
BHYT là một chính sách an sinh xã hội của Nhà nước trong lónh vực chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Đó là sự đảm bảo cho mọi người khi có bệnh
đều được khám chữa bệnh, là quyền được hưởng các dòch vụ y tế căn cứ vào nhu
cầu của bệnh tật và quyết đònh của thầy thuốc; và quyền được BHYT thanh toán
hộ chi phí khám chữa bệnh theo quy đònh của Nhà nước. BHYT huy động sự
đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để tăng cường chất lượng
trong việc KCB; góp phần thực hiện công bằng xã hội và công bằng trong lónh
vực y tế… Đây chính là sự đảm bảo công bằng xã hội đối với những nhu cầu thiết
yếu cơ bản của con người.

Tham gia BHYT là thể hiện sự đoàn kết, giúp đỡ và tương trợ lẫn nhau
trong đời sống cộng đồng. Đó chính là một nhân tố để ổn đònh và phát triển xã
hội. Mặt khác, sự san sẻ trong cộng đồng, giúp đỡ những người bất hạnh còn
nhằm hoàn thiện những giá trò nhân bản của con người làm cho mọi người cảm
nhận được rằng họ đang sống tốt hơn, cao đẹp hơn, đảm bảo cho một xã hội phát
triển lành mạnh. Do đó, thực hiện BHYT góp phần xây dựng một xã hội công
bằng, văn minh và phát triển.
Thông qua BHYT, Nhà nước còn thực hiện chính sách xã hội của mình.
Mỗi một Nhà nước đều có một chính sách riêng phục vụ cho mục đích chính trò
của quốc gia mình. Do Nhà nước ta là “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”,
với quan điểm uống nước nhớ nguồn nên đã thực hiện chế độ BHYT bắt buộc
đối với các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội như gia đình thương binh, liệt


Trang 8

só, bà mẹ Việt Nam anh hùng… bằng một chế độ ưu đãi đặc biệt là được Ngân
sách nhà nước cấp kinh phí để mua thẻ BHYT và được quỹ BHYT chi trả 100%
chi phí KCB theo giá viện phí hiện hành.
Đối với nước ta, trong quá trình chuyển đổi từ mô hình hệ thống y tế Nhà
nước phúc lợi XHCN dưới sự bao cấp của ngân sách nhà nước sang một mô hình
hệ thống y tế đa dạng là Nhà nước và nhân dân cùng làm, đó là một đổi mới
quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần
đắc lực vào công cuộc xây dựng bồi dưỡng nguồn lực cho đất nước trong quá
trình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
1.2.2 Xét về mặt kinh tế
BHYT là một hình thái kinh tế, tính kinh tế của BHYT được thể hiện ở
những góc độ khá rộng là chính sách huy động nguồn tài chính cho y tế, giám sát
việc cung ứng dòch vụ y tế ở các cơ sở KCB, sử dụng đồng tiền sao cho đúng
mục đích và có hiệu quả. Tính kinh tế trong BHYT còn là sự tương trợ chia sẻ

rủi ro, trợ giúp tài chính của số đông cho một số ít người không may đau ốm,
bệnh tật mà bản thân và gia đình họ không đủ điều kiện tài chính để tự chi trả
chi phí KCB, nhất là trong các trường hợp bệnh nặng, điều trò dài ngày, tốn kém.
Điều tiết và phân phối lại thu nhập đối với toàn xã hội là một chức năng
quan trọng của BHYT. Thông qua hệ thống dòch vụ y tế xã hội, BHYT đã lấy số
đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc
và chiều ngang, giữa những người khỏe mạnh đang làm việc với những người
ốm đau và khái quát hơn là giữa số đông những người đóng góp vào quỹ.
BHYT với các loại hình chăm sóc sức khỏe ban đầu có tác dụng to lớn
trong việc giảm chi phí KCB cho toàn xã hội. Đặc biệt, thực hiện chăm sóc sức
khỏe ban đầu tốt sẽ góp phần làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, chết và tàn tật, đồng


Trang 9

thời sẽ tạo điều kiện cho cơ thể phát triển khỏe mạnh góp phần làm nâng cao
năng suất lao động xã hội, và làm giàu cho đất nước.
BHYT góp phần nâng cao chất lượng khám và điều trò, mang lại hiệu quả
kinh tế lớn cho xã hội. Mặt khác, BHYT góp một phần quan trọng vào việc tái
sản xuất sức lao động đối với CBCNVC ngành Y tế thông qua việc trích thưởng
tiền thu viện phí của các đối tượng tham gia BHYT.
Ngoài mục đích dùng để thanh toán chi phí KCB cho người có thẻ BHYT,
quỹ BHYT còn được sử dụng cho mục tiêu đầu tư, điều này thể hiện rõ hình thái
kinh tế của quỹ BHYT: không những góp phần làm tăng tài chính của quỹ mà
còn phát triển tài chính và kinh tế quốc gia.
1.3 CÁC LOẠI HÌNH BHYT
1.3.1 Bảo hiểm y tế bắt buộc
Là loại hình BHYT mà đối tượng tham gia, mức đóng và trách nhiệm
đóng của cá nhân người lao động, chủ sử dụng lao động và tổ chức do chính phủ
quy đònh theo luật đònh. Bảo hiểm bắt buộc còn gọi là bảo hiểm pháp đònh,

quyền lợi và nghóa vụ của hai bên đương sự của loại bảo hiểm này có hiệu lực
pháp luật nhà nước. Bảo hiểm bắt buộc có những đặc điểm sau:
-

Tính toàn diện: tất cả các đối tượng bảo hiểm trong phạm vi quy đònh của
pháp lệnh, bất kể là người có muốn hay không, đều phải tham gia bảo hiểm
theo pháp luật.

-

Mức bảo hiểm thường xác đònh theo tiêu chuẩn thống nhất mà Nhà nước quy
đònh không phải do người được bảo hiểm tự chọn.
Ở Việt Nam, theo Quyết đònh số 722/QĐ-BHXH-BT, BHYT bắt buộc

được áp dụng đối với những trường hợp sau:


Trang 10

-

Người lao động trong danh sách lao động thường xuyên, lao động hợp đồng từ
đủ 3 tháng trở lên làm việc trong:
+ Các doanh nghiệp Nhà nước, kể cả các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ
trang;
+ Các tổ chức kinh tế thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, tổ chức Đảng,
các tổ chức chính trò – xã hội;
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công
nghiệp tập trung;
+ Các đơn vò, tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên.


-

Cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp.

-

Đại biểu Hội đồng nhân dân đương nhiệm các cấp không thuộc biên chế Nhà
nước hoặc không hưởng chế độ BHXH hàng tháng.

-

Người đang hưởng chế độ hưu trí, hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng do suy
giảm khả năng lao động.

-

Thân nhân só quan tại ngũ theo qui đònh.

-

Lưu học sinh nước ngoài tại Việt Nam theo qui đònh.

-

Người nghèo được hưởng chế độ KCB theo qui đònh.

-

Người có công với cách mạng theo quy đònh của pháp luật.


-

Các đối tượng bảo trợ xã hội.

1.3.2 Bảo hiểm y tế tự nguyện
Là loại hình BHYT mà đối tượng tham gia không phải do Nhà nước quy
đònh; phạm vi bảo hiểm, mức đóng và quyền lợi của người tham gia tùy thuộc


Trang 11

vào đề án BHYT tự nguyện của đơn vò chủ dự án đã được duyệt của các cấp có
thẩm quyền và sự lựa chọn của người tham gia.
BHYT tự nguyện rất đa dạng, có nhiều loại như: BHYT học sinh, BHYT
cho nông dân, BHYT cho các nghiệp đoàn… Trong đó BHYT học sinh là lực
lượng cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn trong BHYT tự nguyện hiện nay của BHYT
Việt Nam. BHYT tự nguyện được áp dụng cho tất cả mọi người dân không phân
biệt tuổi tác, tôn giáo, dân tộc… kể cả những người tham gia BHYT bắt buộc vẫn
có thể tham gia BHYT tự nguyện về một nội dung nào đó do họ lựa chọn.
1.3.3 Bảo hiểm y tế nhân đạo
p dụng trong các trường hợp có sự trợ giúp của các tổ chức chính phủ và
phi chính phủ; các tổ chức từ thiện trong ngoài nước, các hiệp hội quốc tế, các cá
nhân có nhu cầu đóng BHYT cho các đối tượng dân cư cần có sự giúp đỡ từ
thiện để có thẻ BHYT.
1.4 BẢO HIỂM Y TẾ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.4.1 Bảo hiểm y tế với nguyên tắc bắt buộc ở Pháp
Tại Pháp, hệ thống tổ chức BHYT được chia thành 3 cấp theo ngành dọc:
-


Quỹ BHYT quốc gia (trung ương): là cơ quan quản lý nhà nước, gồm có Hội
đồng quản trò và ban lãnh đạo.

-

Quỹ BHYT vùng (khu vực): tự hạch toán để hoạt động, nhưng theo qui chế
của nhà nước, gồm 16 quỹ khu vực (liên tỉnh) và 4 quỹ bảo hiểm xã hội hải
ngoại (vùng đảo).

-

Quỹ BHYT cơ sở: có 129 quỹ cơ sở (cấp tỉnh, thành).


Trang 12

Ngoài ra, mỗi quỹ BHYT khu vực hoặc tỉnh có một tổ chức ngang cấp để
thu nguồn ngân sách BHYT, độc lập với các quỹ cơ sở. Đó là hiệp hội tạo ngân
sách bảo hiểm xã hội điạ phương.
BHYT ở Pháp với nguyên tắc bắt buộc tham gia, hoạt động có hiệu quả,
với gần 90% số dân tham gia. Bên cạnh đó là hệ thống các hội tương tế, vận
động sự tự nguyện của nhân dân, đạt 69,3% người tham gia. BHYT ở Pháp là
một hệ thống khép kín hoàn hảo, tổ chức hợp lý, chi tiết về: nguồn thu, nguyên
tắc chi, kiểm tra hỗ trợ. BHYT góp quỹ và tham gia tích cực vào những vấn đề
ưu tiên cho việc bảo vệ sức khỏe nhân dân, như dự phòng, giáo dục sức khỏe,
tuyên truyền vận động, thông tin y tế. Hệ thống BHYT Pháp được đánh giá là
một trong những tổ chức BHYT tốt nhất thế giới.
Bảng1.1 : Phân bố nguồn thu ngân sách BHYT Pháp
NGUỒN THU


% TỔNG NGÂN SÁCH

Giới chủ và cơ quan đóng cho người bảo hiểm

66,0

Bản thân người bảo hiểm đóng

29,5

Nhà nước chuyển từ thuế

1,9

Các nguồn khác

2,6

Nguồn: Bảo hiểm y tế Pháp

Việc thu quỹ BHYT phải nộp về cấp Trung ương tại Pháp đã hình thành
một hệ thống ngành dọc, hạch toán thống nhất toàn ngành. Việc sử dụng quỹ
BHYT tại Pháp khá chặt chẽ, hợp lý nhưng khá cồng kềnh và chậm chạp mặc dù
đã được quản lý bằng hệ thống vi tính đồng bộ và hữu hiệu.


Trang 13

1.4.2 Bảo hiểm y tế toàn dân ở Cộng hòa Liên bang Đức
Khoảng 92% người dân ở Đức được chăm sóc sức khỏe bằng bảo hiểm y

tế theo luật đònh, được gọi tắt là GKV. Cuối năm 1992, GKV hoạt động dựa trên
khoảng 1.200 các quỹ ốm đau phi lợi nhuận, các quỹ này thu bảo hiểm từ các
thành viên tham gia và chi trả cho những nhà cung cấp dòch vụ CSSK theo các
hợp đồng đã thỏa thuận. Ước tính khoảng 0.3% dân số ở Đức không có BHYT,
thông thường họ là những người giàu có không cần BHYT và những người rất
nghèo chỉ nhận BHYT bằng trợ giúp xã hội.
Người chủ và người làm thuê, mỗi người phải trả phân nửa mức phí bảo
hiểm, giữa đầu thập niên 1990 mức phí này được tính trung bình giữa 12% - 13%
thu nhập tổng cộng của công nhân đến mức thu nhập trần. Phí được tính theo thu
nhập hơn là theo rủi ro và không bò ảnh hưởng bởi tình trạng hôn nhân của người
tham gia, số lượng người trong gia đình, hay là vấn đề sức khỏe. Những người
thất nghiệp vẫn thường tham gia bảo hiểm qua các quỹ ốm đau. Đóng góp của
họ được chi trả bởi văn phòng chính phủ đòa phương hay liên bang, với một phần
ba thu nhập từ văn phòng trợ giúp xã hội ở đòa phương. Đóng góp của những
người nghỉ hưu được chi trả bằng chính những người được hưởng trợ cấp và quỹ
trợ cấp của họ. Như thế, chương trình BHYT công cộng ở Đức phân phối lại từ
nhóm có thu nhập cao đến nhóm có thu nhập thấp hơn, từ người khỏe mạnh cho
người ốm đau, từ người trẻ cho người già, từ người đang đi làm cho người đang
thất nghiệp, và từ người không có con cái đến những người có con cái.
Xuất phát từ yếu tố nghề nghiệp của các thành viên tham gia, một số quỹ
tập trung nhiều hơn sức khỏe toàn diện cho những người nghèo, con số những
người sống dựa vào trợ cấp và những người được hưởng trợ cấp thường được
quan tâm trong số các thành viên tham gia; đồng thời, kết hợp với nhiều yếu tố


Trang 14

khác, phí bảo hiểm có thể được sắp xếp từ mức thấp khoảng 6,5% đến mức cao
như 16% trên thu nhập tổng cộng của những thành viên. Để chống lại sự mất cân
đối này, một quỹ dự trữ quốc gia sẽ thực hiện việc chi trả cho các quỹ có tỷ lệ

cao những người được hưởng trợ cấp.
Khoảng 11% những người Đức chi trả cho BHYT tư nhân được cung cấp
bởi khoảng 40 tổ chức bảo hiểm vì lợi nhuận. Một tỉ lệ cao của BH tư nhân đang
được lựa chọn bởi các công chức là những người muốn bảo hiểm chi trả cho họ
khoảng 50% chi phí khám chữa bệnh là khoản chi phí chính phủ không chi trả.
1.4.3 Bảo hiểm y tế ở Nhật Bản
Sau khoảng thời gian hơn 40 năm thực hiện BHYT toàn dân, khủng hoảng
tài chính do sự mất cân đối thu chi đang là thử thách lớn nhất của quỹ BHYT ở
Nhật Bản. Theo dự báo của BHYT Nhật bản, năm 2001 quỹ tiếp tục bội chi
khoảng 4,9 tỉ USD. Sau nhiều năm liên tục bội chi, quỹ dự phòng của BHYT
quốc gia Nhật hoàn toàn cạn kiệt vào năm 2001.
Xét về lòch sử phát triển, Nhật Bản bắt đầu thực hiện luật BHYT bắt buộc
từ năm 1922. Vào năm 1950, Hội đồng Bảo hiểm thuộc Chính phủ Nhật Bản
được thành lập, Hội đồng này đã khuyến cáo Chính phủ thực hiện chính sách
BHYT toàn dân. Tuy vậy, điều này vẫn chưa được đáp ứng kòp thời, tới năm
1961 Nhật mới bắt đầu triển khai BHYT toàn dân. Nhật bắt đầu triển khai
BHYT toàn dân ở mức GDP khởi điểm là 4.700 USD/đầu người/năm. Có thể
phân quỹ BHYT chính ở Nhật thành hai loại: Loại quỹ thứ nhất là BHYT quốc
gia (National Health Insurance) bao gồm thành viên là những người lao động tự
do, nông dân và người không có nghề nghiệp, quỹ này có khoảng 45 triệu người
tham gia. Loại thứ hai là BHYT của người làm công ăn lương với khoảng 61
triệu thành viên. Bệnh nhân BHYT tại Nhật Bản cùng chi trả chi phí khám chữa


Trang 15

bệnh theo các mức khác nhau: người lao động tự do tự trả 30%, công chức trả
20% và người lao động hưởng lương tự trả 10% chi phí KCB...
Nhu cầu cấp bách của hệ thống BHYT Nhật bản hiện nay là làm sao giảm
thiểu chi phí y tế nhưng vẫn đảm bảo chất lượng của các dòch vụ y tế. Ba giải

pháp cơ bản đang được triển khai là:
• Sử dụng các loại thuốc ở mức độ hợp lý,
• Phương thức thanh toán theo phí dòch vụ (fee for service) sẽ được thay đổi
bằng phương thức thanh toán khác,
• Thực hiện khám chữa bệnh theo tuyến chuyên môn – kỹ thuật.
1.4.4 Bảo hiểm y tế ở Hàn Quốc
Hàn Quốc ban hành Luật BHYT bắt buộc toàn dân vào năm 1977 và sau
12 năm, vào năm 1989 gần 100% người Hàn Quốc có BHYT. Hàn Quốc bắt đầu
triển khai BHYT toàn dân khi GDP đạt mức 1.500USD bình quân đầu
người/năm. Tổng chi phí cho y tế năm 1996 là 27 tỉ USD, chiếm 5,89% GDP,
thấp hơn so với các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
Trong những năm giữa thập kỷ 90, Hàn Quốc lâm vào tình trạng bội chi
quỹ BHYT. Vì vậy Hàn Quốc bắt buộc phải chuyển đổi phương thức thanh toán
theo phí dòch vụ sang phương thức thanh toán theo chẩn đoán vào năm 1997. Cơ
sở thanh toán theo phương thức này được áp dụng theo bảng phân loại nhóm
bệnh chẩn đoán được các chuyên gia y tế phân loại, thống nhất về giá với cơ
quan Bảo hiểm. Về phân loại nhóm bệnh có thể sử dụng Bảng phân loại Quốc
tế bệnh tật (International Classification Diseases) được Tổ chức Y tế thế giới
triển khai xây dựng và ban hành.


Trang 16

Năm 1997, có 3% dân số là người nghèo ở Hàn Quốc được cấp thẻ
BHYT. BHYT thu 5,3 tỉ USD, trong đó 64,5% do người tham gia BHYT đóng
góp, nhà nước hỗ trợ 13,2%. Phần còn lại lấy từ nguồn lãi do đầu tư, tăng trưởng.
Mức đóng BHYT tính theo thu nhập hoặc tài sản cố đònh. Thông thường người
lao động đóng 2-8% thu nhập, số còn lại do chủ sử dụng lao động đóng. Công
chức đóng 4,2% thu nhập, chính phủ cùng nộp 4,2%. Đối với người lao động tự
do, mức đóng được tính theo mức xếp loại thu nhập hoặc tài sản cố đònh. Ngân

sách Nhà nước hỗ trợ 30% mức phí để đảm bảo chi quản lý.
Tỷ lệ cùng chi trả KCB BHYT tại Hàn Quốc là rất cao. Năm 1997, người
dân tự trả 61,1% chi phí ngoại trú và 39,3% chi phí nội trú). Năm 1998 người dân
Hàn Quốc vẫn tự chi trả tới 58% tổng chi phí chăm sóc sức khỏe. BHYT Hàn
Quốc không chi trả chi phí các kỹ thuật xét nghiệm siêu âm, cộng hưởng từ hạt
nhân, điều trò bằng y học cổ truyền, chi phí giường bệnh ở phòng bệnh có dưới 6
giường. Mức cùng chi trả là 20% đối với điều trò nội trú, từ 40% đến 55% đối với
khám chữa bệnh ngoại trú.
Giá thuốc do BHYT quy đònh thống nhất, các thuốc có cùng tên gốc dù
khác xuất xứ đều có cùng một giá. Các xét nghiệm kỹ thuật cao (trừ CT scanner)
chưa được BHYT thanh toán (thời điểm 1999). Tuy vậy, quỹ BHYT Hàn Quốc
vẫn đang trong tình trạng khó khăn (dự báo bội chi 3 tỉ USD năm 2001).
Tháng 10 năm 1998, nhằm tiết giảm chi phí quản lý và đối phó với tình
trạng mất cân đối của các quỹ BHYTù, Hàn Quốc triển khai cải cách lớn trong tổ
chức BHYT, thực hiện hợp nhất các quỹ BHYT thành một hệ thống quản lý
thống nhất trong cả nước, trực thuộc Bộ Y tế và Phúc lợi xã hội.


Trang 17

1.4.5 Bảo hiểm y tế ở Trung Quốc
Là quốc gia châu Á đông dân nhất trên thế giới, hệ thống BHYT tại
Trung Quốc được phân thành 2 hình thức chính: BHYT đối với công nhân, do Bộ
lao động thực hiện và BHYT vùng nông thôn, do Bộ Y tế đảm trách.
Nhiều hình thức BHYT tại Trung Quốc đã phát triển trên 30 năm nay với
sự khác nhau rất nhiều tùy theo mỗi khu vực. Các loại hình BHYT bao gồm:
BHYT cho nông dân; BHYT cho trẻ em từ 0-14 tuổi; Bảo hiểm tiêm chủng mở
rộng cho trẻ em; Bảo hiểm sinh đẻ; BHYT cho công nhân xí nghiệp đòa phương.
BHYT ở Trung Quốc chủ yếu phát triển ở diện rộng và có sự quản lý của nhà
nước, mọi tầng lớp cộng đồng đều tham gia (từ trẻ em đến người lớn, nông dân

đến công nhân thành thò).
Hiện nay, Trung Quốc đang tập trung vào việc xem xét luật pháp và điều
lệ nhằm tìm kiếm sức mạnh cho hệ thống BHYT ở khu vực nông thôn. Các mục
tiêu chính được đặt ra bao gồm:
o Thiết lập luật pháp và điều lệ BHYT cho phù hợp điều kiện kinh tế quốc gia;
o Thử nghiệm hệ thống quản lý BHYT với 4 cấp: quốc gia, tỉnh, quận, thò xã.
o Hình thành các Trung tâm huấn luyện nghe nhìn cho các bác só và y tá ở
nông thôn Trung Quốc.
o Thử nghiệm hệ thống BHYT ở các khu vực có điều kiện kinh tế khác nhau.
o Từ bốn hoạt động trên, kinh nghiệm đạt được từ khu vực thành công sẽ được
nhân rộng ra trên toàn quốc.
1.4.6 Bảo hiểm y tế ở Đài Loan
Chính phủ Đài Loan công bố chính sách BHYT toàn dân, thực hiện chế
độ BHYT bắt buộc từ 1/5/1995. Vào thời điểm này, số lao động trong khu vực


Trang 18

nông nghiệp của Đài Loan chỉ còn khoảng 10%, GNP đạt khoảng 11.000
USD/người/năm. Đối tượng thực hiện BHYT toàn dân là tất cả công dân, trừ
công chức nhà nước và tù nhân (được chế độ khám chữa bệnh miễn phí). Người
lao động nước ngoài và thân nhân cư trú dài hạn tại Đài Loan cũng thuộc đối
tượng tham gia BHYT bắt buộc. Thu q BHYT như sau: cá nhân đóng 30%, chủ
sử dụng lao động 60% và Chính phủ 10% mức phí. Bình quân, một công nhân có
vợ và 2 con đóng 42 USD/tháng (504 USD/năm); mức phí là 4,25% thu nhập;
mức phí này có thể điều chỉnh nhưng không được vượt quá 6% thu nhập.
Do chi phí y tế tăng nhanh (bội chi 47 triệu USD trong năm 1998), Đài
Loan buộc phải áp dụng chế độ cùng chi trả từ 1/8/1999. Đồng thời, Đài Loan thí
điểm thanh toán theo chẩn đoán; hiện nay đang thanh toán thí điểm chi phí điều
trò nội trú cho 50 nhóm chẩn đoán. Hiện nay, Đài Loan đang thí điểm phương

thức thanh toán theo đònh suất (capitation) cho một số khu vực vùng xa và hải
đảo. Tháng 7/1999, Luật BHYT sửa đổi của Đài Loan được ban hành, hỗ trợ cho
gia đình có thu nhập thấp và đông con tham gia BHYT.
1.4.7 Bảo hiểm y tế ở Philippin
Vào thời điểm mà GDP đã đạt gần 2000 USD/người/năm vào năm 1995,
Philippin ban hành luật BHYT toàn dân. Số người tham gia BHYT ở Philippin 6
năm qua không thay đổi và dừng lại ở tỷ lệ 40% dân số, nguyên nhân là do ảnh
hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực. Năm 2010 là năm Philippin phải
đạt được độ bao phủ BHYT cho toàn dân theo như kế hoạch. Đương nhiên, gánh
nặng tài chính của Chính phủ Philippin là ở chỗ phải lo hỗ trợ BHYT cho khoảng
25 triệu người nghèo, trong khi tại thời điểm này mới chỉ có trên 400.000 người
nghèo được hưởng chế độ BHYT. Người dân Philippin hiện nay chưa được


Trang 19

hưởng chế độ BHYT khi khám chữa bệnh ngoại trú, dẫn đến bất hợp lý là việc
chỉ đònh nhiều bệnh nhân vào nội trú khi chỉ cần chăm sóc ngoại trú.
1.5. NHẬN XÉT VÀ RÚT RA BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Mục đích và phương châm hành động BHYT của các quốc gia trên thế
giới là như nhau. Đa số các quốc gia có nền kinh tế phát triển đã thực hiện
BHYT toàn dân từ rất lâu, những nguyên tắc cơ bản ở các quốc gia thực hiện
BHYT toàn dân có chung đặc điểm:
ƒ Mức phí BHYT đóng góp theo khả năng: xác đònh mức đóng BHYT là theo
thu nhập chứ không theo rủi ro. Người có thu nhập cao thì đóng phí cao,
người có thu nhập thấp thì đóng phí thấp, mức phí hoàn toàn không phụ thuộc
vào tình trạng sức khỏe của người tham gia BHYT.
ƒ Tham gia mang tính bắt buộc: là hình thức BHYT bắt buộc, mỗi cá nhân
phải có trách nhiệm thực hiện, đóng góp tạo quỹ lo sức khỏe cho cộng đồng.
Kinh nghiệm lớn nhất rút ra là BHYT tự nguyện mang tính không bền vững,

chỗ nào càng có nhiều người tham gia BHYT tư nguyện thì ở chỗ đó nguy cơ
vỡ quỹ càng lớn. Cơ chế tự nguyện tạo ra tình trạng chỉ người ốm mới tham
gia, còn người khỏe không tham gia dẫn đến hậu quả bội chi quỹ. Kinh
nghiệm của tất cả các nước thực hiện BHYT toàn dân là phải ban hành luật
tham gia bắt buộc.
ƒ Quyền lợi được hưởng của người tham gia BHYT là theo bệnh tật: mặc dù là
đóng góp theo khả năng thu nhập nhưng quyền lợi được hưởng là theo nhu
cầu điều trò bệnh, cho dù có những bệnh chi phí điều trò rất cao nhưng BHYT
cũng phải đáp ứng cho yêu cầu KCB.


Trang 20

ƒ BHYT tự nguyện chỉ là giải pháp tình thế: Trong giai đoạn chưa thể thực
hiện BHYT bắt buộc cho toàn dân thì bên cạnh hình thức BHYT bắt buộc,
cần triển khai các mô hình BHYT tự nguyện dựa trên cộng đồng cho khu vực
nông thôn, cho nông dân và người lao động tự do khác. Kinh nghiệm ở các
nước trên thế giới cho thấy trong lòch sử chưa có nước nào thành công trong
việc vận động được số đông tham gia, trừ khi qui đònh đó là BHYT bắt buộc
theo luật đònh. Kinh nghiệm chưa nhiều của một số nước đang phát triển cho
thấy hình thức BHYT dựa trên cộng đồng có thể thực hiện như một giải pháp
tình thế cho nông dân. Cần khẳng đònh hình thức BHYT tự nguyện là giai
đoạn quá độ, rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, nhưng không thể thay thế
cho BHYT toàn dân theo luật trong tương lai.
ƒ GDP phải đủ lớn: bối cảnh kinh tế xã hội của các nước trong giai đoạn triển
khai BHYT toàn dân cho thấy một điểm chung là GDP bình quân đầu người
đều đã đạt trên 1.000USD/năm. Điều kiện này đảm bảo thỏa mãn được nhu
cầu chi phí y tế cơ bản cho toàn dân.
Yếu tố cần để thực hiện BHYT cho 100% dân số là GDP phải đủ lớn để có
thể dành được tỷ lệ phù hợp, cân đối được nhu cầu chi phí y tế ngày càng cao

hiện nay. Theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội nước ta, GDP năm 2010
ước sẽ đạt trên 800USD/người. Mức tổng sản phẩm quốc nội đó có thể đáp
ứng được cho BHYT toàn dân. Như vậy ngay từ bây giơ,ø xem xét và xây
dựng một lộ trình thích hợp tiến đến BHYT toàn dân ở nước ta là điều cấp
thiết.


Trang 21

CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU THỰC TRẠNG BẢO HIỂM Y TẾ TẠI
VIỆT NAM
Tại Việt Nam, vấn đề sức khỏe và chăm sóc sức khỏe cho người dân luôn
được quan tâm hàng đầu. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghóa Việt
Nam tại điều 61 có qui đònh: “Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức
khỏe”. Vì vậy, BHYT tại Việt Nam ngoài việc thực hiện nhiệm vụ trên còn
đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia.
2.1 VAI TRÒ CỦA BHYT Ở VIỆT NAM
2.1.1 Sự ra đời của BHYT Việt Nam những năm 1980 - 1992
Đầu những năm 80, các cơ sở khám chữa bệnh thiếu kinh phí hoạt động,
cơ sở hạ tầng tại các bệnh viện từ Trung Ương đến tỉnh huyện ngày càng xuống
cấp, do áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật y tế, sử dụng các trang thiết bò
hiện đại, các loại biệt dược đắt tiền… dẫn đến kết quả chi phí khám chữa bệnh
ngày một tăng cao.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12/1986 đã khẳng
đònh đường lối đổi mới toàn diện, tạo ra bước ngoặc trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghóa xã hội ở nước ta. Nghò quyết Đại hội khẳng đònh đường lối “đổi mới
toàn diện trên mọi lónh vực”, “trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách kinh
tế”, giữ vững ổn đònh chính trò là tiền đề để bảo đảm thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới. Phải đổi mới tư duy, “trước hết là tư duy kinh tế”, “từ đổi mới tư
duy mà có chủ trương chính sách mới”, đồng thời “đổi mới về tổ chức, về cán

bộ” để thực hiện tốt nhiệm vụ đề ra. Từ giữa những năm 1998, các chủ trương,
chính sách đổi mới đã đạt được kết quả rõ rệt, kinh tế và đời sống nhân dân
được cải thiện, lòng tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới ngày càng tăng lên.


Trang 22

Nghò đònh 299/HĐBT ra đời ngày 15-08-1992 đã mở ra một thời kỳ mới
trong phương diện kinh tế tài chính của ngành y tế: đó là chính sách BHYT, một
chính sách kinh tế xã hội có tác dụng sâu sắc và rộng khắp đến đại bộ phận
người lao động. Là một bộ phận của ngành bảo hiểm nói chung, BHYT đã góp
phần đáng kể vào vai trò quỹ dự phòng và đã hỗ trợ cho kinh phí ngành y tế
trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
BHYT ra đời trong thời kỳ này là rất cần thiết nhằm đảm bảo yêu cầu
phát triển của xã hội, đảm bảo về mặt kinh tế tài chính cho ngành y tế và BHYT
đã đáp ứng kòp thời vai trò của một cơ quan trung gian, là cầu nối giữa người có
nhu cầu mua bảo hiểm (người lao động) và người có trách nhiệm chi trả các chi
phí (người lao động – chủ sản xuất) một cách không vụ lợi.
2.1.2 Vai trò cuả BHYT trong nền kinh tế thò trường tại Việt Nam
2.1.2.1 Đối với việc phát triển con người
BHYT góp phần thực hiện chiến lược phát triển con người theo đúng tinh
thần Nghò quyết lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khoá VIII đã đặt ra.
BHYT giúp đỡ tài chính cho mọi người tham gia BHYT trong lúc ốm đau,
rủi ro tai nạn. BHYT chăm lo sức khoẻ cho người già mất sức lao động, cho
người đang đi làm nhưng đồng thời cũng quan tâm đến thể chất và sức khỏe ban
đầu cho các cháu thiếu nhi, nhi đồng. Như vậy, BHYT góp phần vào việc ổn
đònh và nâng cao sức khỏe của nhân dân, là vốn quý trong việc tạo ra của cải vật
chất và tinh thần của xã hội. Ngoài ra, BHYT góp phần vào việc tạo điều kiện
giúp người dân lành bệnh và tái hòa nhập lại đời sống lao động, giúp ổn đònh

sản xuất kinh doanh cá nhân và ổn đònh bền vững xã hội.


Trang 23

2.1.2.2 Đối với việc thực hiện công bằng xã hội
Phát triển xã hội ngày càng cao sẽ kéo theo sự phân hóa giàu nghèo rõ
rệt, đó là qui luật tất yếu trong nền kinh tế thò trường. Người lao động trung bình
với đồng lương cố đònh dùng trang trải cho nhu cầu chi tiêu của cá nhân, gia đình
và ngoài xã hội ngày càng gia tăng, do vậy khoản chi phí dành cho sức khỏe bò
hạn chế và không được lưu tâm đúng mức. BHYT với phương cách lấy số đông
bù số ít, những tổn thất lẽ ra rất nặng nề, nghiêm trọng đối với một cá nhân sẽ
trở nên ít nghiêm trọng hơn đối với cộng đồng tất cả những người tham gia bảo
hiểm, nói cách khác là sự chia nhỏ tổn thất giữa những người tham gia.
Trên phạm vi nền kinh tế xã hội, bảo hiểm nói chung là một công cụ an
toàn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động ổn đònh của các thành phần trong
xã hội. BHYT góp phần vào việc an sinh xã hội về phương diện chăm sóc sức
khỏe cũng như tạo công bằng trong CSSK. BHYT với các biện pháp hỗ trợ về tài
chính hữu hiệu nhắm vào các tầng lớp vốn có nhiều yêu cầu về CSSK như người
quá nghèo, thương binh, xã hội, người có công với cách mạng… sẽ góp phần trực
tiếp trong việc đem lại công bằng về CSSK cho người dân Việt Nam.
2.1.2.3 Đối với việc xã hội hóa công tác y tế
Xã hội hóa được hiểu theo nghóa là biện pháp động viên sức người (bao
hàm cả trí tuệ và chất xám), sức của trong toàn dân vào việc thực hiện các mục
tiêu đề ra của một ngành nghề nào đó, nhất là liên quan đến phúc lợi công cộng
xã hội. Đây là một việc làm của hầu hết các quốc gia trên thế giới, vì nó không
chỉ tạo thêm nguồn lực mà còn tạo được sự tham gia của cả cộng đồng vào việc
giải quyết các vấn đề của chính bản thân họ, các phúc lợi mà họ được hưởng.
Tại Việt Nam, chủ trương xã hội hóa cũng được mở rộng ở nhiều ngành nghề,
trong đó có ngành y tế.



Trang 24

2.2 TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI BHYT TẠI VIỆT NAM
2.2.1 Triển khai thực hiện chính sách BHYT trong cả nước (1992 – 1997)
Ngày 26/08/1992, Bộ Y Tế ban hành Chỉ thò số 05/BYT/CT để triển khai
thực hiện chính sách BHYT và thành lập cơ quan BHYT tỉnh, các chi nhánh
BHYT quận huyện. Đến 31/12/1992 có 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
và ngành hoàn thành đề án khai thác BHYT, 14 tỉnh, thành phố và ngành ra chỉ
thò về việc thực hiện BHYT; có 13 tỉnh, thành phố phát hành gần 100.000 thẻ
BHYT (Tham khảo Phụ lục số 01), thu được trên 4 tỷ đồng.
Sau một năm thực hiện BHYT theo Nghò đònh 299/HĐBT, hệ thống các
văn bản pháp quy về quản lý tài chính, quản lý quỹ BHYT, các văn bản hướng
dẫn chuyên môn, nghiệp vụ BHYT đã được các Bộ ban hành, tổ chức tập huấn,
đào tạo cán bộ, và mọi hoạt động khác của BHYT đang thích nghi dần. Tuy vậy,
vẫn có nhiều tồn tại, một số thủ trưởng ở một số ngành chưa chấp hành nghiêm
chỉnh Nghò đònh của Chính phủ, không đóng BHYT, giấu mức thu nhập để đóng
mức thấp, không quan tâm đến lợi ích của toàn xã hội và nhân đạo xã hội.
Ngày 19/09/1994, liên Bộ Giáo dục & Đào tạo – Y Tế ban hành Thông tư
liên Bộ số 14/TTLB hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện cho học sinh. Nội
dung BHYT học sinh là sự kết hợp toàn diện các yêu cầu của công tác bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe cho học sinh, chăm sóc sức khỏe ban đầu tại y tế học đường.
Chính sách BHYT học sinh bắt đầu được thực hiện lan rộng trong cả nước.
Năm 1994, hệ thống tổ chức BHYT từ Trung Ương đến đòa phương được
hình thành, bao gồm 59 cơ quan BHYT (53 tỉnh, thành phố; 4 BHYT các ngành
Giao thông, Dầu khí, Cao su, Than, BHYT Việt Nam và chi nhánh tại thành phố
Hồ Chí Minh). Trong toàn hệ thống BHYT có trên 1800 cán bộ viên chức, trong
đó trình độ đại học chiếm 52,2%, trung học 32,7%.



×